Đề tài Lý luận về trách nhiệm sản phẩm và vai trò đối với bảo vệ Người tiêu dùng

Trong quá trình hoàn thiện các công cụ pháp lý bảo vệ người tiêu dùng, chế định trách nhiệm sản phẩm đã ra đời như một sự tất yếu nhằm đáp ứng yêu cầu bảo vệ người tiêu dùng một cách đầy đủ và hữu hiệu hơn. Chế định pháp luật này được áp dụng đầu tiên ở Hoa Kỳ và sau đó được tiếp nhận bởi các quốc gia ở Châu Âu (ở cấp độ Liên minh Châu Âu và quốc gia thuộc Liên minh), ở Châu Á (Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, các quốc gia ASEAN). Pháp luật về trách nhiệm sản phẩm đã được phát triển để thúc đẩy sự an toàn và bồi thường thích đáng trong các trường hợp một bên bị thương tích hoặc tổn thất từ việc sử dụng sản phẩm. Các nguyên tắc được áp dụng để đạt được mục tiêu này được sử dụng khá linh hoạt, được phát triển để cân bằng lợi ích của người sản xuất và người cung ứng với việc bảo vệ quyền lợi cho những người có thể bị ảnh hưởng từ việc sử dụng sản phẩm của họ. Từ một quan điểm và chính sách, pháp luật trách nhiệm sản phẩm đề cao trách nhiệm đưa ra những lợi ích để tích luỹ cho sự phát triển của xã hội, sản xuất, mua bán và sử dụng các sản phẩm bằng cách tạo ra các ưu đãi để sản xuất những sản phẩm không có khuyết tật hoặc đưa ra những cảnh báo phù hợp về bất kỳ sự nguy hiểm liên quan đến việc sử dụng sản phẩm. Nhiều yếu tố có ảnh hưởng đến việc tăng nguy cơ và mức độ trách nhiệm tiểm ẩn của những sản phẩm trên thị trường đó là việc tăng tính phức tạp của sản phẩm, các quy định của chính phủ can thiệp rộng hơn với những thủ tục được ban hành mới Ở góc độ lịch sử, quá trình hình thành của pháp luật về trách nhiệm sản phẩm về căn bản được đánh đồng với quá trình suy vong của học thuyết về tính tất yếu của hợp đồng (The doctrine of Privity)[1]. Theo học thuyết về tính tất yếu của hợp đồng, không thể trao quyền hay áp đặt nghĩa vụ theo hợp đồng cho bất kỳ chủ thể nào không phải là một bên của hợp đồng đó. Tính tất yếu của hợp đồng đưa đến một cách hiểu là chỉ có các bên trong quan hệ hợp đồng mới có thể kiện để yêu cầu thực thi quyền hay đòi bồi thường thiệt hại cho mình. Với quan niệm của học thuyết tính tất yếu của hợp đồng thì một người bị thiệt hại chỉ có thể kiện một người có hành vi bất cẩn nếu người đó mà một bên trong giao dịch với người bị thiệt hại. Như vậy, nghĩa vụ của một người phải có sự cẩn trọng hợp lý chỉ xuất phát từ hợp đồng và chỉ người nào cùng tham gia quan hệ hợp đồng đó mới có thể kiện vì sự vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng này. Điều đó cũng có nghĩa là khi một nhà sản xuất bất cẩn bán một sản phẩm cho một người kinh doanh bán lẻ và người kinh doanh bán lẻ đó lại bán sản phẩm cho khách hàng thì người sản xuất không phải chịu trách nhiệm gì cả. Khách hàng khi đó không có bất kỳ biện pháp nào để yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại vì không phải người bán lẻ mà chính nhà sản xuất mới là người gây ra thiệt hại. Học thuyết về tính tất yếu của hợp đồng đã thống trị đời sống pháp luật thế kỷ XIX, mặc dù các toà án cũng tạo ra một số ngoại lệ trong việc tránh để không phủ định việc đòi khôi phục quyền lợi cho những nguyên đơn bị thiệt hại dưới hình thức thương tích. Tính tất yếu của hợp đồng đã không được sử dụng trong trường hợp người bán đã lừa dối trong việc che giấu khuyết tật của sản phẩm hay sản phẩm tự nó đã có thể gây nguy hiểm hoặc có nguy hiểm nhãn tiền đối với sức khoẻ hoặc tính mạng, chẳng hạn như thuốc độc hay súng. Đối với một số toà án, việc một sản phẩm có khuyết tật kết hợp với thực tế là bị đơn có mời nguyên đơn sử dụng sản phẩm theo một cách nào đó là đủ để xác định trách nhiệm. Trong một số trường hợp, thuật ngữ nguy hiểm nhãn tiền được giải thích theo nghĩa là đặc biệt nguy hiểm với lý do xuất phát từ chính khuyết tật chứ không phải giải thích bằng chính sự nguy hiểm. Chẳng hạn như cái giàn đỡ bị lỗi, hay một lọ cà phê gây nổ có thể được xem như là nguy hiểm nhãn tiền.

doc15 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2479 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Lý luận về trách nhiệm sản phẩm và vai trò đối với bảo vệ Người tiêu dùng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CHẾ ĐỊNH TNSP VÀ VAI TRÒ CỦA CHẾ ĐỊNH NÀY DƯỚI GÓC ĐỘ BẢO VỆ NGƯỜI TIÊU DÙNG 1. Lịch sử hình thành chế định trách nhiệm sản phẩm Trong quá trình hoàn thiện các công cụ pháp lý bảo vệ người tiêu dùng, chế định trách nhiệm sản phẩm đã ra đời như một sự tất yếu nhằm đáp ứng yêu cầu bảo vệ người tiêu dùng một cách đầy đủ và hữu hiệu hơn. Chế định pháp luật này được áp dụng đầu tiên ở Hoa Kỳ và sau đó được tiếp nhận bởi các quốc gia ở Châu Âu (ở cấp độ Liên minh Châu Âu và quốc gia thuộc Liên minh), ở Châu Á (Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, các quốc gia ASEAN). Pháp luật về trách nhiệm sản phẩm đã được phát triển để thúc đẩy sự an toàn và bồi thường thích đáng trong các trường hợp một bên bị thương tích hoặc tổn thất từ việc sử dụng sản phẩm. Các nguyên tắc được áp dụng để đạt được mục tiêu này được sử dụng khá linh hoạt, được phát triển để cân bằng lợi ích của người sản xuất và người cung ứng với việc bảo vệ quyền lợi cho những người có thể bị ảnh hưởng từ việc sử dụng sản phẩm của họ. Từ một quan điểm và chính sách, pháp luật trách nhiệm sản phẩm đề cao trách nhiệm đưa ra những lợi ích để tích luỹ cho sự phát triển của xã hội, sản xuất, mua bán và sử dụng các sản phẩm bằng cách tạo ra các ưu đãi để sản xuất những sản phẩm không có khuyết tật hoặc đưa ra những cảnh báo phù hợp về bất kỳ sự nguy hiểm liên quan đến việc sử dụng sản phẩm. Nhiều yếu tố có ảnh hưởng đến việc tăng nguy cơ và mức độ trách nhiệm tiểm ẩn của những sản phẩm trên thị trường đó là việc tăng tính phức tạp của sản phẩm, các quy định của chính phủ can thiệp rộng hơn với những thủ tục được ban hành mới… Ở góc độ lịch sử, quá trình hình thành của pháp luật về trách nhiệm sản phẩm về căn bản được đánh đồng với quá trình suy vong của học thuyết về tính tất yếu của hợp đồng (The doctrine of Privity)[1]. Theo học thuyết về tính tất yếu của hợp đồng, không thể trao quyền hay áp đặt nghĩa vụ theo hợp đồng cho bất kỳ chủ thể nào không phải là một bên của hợp đồng đó. Tính tất yếu của hợp đồng đưa đến một cách hiểu là chỉ có các bên trong quan hệ hợp đồng mới có thể kiện để yêu cầu thực thi quyền hay đòi bồi thường thiệt hại cho mình. Với quan niệm của học thuyết tính tất yếu của hợp đồng thì một người bị thiệt hại chỉ có thể kiện một người có hành vi bất cẩn nếu người đó mà một bên trong giao dịch với người bị thiệt hại. Như vậy, nghĩa vụ của một người phải có sự cẩn trọng hợp lý chỉ xuất phát từ hợp đồng và chỉ người nào cùng tham gia quan hệ hợp đồng đó mới có thể kiện vì sự vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng này. Điều đó cũng có nghĩa là khi một nhà sản xuất bất cẩn bán một sản phẩm cho một người kinh doanh bán lẻ và người kinh doanh bán lẻ đó lại bán sản phẩm cho khách hàng thì người sản xuất không phải chịu trách nhiệm gì cả. Khách hàng khi đó không có bất kỳ biện pháp nào để yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại vì không phải người bán lẻ mà chính nhà sản xuất mới là người gây ra thiệt hại. Học thuyết về tính tất yếu của hợp đồng đã thống trị đời sống pháp luật thế kỷ XIX, mặc dù các toà án cũng tạo ra một số ngoại lệ trong việc tránh để không phủ định việc đòi khôi phục quyền lợi cho những nguyên đơn bị thiệt hại dưới hình thức thương tích. Tính tất yếu của hợp đồng đã không được sử dụng trong trường hợp người bán đã lừa dối trong việc che giấu khuyết tật của sản phẩm hay sản phẩm tự nó đã có thể gây nguy hiểm hoặc có nguy hiểm nhãn tiền đối với sức khoẻ hoặc tính mạng, chẳng hạn như thuốc độc hay súng. Đối với một số toà án, việc một sản phẩm có khuyết tật kết hợp với thực tế là bị đơn có mời nguyên đơn sử dụng sản phẩm theo một cách nào đó là đủ để xác định trách nhiệm. Trong một số trường hợp, thuật ngữ nguy hiểm nhãn tiền được giải thích theo nghĩa là đặc biệt nguy hiểm với lý do xuất phát từ chính khuyết tật chứ không phải giải thích bằng chính sự nguy hiểm. Chẳng hạn như cái giàn đỡ bị lỗi, hay một lọ cà phê gây nổ có thể được xem như là nguy hiểm nhãn tiền. Vụ việc đã trở thành án lệ là Macpherson kiện công ty Motor Buick (N.Y. 1916) đã mở rộng phạm vi của sản phẩm nguy hiểm tự thân hay nguy hiểm nhãn tiền và sự mở rộng này thực tế đã loại bỏ yêu cầu phải có quan hệ hợp đồng trong các trường hợp có sự bất cẩn. Vụ việc này đã xác định rằng việc không có quan hệ hợp đồng không phải là cơ sở để loại trừ trách nhiệm, nếu như với một sản phẩm được sản xuất một cách bất cẩn và người ta có khả năng nhìn thấy trước được rằng nó có thể gây thương tích cho người khác, bao gồm cả nguyên đơn. Với việc công nhận lý thuyết về sự bất cẩn, vụ việc có tính ngoại lệ này được xem như là đã phá bỏ quy tắc về tính tất yếu của hợp đồng. Án lệ MacPherson nhanh chóng trở thành một quy định có tính dẫn dắt, và trong các vụ việc có xem xét về sự bất cẩn, thì quy tắc phải có quan hệ hợp đồng đã không còn được áp dụng. Sự đồng cảm ngày càng tăng của công chúng đối với các nạn nhân của sự bất cẩn trong các ngành sản xuất cũng đóng góp vào sự suy vong của quy tắc này. Từ những năm 1930 đến những năm 1960 tại Mỹ, các nhà luật gia và các luật sư đưa ra những quan điểm về việc áp dụng trách nhiệm sản phẩm mà không cần lỗi của nhà sản xuất[2] hay còn gọi là trách nhiệm sản phẩm nghiêm ngặt (strict liability)[3]. Phán quyết của tòa án tối cao bang California (Hoa Kỳ) về vụ Escola v. Coca Cola Bottling Co. of Fresno, 24 Cal. 2d 453, 150 P.2d 436 (1944)[4] là phán quyết đầu tiên cho loại trách nhiệm sản phẩm nghiêm ngặt của nhà sản xuất. Trong vụ kiện này, nguyên đơn là một nữ bồi bàn, trong quá trình phục vụ thì vỏ chai Cocacola phát nổ làm nguyên đơn bị thương ở tay. Trong quá trình tranh tụng, mặc dù nguyên đơn không chứng minh được lỗi của công ty sản xuất vỏ chai trên, nhưng thẩm phán Roger John Traynor cho rằng, bị đơn là người chịu trách nhiệm sản xuất và đưa ra thị trường các loại vỏ chai đảm bảo an toàn cho người sử dụng, đồng thời cũng phải chịu trách nhiệm đối với các khuyết tật xảy ra trong điều kiện thông thường mà bị đơn không thể lường trước được. Đối với trách nhiệm bảo đảm, một sự giới hạn tương tự về việc phải có quan hệ hợp đồng cũng được áp dụng, một phẩn bởi vì bảo đảm được xem là một phần không tách rời của các hợp đồng bán hàng. Bắt đầu vào đầu thế kỷ 20, một ngoại lệ của quy tắc phải có quan hệ hợp đồng cũng đã hình thành với các vụ việc liên quan đến sản phẩm tiêu dùng (thức ăn, đồ uống, thuốc) và cuối cùng là các sản phẩm sử dụng trực tiếp cho cơ sở (ví dụ mỹ phẩm), và bảo đảm trong các vụ việc này được mở rộng đến người sử dụng cuối cùng. Trong các trường hợp mà có sự bảo đảm rõ ràng, chẳng hạn như sự bảo đảm được tuyên bố đối với công chúng nói chung, thì yêu cầu phải có quan hệ hợp đồng đã được loại bỏ trong những năm 30 thế kỷ 20. Chẳng hạn như một tuyên bố trong tài liệu kèm theo sản phẩm ô tô rằng kính chắn gió chống vỡ sẽ tạo thành một sự bảo đảm rõ ràng đối với người mua về việc kính chắn gió không thể vỡ (Xem án lệ Baxter kiện Công ty Ford Motor [Wash. 1932]). Đối với sự bảo đảm ngầm định, việc mở rộng các ngoại lệ đối với quy tắc phải có quan hệ hợp đồng không áp dụng đối với các sản phẩm không phải là thức ăn, đồ uống hay các sản phẩm tương tự cho tới khi có vụ việc Henningsen kiện Công ty ô tô Bloomfield (32 N.J. 358, 161 A.2d 69 (1960)). Trong vụ việc này, Toà án Tối cao New Jersey đã bác bỏ ngoại lệ về sự hạn chế của yêu cầu phải có quan hệ hợp đồng và xác định rằng sự đảm bảo ngầm định sẽ là đảm bảo với người sử dụng hoặc tiêu dùng cuối cùng của sản phẩm. Quyết định Henningsen, với tác dụng làm vô hiệu các miễn trách đối với đảm bảo ngầm định của nhà sản xuất, đã được học tập trong phần lớn các phán quyết toà án khác sau này. Từ năm 1930 đến 1960, các nhà nghiên cứu về pháp lý và một số thẩm phán đã thảo luận về việc tạo ra trách nhiệm nghiêm ngặt trong các vụ việc về bồi thương thiệt hại ngoài hợp đồng đối với các sản phẩm khuyết tật. Sự vận dụng trong ngành tư pháp được biết đến nhiều nhất là thẩm phán Toà án tối cao California Roger John Traynor trong vụ việc Escola kiện Công ty sản xuất chai Coca Cola của Fresno, 24 Cal. 2d 453, 150 P.2d 436 (1944). Một loạt các lý giải đã được đưa ra cho trách nhiệm nghiêm ngặt: sự bất cẩn thường rất khó để chứng minh; trách nhiệm nghiêm ngặt có thể được hình thành do một loạt các hành động vi phạm nghĩa vụ đảm bảo; trách nhiệm nghiêm ngặt khuyến khích các nhà sản xuất tạo ra sự an toàn cần thiết đối với sản phẩm; các nhà sản xuất ở vị trí tốt nhất để hoặc là loại trừ tính gây hại, hoặc là bảo hiểm hoặc phân bổ chi phí rủi ro; nhà sản xuất một sản phẩm tạo ra niềm tin cho người tiêu dùng rằng sản phẩm là an toàn và cần được gắn với sản phẩm. Cuối cùng, vào năm 1963, trong vụ việc Greenman kiện Yuba Power Products, Inc., 59 Cal. 2d 57, 377 P.2d 897, Toà án tối cao California đã khẳng định quy tắc về trách nhiệm nghiêm ngặt đối với các sản phẩm có khuyết tật. Trong một thời gian ngắn, quy tắc về trách nhiệm nghiêm ngặt đã lan ra khắp nước Mỹ và vào năm 2003, nó đã trở thành luật của phần lớn các bang của Hoa Kỳ và được hình thành tại các quốc gia khác trên thế giới. 2. Khái niệm và bản chất của chế định trách nhiệm sản phẩm 2.1. Khái niệm và đặc điểm trách nhiệm sản phẩm  Ở góc độ khái quát, trách nhiệm sản phẩm (product liability) được giải thích là trách nhiệm của người sản xuất hoặc người bán hàng trong việc bồi thường cho các thiệt hại gây ra bởi khuyết tật của hàng hoá mà họ đã cung cấp cho người tiêu dùng trong quá trình kinh doanh[5]. Với cách hiểu này, trách nhiệm sản phẩm có những đặc điểm sau: - Trách nhiệm sản phẩm là một loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại, tức là một loại trách nhiệm dân sự đòi hỏi người có trách nhiệm phải bù đắp bằng một cách thức phù hợp đối với thiệt hại mà người khác phải gánh chịu, dựa trên những cơ sở nhất định làm phát sinh trách nhiệm theo quy định của pháp luật. - Chủ thể của trách nhiệm là người sản xuất hoặc người bán hàng, tức là phải là một chủ thể nhất định tham gia vào quy trình đưa một sản phẩm hàng hoá đến tay người tiêu dùng. Chủ thể đó có thể có mối liên hệ trực tiếp với người tiêu dùng hoặc không có mối liên hệ trực tiếp. Điều kiện cần để xác định một chủ thể có thuộc diện phải chịu trách nhiệm chỉ phụ thuộc vào việc người đó trực tiếp có mối liên hệ đối với sản phẩm mà người tiêu dùng đã sử dụng hay không. Và mối liên hệ trực tiếp đối với sản phẩm có thể là một trong các hình thức sau: (i) là người sản xuất ra sản phẩm: người sản xuất ra sản phẩm bao gồm cả người sản xuất ra sản phẩm hoàn chỉnh hoặc là người sản xuất ra một phần, một bộ phận trong sản phẩm hoàn chỉnh đó; (ii) là người thực hiện vai trò phân phối trung gian đối với sản phẩm hoặc (iii) là người cung cấp sản phẩm đến tay của người tiêu dùng. Như vậy, về mặt nguyên tắc, trong bất kỳ trường hợp nào, đối với một sản phẩm xuất hiện trên thị trường luôn tồn tại chủ thể chịu trách nhiệm đối với sản phẩm này. - Cơ sở để xác định trách nhiệm phát sinh trên thực tế là việc sản phẩm có khuyết tật và khuyết tật đó gây ra thiệt hại cho người tiêu dùng nó: khuyết tật của sản phẩm là đặc điểm nhất định về thiết kế, chất liệu sử dụng, sự kết hợp giữa các bộ phận, thành phần hay cách thức sử dụng, vận hành… mà có khả năng gây ra thiệt hại cho người sử dụng nó trong điều kiện thông thường. Có thể nói một cách khác là một sản phẩm được coi là có khuyết tật khi sản phẩm đó không đảm bảo an toàn. Tất nhiên, yêu cầu về tính an toàn đối với sản phẩm không phải là không có giới hạn và thường được xác định ở mức độ mà công chúng có thể trông đợi một cách hợp lý: có nghĩa là không có khả năng gây ra thiệt hại khi được tiêu dùng bởi một người tiêu dùng có nhận thức thông thường, trong điều kiện thông thường. Đối với một số sản phẩm nhất định, khả năng gây thiệt hại trong điều kiện thông thường có thể không bị coi là khuyết tật của sản phẩm nếu nhà sản xuất hay cung ứng đã có cảnh báo về khả năng gây nguy hiểm cũng như đưa ra phương pháp mà người tiêu dùng có thể phòng tránh mà không ảnh hưởng đến sự tiêu dùng bình thường cũng như là tính năng của sản phẩm. Ngoài ra, tính an toàn cũng được giới hạn ở phạm vi mà điều kiện phát triển khoa học, kỹ thuật… tại mỗi giai đoạn cho phép nhận biết. Nếu khả năng nhận biết về tính không an toàn vượt quá mức độ mà sự phát triển khoa học, kỹ thuật tại thời điểm đó cho phép nhận biết thì sự không an toàn vượt quá khả năng nhận biết đó không bị coi là khuyết tật. Tuy nhiên, giống như bất kỳ chế định bồi thường thiệt hại nào, sự tồn tại thực tế của khuyết tật có thể sẽ không phát sinh trách nhiệm nếu như không có thiệt hại thực tế xảy ra. Chỉ khi có một thiệt hại thực tế xảy ra và thiệt hại đó thực sự là do khuyết tật của sản phẩm gây ra thì mới phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại và phạm vi trách nhiệm cũng sẽ nằm trong phạm vi, mức độ thiệt hại xảy ra trên thực tế gây ra bởi khuyết tật của sản phẩm đó. Như vậy, cơ sở xác định trách nhiệm phải bao gồm sự tồn tại của khuyết tật của sản phẩm, có thiệt hại thực tế xảy ra và có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại thực tế xảy ra với khuyết tật của sản phẩm. - Trách nhiệm sản phẩm là một dạng trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng: Việc xác định trách nhiệm đối với sản phẩm không có bất kỳ đòi hỏi nào về việc giữa người bị thiệt hại và nhà sản xuất, cung ứng sản phẩm phải tồn tại một quan hệ hợp đồng. Như đã phân tích, mối liên hệ giữa người phải chịu trách nhiệm và người được xác định thông qua một sản phẩm mà người phải chịu trách nhiệm là người sản xuất hoặc cung ứng và người được bồi thường thiệt hại là người tiêu dùng nó, giữa họ có thể có quan hệ hợp đồng, giao dịch trực tiếp hoặc không có quan hệ hợp đồng[6]. 2.2. Bản chất của chế định trách nhiệm sản phẩm Về bản chất, trách nhiệm sản phẩm chính là sự ràng buộc về mặt pháp luật trách nhiệm của các nhà sản xuất, phân phối cũng như người bán lẻ đối với công chúng khi cung ứng sản phẩm trên thị trường. Trách nhiệm đó thể hiện ở việc khi một sản phẩm được nhà cung cấp đưa ra thị trường, sản phẩm đó đương nhiên phải được coi là an toàn, không phụ thuộc vào việc người sản xuất hay cung ứng có công bố là sản phẩm đó có an toàn hay không. Với sự ràng buộc trách nhiệm này, để tránh những hậu quả pháp lý phải gánh chịu khi mà sản phẩm có khuyết tật gây ra thiệt hại cho người tiêu dùng, nhà sản xuất, cung ứng sản phẩm khi đưa sản phẩm ra thị trường sẽ phải nỗ lực để loại trừ khuyết tật của sản phẩm, từ đó đem lại cho người tiêu dùng những sản phẩm đảm bảo an toàn. Trong trường hợp sự an toàn không được đảm bảo và người tiêu dùng phải gánh chịu thiệt hại thì họ sẽ được bồi thường, do vậy lợi ích của người tiêu dùng sẽ được đảm bảo ở mức độ cao nhất. Với hệ thống quy định của pháp luật về trách nhiệm sản phẩm, người tiêu dùng đương nhiên được bảo vệ và không đòi hỏi phải có bất kỳ khả năng đàm phán, thuyết phục nào và không một nhà sản xuất hay cung ứng nào có thể sử dụng ưu thế của mình trong quan hệ với người tiêu dùng để loại trừ trách nhiệm này. 2.3. Phân biệt các chế định đặc thù về bảo vệ người tiêu dùng và chế định trách nhiệm sản phẩm Bản Hướng dẫn thứ năm về Bảo vệ người tiêu dùng của Liên Hợp Quốc được thông qua năm 1985 đã thấy trước được giá trị đối với người tiêu dùng về những đền bù hiệu quả cho tổn thất họ phải gánh chịu[7]. Bản Hướng dẫn này đã nêu rõ: “Các chính phủ phải xây dựng hoặc duy trì các biện pháp pháp lý và/hoặc hành chính nhằm cho phép người tiêu dùng, hoặc trong trường hợp thích hợp, các tổ chức liên quan được yêu cầu bồi thường, thông qua các thủ tục chính thức hoặc không chính thức, một cách nhanh chóng, công bằng, ít tốn kém và dễ tiếp cận. Các thủ tục này cần đặc biệt lưu ý đến các nhu cầu của những người tiêu dùng có thu nhập thấp. Thông tin về các thủ tục giải quyết đền bù và tranh chấp khác cần phải tiếp cận được với người tiêu dùng”. Như vậy, có thể nhận thấy rằng vấn đề bảo vệ người tiêu dùng đã được đặt ra từ khá sớm và có sự quan tâm đặc biệt của các quốc gia, đặc biệt là tổ chức Liên Hợp quốc. Nguyên tắc quan trọng nhất trong hoạt động bảo vệ người tiêu dùng đó là người tiêu dùng phải tự bảo vệ được mình. Tuy nhiên, trong mối quan hệ với các nhà sản xuất, những người phân phối, cung ứng dịch vụ, người tiêu dùng luôn ở vị trí yếu thế và cần được pháp luật bảo vệ. Quá trình phát triển của pháp luật bảo vệ người tiêu dùng đã hình thành từ trong mối quan hệ được xem là bất bình đẳng này, pháp luật bảo vệ người tiêu dùng đã hình thành các chế định đặc thù sau bên cạnh chế định về trách nhiệm sản phẩm: - Chế định về quyền của người tiêu dùng: Các quy định về quyền của người tiêu dùng chính là nền tảng của pháp luật bảo vệ người tiêu dùng bởi các chế định pháp luật khác về bảo vệ người tiêu dùng sẽ hình thành trên cơ sở các chế định này với tư cách là những biện pháp pháp lý đảm bảo thực thi các quyền của người tiêu dùng. Hiện nay, 8 quyền của người tiêu dùng đã được ghi nhận trong Hướng dẫn của Liên hợp quốc về bảo vệ người tiêu dùng (năm 1985), theo đó người tiêu dùng có 8 quyền cơ bản là (i) Quyền được thoả mãn những nhu cầu cơ bản; (ii) Quyền được an toàn; (iii) Quyền được thông tin; (iv) Quyền được lựa chọn; (v) Quyền được lắng nghe; (vi) Quyền được khiếu nại và bồi thường; (vii) Quyền được giáo dục, đào tạo về tiêu dùng; (viii) Quyền được có môi trường sống lành mạnh và bền vững[8]. - Chế định về hành vi thương mại không lành mạnh: chế định về hành vi thương mại không lành mạnh là một chế định hết sức cơ bản trong hệ thống pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng. Chế định này xác định những dạng hành vi mà thông qua đó, người kinh doanh được coi là lạm dụng vị thế của mình để làm hạn chế khả năng định đoạt một cách hợp lý của người tiêu dùng, từ đó người kinh doanh có thể thu lợi từ thiệt hại của người tiêu dùng. Từ việc xác định các hành vi được coi là hành vi thương mại không lành mạnh, pháp luật bảo vệ người tiêu dùng đưa ra những cơ chế nhất định để ngăn ngừa hoặc giúp người tiêu dùng không phục quyền lợi khi bị thiệt hại bởi các hành vi thương mại không lành mạnh từ phía những nhà kinh doanh. - Chế định về hợp đồng tiêu dùng: chế định hợp đồng tiêu dùng không nằm ngoài các quy định chung của pháp luật về hợp đồng, tuy nhiên, xuất phát từ mối quan hệ đặc thù giữa những người kinh doanh và người tiêu dùng, trong đó người tiêu dùng có thể ở những vị thế nhất định cản trở họ thực hiện các quyền tự do thoả thuận, tự do định đoạt, pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng đưa ra những quy định nhất định để trong trường hợp người tiêu dùng không có điều kiện thực hiện đầy đủ quyền thoả thuận và định đoạt của mình thì các nội dung của hợp đồng tiêu dùng vẫn sẽ được giải thích theo hướng đảm bảo một cách hợp lý lợi ích chính đáng của người tiêu dùng. - Chế định bảo hành cũng là một chế định tương đối đặc trưng trong hệ thống pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng. Chế định này đòi hỏi người sản xuất, cung ứng sản phẩm là hàng hoá trong một thời gian nhất định kể từ khi cung ứng hàng hoá cho người tiêu dùng phải có trách nhiệm đổi hàng mới hoặc sửa chữa nếu hàng hoá được mua không vận hành đúng theo yêu cầu mà sản phẩm phải đáp ứng. Để đảm bảo người kinh doanh tuân thủ đầy đủ nghĩa vụ này, các quy định pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng sẽ đưa ra những ràng buộc để hạn chế nhà kinh doanh đưa ra những biện pháp nhất định nhằm giảm thiểu hoặc lảng tránh trách nhiệm bảo hành đối với hàng hoá đã cung cấp cho người tiêu dùng. Các chế định pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng nêu trên đều bảo vệ người tiêu dùng trong mối quan hệ trực tiếp với người cung cấp hàng hoá, dịch vụ. Đây là điểm khác biệt cơ bản giữa các chế định về bảo vệ người tiêu dùng này với chế định về trách nhiệm sản phẩm, theo đó người tiêu dùng được bảo vệ không phụ thuộc vào việc họ có quan hệ hợp đồng với người cung cấp sản phẩm đó hay không. Nếu một người tiêu dùng bị thiệt hại bởi một khuyết tật trong sản phẩm và có thể xác định được nhà cung cấp sản phẩm đó thì người tiêu dùng sẽ có khả năng đòi bồi thường cho thiệt hại mà mình phải gánh chịu. Nói cách khác, chế định trách nhiệm sản phẩm bảo vệ người tiêu dùng trong tất cả các trường hợp có tiêu dùng sản phẩm chỉ với điều kiện sản phẩm đó có nguồn gốc xác định 3. Các cơ sở và chức năng củ
Luận văn liên quan