Đề tài Phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu ở Việt Nam hiện nay-Thực trạng và gải pháp

Toàn cầu hóa và khu vực hóa đã trở thành xu hướng phát triển chung của thế giới. Đối với nước ta, hội nhập kinh tế quốc tế sẽ giúp cho Việt Nam có thêm cơ hội giao lưu kinh tế với nhiều nền kinh tế, có thêm nhiều đối tác kinh doanh, mở rộng thị trường, thu hút thêm vốn đầu tư nước ngoài. Đặc biết, pháp luật thuế nhập khẩu phản ánh rõ nhất mức độ hội nhập và sự bảo hộ của nhà nước đối với nền kinh tế. Vì vậy, cần thiết phải xây dựng và hoàn thiện pháp luật thuế nhập khẩu như thế nào để có thể bảo hộ đúng mức, hợp lý dựa trên năng lục cạnh tranh của nền kinh tế, đồng thời bảo đảm thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ và cam kết của mình với tư cách là thành viên của các tổ chức kinh tế quốc tế. Hay nói cách khác, pháp luật thuế nhập khẩu ở Việt Nam cần phải được xây dựng và hoàn thiện như thế nào để đảm bảo cho việc hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta trong giai đoạn hiện nay đạt hiệu quả cao nhất. Thấy được tầm quan trọng của vấn đề này, nên em đã chọn đề tài: “Phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu ở Việt Nam hiện nay-Thuc trang va giai phap”

doc15 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2763 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu ở Việt Nam hiện nay-Thực trạng và gải pháp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A. LỜI NÓI ĐẦU: Toàn cầu hóa và khu vực hóa đã trở thành xu hướng phát triển chung của thế giới. Đối với nước ta, hội nhập kinh tế quốc tế sẽ giúp cho Việt Nam có thêm cơ hội giao lưu kinh tế với nhiều nền kinh tế, có thêm nhiều đối tác kinh doanh, mở rộng thị trường, thu hút thêm vốn đầu tư nước ngoài. Đặc biết, pháp luật thuế nhập khẩu phản ánh rõ nhất mức độ hội nhập và sự bảo hộ của nhà nước đối với nền kinh tế. Vì vậy, cần thiết phải xây dựng và hoàn thiện pháp luật thuế nhập khẩu như thế nào để có thể bảo hộ đúng mức, hợp lý dựa trên năng lục cạnh tranh của nền kinh tế, đồng thời bảo đảm thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ và cam kết của mình với tư cách là thành viên của các tổ chức kinh tế quốc tế. Hay nói cách khác, pháp luật thuế nhập khẩu ở Việt Nam cần phải được xây dựng và hoàn thiện như thế nào để đảm bảo cho việc hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta trong giai đoạn hiện nay đạt hiệu quả cao nhất. Thấy được tầm quan trọng của vấn đề này, nên em đã chọn đề tài: “Phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu ở Việt Nam hiện nay-Thuc trang va giai phap” B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ: I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THUẾ NHẬP KHẨU VÀ PHÁP LUẬT VỀ THUẾ NHẬP KHẨU: 1. Giải thích một số khái niệm:: 1.1. Thuế nhập khẩu: Thuế nhập khẩu là một loại thuế mà một quốc gia hay vùng lãnh thổ đánh vào hàng hóa có nguồn gốc từ nước ngoài trong quá trình nhập khẩu. Khi phương tiện vận tải đến cửa khẩu biên giới thì các công chức hải quan sẽ tiến hành kiểm tra hàng hóa so với khai báo trong tờ khai hải quan đồng thời tính số Thuế nhập khẩu phải thu theo các công thức tính Thuế nhập khẩu đã quy định trước. 1.2. Pháp luật về thuế nhập khẩu: Pháp luật thuế nhập khẩu là tổng hợp các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình đăng ký, kê khai, tính thuế, nộp thuế, quyết toán thuế, miễn giảm thuế và xử lí các vi phạm tranh chấp về thuế xuất khẩu phát sinh giữa nhà nước với người nộp thuế. 2. Đặc điểm của thuế nhập khẩu: - Thứ nhât: Thuế nhập khẩu có đối tượng chịu thuế là các hàng hóa được phép vận chuyển qua biên giới. Khái niệm hàng hóa là đối tượng chịu Thuế nhập khẩu bao gồm các tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng do con người sản xuất ra và được lưu thông trên thị trường bằng cách chuyển vào biên giới của một nước. Thuế nhập khẩu không tác động vào đối tượng nhập khẩu là các loại hình dịch vụ. - Thứ hai: Thuế nhập khẩu về bản chất là thuế gián thu, tuy nhiên tính gián thu chỉ có ý tương đối. Điều này thể hiện ở chỗ, khi một nhà nhập khẩu nộp Thuế nhập khẩu và tự tiêu dùng số hàng hóa nhập khẩu đó chứ không bán ra bên ngoài thì khi đó khoản Thuế nhập khẩu đã nộp có tính chất là thuế trực thu. Ngược lại, khi nhà nhập khẩu đã nộp Thuế nhập khẩu và bán lại số hàng hóa đó cho người khác thì số tiền Thuế nhập khẩu đã nộp có xu hướng chuyển sang cho người mua hàng, và khi đó khoản Thuế nhập khẩu này có tính chất là thuế gián thu, vì người nộp thuế và người chịu thuế không phải là một. - Thứ ba: Thuế nhập khẩu gắn liền với hoạt động kinh tế đối ngoại của mỗi quốc gia, trong từng thời kỳ bởi hoạt động ngoại thương là một trong những hình thức hoạt động cơ bản của nền kinh tế đối ngoại mà Thuế nhập khẩu là công cụ góp phần thực hiện vai trò quản lý, kiểm soát hoạt động ngoại thương của Nhà nước. - Thứ tư: Thuế nhập khẩu được quản lý bởi cơ quan chuyên trách là cơ quan Hải quan. - Thứ năm: Thuế nhập khẩu bị chi phối bởi nhiều yếu tố như: nhu cầu thu ngân sách nhà nước; chính sách Thuế nhập khẩu phải phù hợp với chính sách phát triển kinh tế của nhà nước; yếu tố thực trạng kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia và đặc biệt là yếu tố hội nhập kinh tế quốc tế của quốc gia. 1.3. Vai trò của thuế nhập khẩu: Thuế nhập khẩu là một công cụ quan trọng và cần thiết của mỗi nhà nước để thực hiện các mục tiêu như sau: - Thứ nhất: Thuế nhập khẩu tạo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước; - Thứ hai: Thuế nhập khẩu được Nhà nước sử dụng như một công cụ để điều tiết hoạt động ngoại thương, hướng dẫn tiêu dùng xã hội; - Thứ ba: Thuế nhập khẩu là công cụ hỗ trợ và bảo hộ nền sản xuất trong nước; - Thứ tư: Ngoài ra, thuế nhập khẩu còn là cơ sở cho việc đàm phán trong thương mại quốc tế. Đối với những nước kinh tế phát triển thuế nhập khẩu còn mục tiêu chính trị: áp dụng chính sách thuế quan ưu đãi với một quốc gia thân thiện hoặc sử dụng nó như biện pháp trả đũa trong chính sách đối ngoại hoặc gây sức ép chính trị với quốc gia khác. II. NHỮNG YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN VIỆC THỰC THI PHÁP LUẬT THUẾ NHẬP KHẨU Ở VIỆT NAM HIỆN NAY: Trong điều kiện Việt Nam đang ở trong giai đoạn phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế theo xu hướng chung của thế giới thì pháp luật thuế nhập khẩu bị chi phối bởi nhiều yếu tố khác nhau, đặc biệt là bị chi phối của các quan hệ kinh tế. Trong rất nhiều yếu tố chi phối đến pháp luật thuế nhập khẩu thì có một số yếu tố cơ bản sau: 1. Chính sách thuế nhập khẩu phải phù hợp với chính sách phát triển kinh tế của nhà nước: Chính sách kinh tế của một quốc gia là sự điều hành của nhà nước đối với nền kinh tế của một quốc gia. Chính sách kinh tế thực chất thể hiện thái độ, quan điểm của nhà nước đối với các quan hệ kinh tế và được thể hiện thông qua hệ thống pháp luật. Pháp luật thuế nhập khẩu nằm trong hệ thống các chính sách quản lý vĩ mô nền kinh tế của quốc gia nên khi hệ thống này có sự thay đổi thì bản thân pháp luật thuế nhập khẩu cũng có sự thay đổi để phù hợp với toàn bộ hệ thống. Điều này thể hiện rõ nhất khi có sự thay đổi trong chính sách kinh tế đối ngoại. Pháp luật thuế nhập khẩu thể hiện chính sách thương mại quốc tế của quốc gia. Chính sách thương mại gồm hai dạng điển hình là chính sách tự do hóa thương mại và chính sách bảo hộ mậu dịch. Hai xu hướng này, tuy về mặt lý thuyết chúng tái ngược nhau nhưng trên thực tế chúng lại tồn tại song song với nhau. Chính sách tự do hóa thương mại nhằm thúc đẩy khả năng cạnh tranh bình đẳng giữa hàng hóa trong nước với hàng ngoại nhập thông qua việc cắt giảm thuế xuất khẩu hoặc các biện pháp khuyến khích khác để thúc đẩy xuất khẩu, xóa bỏ hoặc cắt giảm thuế nhập khẩu để hàng hóa nước ngoài tràn vào nhằm mở rộng thị trường nội địa, đặc biệt là hàng hóa nước mình sản xuất với chi phí cao. Đây là quá trình giảm bớt sự can thiệp mang tính chất bảo hộ của nhà nước vào hoạt động thương mại, theo đó vai trò của nhà nước chỉ nên giới hạn ở việc tạo ra môi trường phù hợp cho các quan hệ thương mại. Chính sách bảo hộ mậu dịch lại bảo hộ nền sản xuất trong nước trước sự cạnh tranh của hàng hóa nước ngoài bằng cách áp dụng thuế suất thuế nhập khẩu cao đối với một số mặt hàng nhập khẩu. Pháp luật thuế nhập khẩu có chức năng đặc thù là bảo hộ nền sản xuất trong nước, chống lại xu hướng cạnh tranh không cân sức giữa hàng hóa trong nước với hàng hóa nước ngoài. Nhưng trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế xu hướng tự do hóa thương mại ngày càng trở thành xu hướng tất yếu trên thế giới thì pháp luật thuế nhập khẩu cũng phải theo xu hướng giảm dần mức thuế suất. Như vậy, pháp luật thuế nhập khẩu luôn bị ảnh hưởng của chính sách thương mại quốc tế trong quá trình hội nhập. 2. Những yêu cầu và cam kết trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế: Hội nhập kinh tế quốc tế là xu hướng tất yếu của các quốc gia, trong đó có Việt nam. Trong văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX (năm 2001), Đảng ta nhận định: “ Toàn cầu hoá kinh tế là một xu thế khách quan, lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia, xu thế này đang bị một số nước phát triển và các tập đoàn kinh tế tư bản xuyên quốc gia chi phối, chứa đựng nhiều mâu thuẫn, vừa có mặt tích cực vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp tác vừa có đấu tranh”. Như vậy, các quốc gia không thể đứng ngoài xu hướng toàn cầu hóa mà phải nắm bắt những cơ hội của nó để đưa đất nước nhanh chóng hội nhập kinh tế quốc tế. Hội nhập kinh tế quốc tế thể hiên qua việc một quốc gia tham gia vào các tổ chức hay liên minh kinh tế quốc tế giữa hai nước, trong khu vực hay trên thế giới. sự tham gia đó được chứng nhận thông qua việc quốc gia tiến hành ký kết các điều ước song phương hoặc đa phương và quốc gia đó phải tuân thủ những điều ước đó một cách nghiêm túc ngay khi điều ước đó có hiệu lực. Để làm được điều này thì quốc gia thành viên phải xây dựng một hệ thống pháp luật phù hợp với quy chế của điều ước quốc tế đã ký kết. Luật thuế nhập khẩu là một trong hệ thống pháp luật quốc gia, nó là loại thuế phản ánh rõ nhất tiến trình hội nhập của quốc gia đó nên khi xây dựng hệ thống pháp luật thuế nhập khẩu thì mỗi quốc gia phải “nội luật hóa” các cam kết quốc tế về thuế nhập khẩu bằng cách bổ sung, ban hành các quy định mới về thuế nhập khẩu hoặc sửa đổi những quy định cũ về thuế nhập khẩu để phù hợp với các cam kết đó. Việt Nam đã gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) từ ngày 7/11/2006 và chính thức trở thành thành viên của WTO từ ngày 15/01/2007. trước khi gia nhập tổ chức này, Việt Nam đã tiến hành cải cách hệ thống pháp luật ( như Luật thuế xuât khẩu, thuế nhập khẩu sửa đổi, bổ sung năm 2005,..) để tương thích với các quy chế của WTO. Sau khi gia nhập WTO, Việt Nam cũng đã ban hành nhiều văn bản pháp luật bổ sung, hướng dẫn thực hiện các quy định pháp luật thời kỳ hậu WTO. Như vậy, những yêu cầu về hội nhập kinh tế quốc tế và việc thực hiện các cam kết thương mại quốc tế đã ảnh hưởng rất lớn đến hệ thống pháp luật trong đó có pháp luật thuế nhập khẩu. 3. Nhu cầu thu ngân sách của nhà nước: Ngân sách nhà nước được hình thành để Nhà nước thực hiện việc điều tiết các hoạt động kinh tế xã hội, đồng thời tạo ra các hàng hóa, dịch vụ công cộng phục vụ cho người dân. Thuế, trong đó có thuế nhập khẩu là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước, Thuế nhập khẩu tuy có chức năng chính là bảo hộ nền sản xuất trong nước trước sự cạnh tranh của hàng hóa nước ngoài nhưng đối với Việt Nam- một nước đang phát triển thì thuế nhập khẩu là một nguồn thu quan trọng của ngân sách nhà nước. Những số liệu về tỷ trọng của số thu hải quan so với tổng thu ngân sách nhà nước từ trong những năm qua đã thể hiện rõ điều đõ ( từ năm 2000 đến năm 2005 số thu hải quan luôn chiếm hơn 20% trong tổng thu ngân sách nhà nước). Khi hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam ký kết và thực hiện các cam kết về thương mại quốc tế, trong đó có những cam kết cắt giảm thuế nhập khẩu. Việc cắt giảm này cũng gây ra những tác động đến nguồn thu ngân sách nhà nước. Khi thuế nhập khẩu bị cắt giảm, giá cả một số mặt hàng như máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu nhập khẩu từ nước ngoài cũng giảm theo. Từ đó, những sản phẩm sản xuất trong nước cũng tăng lên về sản lượng và giảm giá thành. Việc hàng hóa trong nước tăng về số lượng và giảm về giá thành sẽ thúc đẩy nhu cầu mua sắm, tiêu dùng trong nước và làm tăng thu ngân sách nhà nước từ các loại thuế khác như thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp… Mặt khác, khi Việt Nam thực hiện các cam kết thương mại quốc tế thì những nước thành viên khác cũng phải cắt giảm thuế quan, điều này sẽ kích thích các doanh nghiệp trong nước tăng lượng hàng xuất khẩu và từ đó sẽ tăng thu ngân sách từ các hoạt động xuất khẩu đó. Như vậy, việc cắt giảm thuế nhập khẩu sẽ có tác dụng thúc dẩy sản xuất kinh doanh trong nước và tăng nguồn thu ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, việc giảm thuế nhập khẩu cũng làm cho nguồn hàng nhập khẩu trở lên dồi dào vơi giá thành thấp, từ đó đặt hàng hóa trong nước vào tình thế phải cạnh tranh khốc liệt với hàng hóa ngoại nhập. Các doanh nghiệp trong nước sẽ phải tăng cường năng lực sản xuất kinh doanh, nâng cao chất lượng đồng thời hạ giá thành sản phẩm nếu như không muốn loại ra khỏi cuộc chơi. Việc cắt giảm thuế nhập khẩu cũng làm giảm đi một nguồn thu khá quan trọng của ngân sách nhà nước và cũng giảm đi một phần thu từ các loại thuế khác có liên quan đến nhập khẩu như thuế giá trị gia tăng hàng nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt… Như vậy, việc cắt giảm thuế nhập khẩu vừa làm giảm nguồn thu ngân sách nhà nước từ hàng nhập khẩu nhưng đồng thời lại làm tăng nguồn thu tương ứng cho ngân sách nhà nước từ các loại thuế khác. Số thu ngân sách nhà nước sẽ không thay đổi nhiều nếu như Việt Nam thực hiện các cam kết thương mại quốc tế. Tuy nhiên, sẽ có sự thay đổi trong cơ cấu thu ngân sách nhà nước. Vì vậy, khi tiến hành xây dựng chính sách pháp luật thuế nhập khẩu thì phải tính đến nhu cầu thu ngân sách nhà nước để bảo đảm cho ngân sách quốc gia có được nguồn thu ổn định lành mạnh. 4. Thực trạng kinh tế - xã hội của quốc gia: Pháp luật bao giờ cũng là sự phản ánh dưới hình thức pháp lý các quan hệ xã hội, một sự phản ánh lệ thuộc vào những biến đổi xã hội. Để phát huy được vai trò, tác dụng của mình trong đời sống xã hội, pháp luật luôn phản ánh đúng, đầy đủ hiện thực khách quan, những tiến trình đang diễn ra trong cuộc sống xã hội. Nếu không có những khảo sát, đánh giá từ thực tiễn cuộc sống thì không thể có cơ sở khoa học và thực tiễn xác đáng để xây dựng và thực hiện pháp luật, không phát huy được vai trò của nó trong cuộc sống. Đối với pháp luật thuế nhập khẩu có mục tiêu quan trọng là công cụ khuyến khích hỗ trợ bảo vệ nền sản xuất trong nước việc ban hành, sửa đổi, bổ sung bộ phận pháp luật này cần thiết căn cứ thực trạng phát triển của nền sản xuất trong nước, sức mạnh cạnh tranh của hàng hóa nước mình trên thị trường quốc tế. Trong điều kiện hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế các quốc gia phải cam kết giảm thuế quan theo lộ trình nhất định Vì vậy, mỗi quốc gia phải cần phải nghiên cứu đánh giá những lợi thế so sánh trong từng ngành hàng cụ thể để xác định những ngành hàng sản xuất nào cần được bảo hộ, mức độ bảo hộ và thời hạn bảo hộ,…Đối với hàng hóa có uy tín trên trường quốc tế có khả năng cạnh tranh cao thì không cần sự bảo hộ mà lấy đó làm cơ sở cho việc đàm phán về thuế quan với các quốc gia khác… Qua đó có những cơ sở cho việc đàm phán thương mại và quy định mức thuế đối với từng nhóm hàng hóa nhập khẩu trong pháp luật thuế nhập khẩu của mình. Từ thực trạng hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hóa để phát hiện ra hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong thương mại quốc tế và tác động cụ thể của nó đối với nền kinh tế quốc gia mình để từ đó ban hành sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật thuế nhập khẩu nhằm bảo vệ lợi ích quốc gia mình trong khuôn khổ cho phép. 5. Ý thức của người nộp thuế: Đây là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến việc thực thi Luật thuế nhập khẩu. Hiện nay có những gian lận chủ yếu sau trong việc nộp thuế của các chủ thể nộp thuế. 5.1. Giá tính thuế nhập khẩu: Người nộp thuế khai báo giá tính thế nhập khẩu không trung thực: các chủ thể nộp thuế thường khai báo chính xác mà khai giá nhập khẩu thấp hơn. Khai thấp về chất lượng hàng hóa: ví dụ như vải, sợi, sắt, thép,… chủ thể nộp thuế thường khai chất lượng hàng thấp hơn so với giá thực tế nhằm trốn thuế nhập khẩu. Khai báo hàng không thanh toán, hàng hỗ trợ tiếp thị quảng cáo, hay thủ đoạn đánh đồng tên hàng nhưng chất lượng và phẩm cấp thương mại cao hơn. Ví dụ như trường hợp vụ việc “ Ô tô cũ về cảng Sài Gòn toàn xe xịn giá rẻ”: “Theo một quan chức hải quan nhận xét, giá khai báo của 4 xe cũ đầu tiên nhập về cảng Sài Gòn là "phi thực tế". Trong lô này, giá cao nhất thuộc về chiếc Lexus LX470 sản xuất năm 2005: 13.000 USD. Các xe còn lại gồm BMW X5, BMW 525i và Lexus GS300. Sáng 24/5, hải quan khu vực 3 cảng Sài Gòn đã tiến hành kiểm tra thực tế lô hàng 4 chiếc xe nói trên. Không phải là những chiếc xe xa lạ với thị trường Việt Nam, nhưng những người có mặt tại buổi kiểm tra thực tế đều phải ngạc nhiên về chất lượng và kiểu dáng của số 4 chiếc được gọi là xe cũ. Được săm soi nhiều nhất là chiếc BMW X5 màu trắng. Theo đánh giá ban đầu của nhân viên kiểm hóa, cả 4 chiếc xe trên còn rất mới và phụ tùng hầu như chưa bị thay thế. Theo dõi buổi kiểm hóa, một nhân viên bảo vệ của cảng nhận xét, "nếu không biết trước là ôtô cũ thì không thể phân biệt, vì cả 4 xe hầu như không có vết trầy, nước sơn còn rất bóng không khác gì mới". Trên tờ khai hải quan, chiếc BMW X5 (xuất xưởng năm 2005) giá 9.500 USD, BMW 525i (2004) giá 9.000 USD, Lexus LX470 giá 13.000 USD và Lexus GS300 (2005) giá 9.800 USD. Theo ông Lê Tuấn Bình, Phó Chi cục hải quan cảng Sài Gòn khu vực 3, khẳng định mức giá nhập khẩu như thế là phi thực tế. Theo tra cứu của hải quan trên mạng, thì giá mà doanh nghiệp khai báo nhập khẩu thấp hơn rất nhiều.”(1) 5.2. Thuế suất thuế nhập khẩu: Thủ đoạn mà nhà nhập khẩu sử dụng được coi là ngày càng tinh vi là việc gian lận giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa (C/O), thủ đoạn khai sai nguồn gốc xuất xứ hàng hóa nhằm hưởng lợi từ việc ưu đãi về thuế đối với các nước mà Việt Nam có cam kết giảm thuế. Thủ đoạn khai báo gian dối về tên hàng hóa nhập khẩu để được áp mã và hưởng thuế suất thấp hơn. 6. Ngoài những yếu tố trên, pháp luật thuế nhập khẩu còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác: Pháp luật thuế nhập khẩu còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như ý chí chủ quan của nhà lập pháp, trình độ chuyên môn, ý thức trách nhiệm của đội ngũ cán bộ thực hiện pháp luật thuế nhập khẩu hay trình độ nhận thức của người dân. Hay như việc mặt hàng nhập khẩu, số lượng hàng nhập, trị giá  hải quan ảnh hưởng đến công tác kiểm tra của hải quan, do năng lực cán bộ hải quan còn yếu kém nên không kiểm soát được hết hàng buôn lậu… III. THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT THUẾ NHẬP KHẨU VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN: 1. Thực tiễn áp dụng pháp luật thuế nhập khẩu: Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm 2005 về cơ bản đã xây dựng phù hợp với những quy tắc và định chế của pháp luật kinh tế quốc tế, góp phần quan trọng trong việc phát triển kinh tế đối ngoại và yêu cầu về thu ngân sách nhà nước. Luật đã có những quy định mới về đối tượng không chịu thuế nhập khẩu và miễn thuế, về giá trị hải quan, kiểm tra Hải quan, tạo ra môi trường bình đẳng cho các loại hàng hóa nhập khẩu vào nước ta. Việt Nam đã chính thức gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) hơn 4 năm nhưng tác động của WTO đã có từ những năm trước đó. Tác động của WTO đối với Việt Nam thể hiện ở nhiều lĩnh vực nhưng trước hết và rõ nhất là lĩnh vực nhập khẩu. Thực tế, sau một thời gian thực hiện Luật Hải quan (sửa đổi) và Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm 2005 đã phát huy tác dụng tích cực, góp phần vào hiệu quả hoạt động Hải quan. Đây là hệ quả, xu thế phát triển tất yếu khi công vụ quản lý kinh tế của Nhà nước nói chung và pháp luật trong lĩnh vực Hải quan ngày càng được hoàn thiện. Hiệu quả rõ nhất khi áp dụng Luật Hải quan và Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm 2005 là ý thức chấp hành và tuân thủ pháp luật của người thực thi nhiệm vụ và đối tượng tham gia xuất nhập khẩu được nâng lên. Thực hiện cơ chế người khai hải quan, tự trình, tự nộp thuế và chịu trách nhiệm về nội dung kê khai thuế; quyền được ân hạn thuế gắn với yêu cầu chấp hành tốt pháp luật đã khuyến khích doanh nghiệp tuân thủ pháp luật về hải quan và chính sách thuế, góp phần tăng thu cho ngân sách nhà nước, giảm thiếu nợ thuế. Từ thời điểm, hai luật này có hiệu lực (1/1/2006), “số thu của ngành Hải quan đạt 95.971 tỷ đồng, tăng so với dự toán và chỉ tiêu phấn đấu. Năm 2006, số thu tăng 14,87% so với cùng kỳ năm 2005; từ 1/1/2007 đến 31/5/2007 số thu tăng khoảng 30 so với cùng kỳ năm 2006, bằng 42.49% dự toán năm. Kết quảr tăng thu này có ý nghĩa quan trọng đối với nguồn thu ngân sách nhà nước trong bối cảnh thực hiện cắt giảm thuế suất theo các cam kết với quốc tế và WTO. Nhờ tăng cường hiệu lực của hai đạo luật này, tính đến 31/3/2007, tổng số nợ thuế toàn ngành hải quan rút xuống còn 4.832 tỷ đồng, giảm 1,5% so với 12/2006; trong đó, nợ thuế chuyên thu là 3.154 tỷ đồng và nwoj thuế tạm thu là 1.679 tỷ đồng.” (2) Theo đánh giá của tổng cục Hải quan, Luật Hải quan và Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm 2005 đã góp phần đáng kể đẩy mạnh sự minh bạch trong hoạt động Hải quan theo hướng phù hợp thông lệ quốc tế. Các văn bản quy phạm pháp luật về Hải quan khi soạn thảo được lấy ý kiến cộng đồng doanh nghiệp. Khi ban hành được phổ biến, niêm yết công khai tại các điểm làm thủ tục hải quan, để doanh nghiệp nắm vững và giám sát và quyền khiếu nại, thậm chí có thể