Khóa luận Đánh giá hiện trạng công tác quản lý, xử lý rác thải sinh hoạt tại thị trấn Bích Động, huyện Việt Yên – Bắc Giang giai đoạn 2010 - 2011

Môi trường là nơi con người sống và hoạt động. Vì vậy môi trường đã và đang là vấn đề được toàn xã hội quan tâm, không còn là vấn đề của mỗi quốc gia mà là vấn đề của toàn cầu đòi hỏi chúng ta cần phải có hành động nhằm bảo vệ môi trường. Một trong những nguồn ô nhiễm đang ảnh hưởng rất lớn đến môi trường sống hiện nay là chất thải rắn sinh hoạt và công nghiệp. Hiện nay cùng với sự phát triển của khoa học và công nghệ đã giúp cho nhân loại đạt được những thành tựu to lớn trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Bên cạnh đó tốc độ phát triển KT- XH ngày càng phát càng nâng cao, nền Công nghiệp hóa xã hội hóa kéo theo sự tăng trưởng kinh tế thúc đẩy sự tiến bộ xã hội nhưng cũng là nguyên nhân dẫn đến lượng chất thải ngày càng gia tăng. Bên cạnh đó lượng chất thải sinh hoạt với số lượng không đáng kể, rác thải từ phụ phẩm nông nghiệp cũng phát sinh với khối lượng lớn khi vào mùa thu hoạch. Và toàn bộ lượng rác này có đặc điểm chung là chưa phân loại tại nguồn phát sinh. Hiện nay ở Việt Nam, các thành phố lớn và các khu đô thị trên cả nước hàng ngày thải ra trên 9100m3 chất thải, trong đó lượng chất thải sinh hoạt chiếm tới hơn 75,4 %, tỷ lệ thu gom chỉ đạt khoảng 40% - 50% và được xử lý sơ bộ, hầu như là không theo một quy trình nào cả. Việc thu gom, xử lý chất thải rắn không triệt để gây ra các tác động xấu tới môi trường sống: bốc mùi hôi thối, ô nhiễm các nguồn nước mặt, nước ngầm, ô nhiễm đất, nguồn bệnh và phát tán dịch bệnh và gây mất mỹ quan Riêng với thị trấn Bích Động, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang trong xu thế phát triển kinh tế, có cơ sở hạ tầng tương đối hoàn chỉnh, nhưng cũng có những vấn đề bức xúc nảy sinh trong đó có chất thải rắn sinh hoạt, là một trong những vấn đề đáng quan tâm. Hiện nay mỗi ngày thị trấn Bích Động thải ra với lượng chất thải ra hàng ngày tương đối lớn đòi hỏi phải có biện pháp quản lý và xử lý thích hợp, nhằm giảm ô nhiễm môi trường và cải thiện môi trường sống, lao động sản xuất của nhân dân trong thị trấn, giúp cho thị trấn hòa nhập với tốc độ tăng trưởng kinh tế chung của huyện Việt Yên. Giữ gìn cảnh quan môi trường luôn sạch đẹp.

doc64 trang | Chia sẻ: superlens | Lượt xem: 2316 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Đánh giá hiện trạng công tác quản lý, xử lý rác thải sinh hoạt tại thị trấn Bích Động, huyện Việt Yên – Bắc Giang giai đoạn 2010 - 2011, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN THỨ NHẤT MỞ ĐẦU 1.1. Tính cấp thiết của đề tài Môi trường là nơi con người sống và hoạt động. Vì vậy môi trường đã và đang là vấn đề được toàn xã hội quan tâm, không còn là vấn đề của mỗi quốc gia mà là vấn đề của toàn cầu đòi hỏi chúng ta cần phải có hành động nhằm bảo vệ môi trường. Một trong những nguồn ô nhiễm đang ảnh hưởng rất lớn đến môi trường sống hiện nay là chất thải rắn sinh hoạt và công nghiệp. Hiện nay cùng với sự phát triển của khoa học và công nghệ đã giúp cho nhân loại đạt được những thành tựu to lớn trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Bên cạnh đó tốc độ phát triển KT- XH ngày càng phát càng nâng cao, nền Công nghiệp hóa xã hội hóa kéo theo sự tăng trưởng kinh tế thúc đẩy sự tiến bộ xã hội nhưng cũng là nguyên nhân dẫn đến lượng chất thải ngày càng gia tăng. Bên cạnh đó lượng chất thải sinh hoạt với số lượng không đáng kể, rác thải từ phụ phẩm nông nghiệp cũng phát sinh với khối lượng lớn khi vào mùa thu hoạch. Và toàn bộ lượng rác này có đặc điểm chung là chưa phân loại tại nguồn phát sinh. Hiện nay ở Việt Nam, các thành phố lớn và các khu đô thị trên cả nước hàng ngày thải ra trên 9100m3 chất thải, trong đó lượng chất thải sinh hoạt chiếm tới hơn 75,4 %, tỷ lệ thu gom chỉ đạt khoảng 40% - 50% và được xử lý sơ bộ, hầu như là không theo một quy trình nào cả. Việc thu gom, xử lý chất thải rắn không triệt để gây ra các tác động xấu tới môi trường sống: bốc mùi hôi thối, ô nhiễm các nguồn nước mặt, nước ngầm, ô nhiễm đất, nguồn bệnh và phát tán dịch bệnh và gây mất mỹ quan Riêng với thị trấn Bích Động, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang trong xu thế phát triển kinh tế, có cơ sở hạ tầng tương đối hoàn chỉnh, nhưng cũng có những vấn đề bức xúc nảy sinh trong đó có chất thải rắn sinh hoạt, là một trong những vấn đề đáng quan tâm. Hiện nay mỗi ngày thị trấn Bích Động thải ra với lượng chất thải ra hàng ngày tương đối lớn đòi hỏi phải có biện pháp quản lý và xử lý thích hợp, nhằm giảm ô nhiễm môi trường và cải thiện môi trường sống, lao động sản xuất của nhân dân trong thị trấn, giúp cho thị trấn hòa nhập với tốc độ tăng trưởng kinh tế chung của huyện Việt Yên. Giữ gìn cảnh quan môi trường luôn sạch đẹp. Từ thực tiễn trên và việc tồn tại những yếu điểm trên địa bàn em tiến hành nghiên cứu đề tài: “Đánh giá hiện trạng công tác quản lý, xử lý rác thải sinh hoạt tại thị trấn Bích Động, huyện Việt Yên – Bắc Giang giai đoạn 2010 - 2011". 1.2. Mục tiêu của đề tài Trước sức ép ngày càng gia tăng về khối lượng chất thải rắn sinh hoạt, hệ thống quản lý đã bộc lộ nhiều điểm yếu trong các khâu thu gom, vận chuyển cũng như trong cơ cấu tổ chức thu gom, vận chuyển chất thải rắn sinh hoạt trên địa bàn huyện. Vì vậy, đề tài này thực hiện với mục đích: - Đánh giá công tác quản lý rác thải sinh hoạt tại thị trấn Bích Động, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang. - Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý tại thị trấn Bích Động, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang. 1.3. Ý nghĩa của đề tài -Ý nghĩa trong học tập và nghiên cứu khoa học: Giúp bản thân em có cơ hội tiếp cận với cách thức thực hiện một đề tài nghiên cứu khoa học, giúp em vận dụng kiến thức đã học vào thực tế và rèn luyện về kĩ năng tổng hợp và phân tích số liệu, tiếp thu và học hỏi những kinh nghiệm từ thực tế. -Ý nghĩa thực tiễn: +Tăng cường trách nhiệm của ban lãnh đạo Huyện trước ảnh hưởng của rác thải sinh hoạt, gia cầm đến môi trường; Từ đó có hoạt động tích cực trong việc xử lý. +Cảnh báo nguy cơ tiềm tàng về ô nhiễm môi trường đất, nước, không khí do chất thải gây ra, ngăn ngừa và giảm thiểu ảnh hưởng của chất thải rắn đến môi trường, bảo vệ sức khỏe của người dân. 1.4. Yêu cầu của đề tài - Tìm hiểu thực trạng rác thải sinh hoạt của Huyện. - Ảnh hưởng của rác thải sinh hoạt tới chất lượng môi trường Huyện - Tìm hiểu hoạt động: thu gom, vận chuyển, và xử lý rác thải sinh hoạt tại thị trấn Bích Động, huyện Việt Yên – tỉnh Bắc Giang giai đoạn 2010 - 2011. Trên cơ sở đó tìm ra những giải pháp quản lý rác thải rắn sinh hoạt hợp lý cho hệ thống quản lý chất thải rắn huyện Việt Yên. Đề tài nhằm góp phần nâng cao hiệu quả trong công tác quản lý chất thải rắn, giảm thiểu ô nhiễm môi trường do thu gom, vận chuyển chất thải rắn chưa hợp lý, bảo vệ tốt môi trường và vệ sinh phòng dịch, sức khỏe cộng đồng, sức khỏe của công nhân. PHẦN THỨ HAI TỔNG QUAN TÀI LIỆU 2.1. Khái quát về rác thải sinh hoạt 2.1.1. Khái niệm - Chất thải Chất thải là vật chất ở thể rắn, lỏng , khí được thải ra từ sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, sinh hoạt hoặc từ các hoạt động khác (Lê Văn Khoa, 2009) [4]. Chất thải rắn Theo quan điểm chung: CTR là toàn bộ các tạp chất được con người loại bỏ trong các hoạt động kinh tế xã hội của mình (bao gồm các hoạt động sản xuất, các hoạt động sống và duy trì sự tồn tại của cộng đồng). Trong đó quan trọng nhất là các chất thải ra từ hoạt động sản xuất và hoạt động sống (Trần Hiếu Nhuệ và cộng sự, 2001)[6]. Theo quan điểm mới: chất thải rắn đô thị (gọi chung là rác thải đô thị) được định nghĩa là: vật chất mà con người tạo ra ban đầu vứt bỏ đi trong khu vực đô thị mà không đòi hỏi được bồi thường cho sự vứt bỏ. Thêm vào đó, chất thải được gọi là chất thải rắn đô thị nếu được xã hội nhìn nhận như một thứ mà thành phố có tránh nhiệm thu gom và phân hủy (Trần Hiếu Nhuệ và cộng sự, 2001) [6]. Rác thải sinh hoạt RTSH là các chất thải có liên quan tới các hoạt động của con người , nguồn tạo thành chủ yếu từ các khu dân cư, các cơ quan, trương học, các trung tâm dịch vụ thương mại. Chất thải rắn sinh hoạt có thành phần bao gồm cả kim loại, giấy vụn , sành sứ ... (Trần Hiếu Nhuệ và cộng sự, 2001) [6] 2.1.2. Nguồn gốc và phân loại 2.1.2.1. Nguồn gốc phát sinh chất thải rắn Các nguồn chủ yếu phát sinh chất thải rắn bao gồm : Từ các khu dân cư ( chất thải sinh hoạt ). Từ các công sở trường học, công trình công cộng. Từ các dịch vụ đô thị. Từ các hoạt động công nghiệp. Từ các hoạt động nông nghiệp. Từ các hoạt động xây dựng đô thị. Từ các trạm xử lý nước thải và từ các đường cống thoát nước của thành phố (Vấn đề về quản lý chất thải rắn ở Việt Nam) [12]. Chất thải rắn Khu công nghiệp, nhà máy, xí nghiệp Nông nghiệp, hoạt động xử lý rác thải Giao thông, xây dựng Chợ, bến xe, nhà ga Cơ quan, trường học Nhà dân, khu dân cư. Khu vui chơi, giải trí Bệnh viện, cơ sở y tế Hình 2.1: Sơ đồ nguồn gốc phát sinh chất thải rắn [6] 2.1.2.2. Phân loại chất thải rắn - Theo vị trí hình thành: người ta phân biệt rác hay chất thải rắn trong nhà ngoài nhà, trên đường phố, chợ ... - Theo thành phần hóa học và vật lý : người ta phân biệt theo các thành phần hữu cơ, vô cơ, cháy được ,không cháy được, kim loại, phi kim loại da, giẻ vụn, cao su, chất dẻo, ... - Theo bản chất nguồn tạo thành: Chất thải rắn được chia thành các loại sau: + Chất thải rắn sinh hoạt : là những chất thải liên quan đến các hoạt động của con người, nguồn tạo thành chủ yếu từ các khu dân cư, các cơ quan, trường học, các trung tâm dịch vụ, thương mại. Chất thải rắn sinh hoạt có các thành phần bao gồm kim loại, sành sứ, thủy tinh, gạch ngói vỡ, đất, đá, cao su, chất dẻo, thực phẩm dư thừa hoặc quá hạn sử dụng, xương động vật, tre, gỗ, lông gà vịt, vải, giấy, rơm, rạ, xác động vật, vỏ rau quả Chất thải thực phẩm bao gồm các thức ăn thừa, rau quả,...loại này mang bản chất dễ bị phân hủy sinh học, quá trình phân hủy tạo ra mùi khó chịu, đặc biệt trong điều kiện thời tiết nóng ẩm. Ngoài các loại thức ăn dư thừa từ gia đình còn có thức ăn dư thừa từ các nhà bếp ăn tập thể, các nhà hàng, khách sạn, ký túc xá, chợ... (Trần Hiếu Nhuệ và cộng sự, 2001) [6] Chất thải chủ yếu từ động vật là phân, bao gồm phân người và phân của các loại động vật khác. Chất thải lỏng chủ yếu là từ bùn ga, cống rãnh, là các chất thải ra từ các khu vực sinh hoạt của khu dân cư. Tro và các chất dư thừa thải bỏ bao gồm: các loại vật liệu sau khi đốt cháy, các sản phẩm sau khi đun nấu bằng than, củi, và các chất thải dễ cháy khác trong gia đình, trong kho của các công sở, cơ quan, xí nghiệp, các loại xỉ than. Chất thải rắn từ đường phố có thành phần chủ yếu là lá cây, que, củi, nilon, vỏ bao gói... (Trần Hiếu Nhuệ và cộng sự, 2001) [6] + Chất thải rắn công nghiệp: là chất thải phát sinh từ hoạt động công nghiệp,tiểu thủ công nghiệp. Các nguồn phát sinh chất thải gồm: Các phế thải vât liệu trong quá trình sản xuất công nghiệp, tro, xỉ trong các nhà máy nhiệt điện. Các phế thải nhiên liệu phục vụ cho sản xuất. Bao bì đóng gói sản phẩm. + Chất thải xây dựng: Là chất thải như đất, đá, gạch ngói, bê tông vỡ do các hoạt động phá vỡ, xây dựng công trình... chất thải xây dựng gồm: Vật liệu xây dựng trong quá trình dỡ bỏ công trình xây dựng. Đất đá do việc đào móng trong quá trình xây dựng. Các vật liệu như kim loại, chất dẻo,... Các chất thải từ các hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật như trạm xử lý nước thiên nhiên, nước thải sinh hoạt, bùn cặn từ các cống thoát nước thành phố. + Chất thải nông nghiệp: là những chất thải và những mẩu bùn thừa thải ra từ các hoạt động nông nghiệp như: trồng trọt, thu hoạch các loại cây trồng, các sản phẩm thải ra từ chế biến sữa, các lò giết mổ... Hiện tại việc quản lý và xả các loại chất thải nông nghiệp không thuộc trách nhiệm của các công ty môi trường đô thị của các địa phương. Theo mức độ nguy hại, chất thải rắn được chia thành các loại: + Chất thải nguy hại: Bao gồm các loại hóa chất dễ gây phản ứng, độc hại, chất sinh học dễ thối rữa, các chất dễ cháy, nổ hoặc các chất phóng xạ, các chất thải nhiễm khuẩn, lây lan..có nguy cơ đe dọa tới sức khỏe con người, động – thực vật. Nguồn phát sinh chất thải nguy hại chủ yếu từ các hoạt động y tế, công nghiệp và nông nghiệp. + Chất thải y tế nguy hại: Là chất thải có chứa các chất hoặc các hợp chất có một trong các đặc tính gây nguy hại trực tiếp hoặc tương tác với các chất khác gây nguy hại tới môi trường và sức khỏe cộng đồng. Theo Quy chế quản lý chất thải y tế nguy hại được phát sinh từ hoạt động chuyên môn trong các bệnh viện, trạm xá và trạm y tế. Các nguồn gốc phát sinh ra chất thải y tế bao gồm Các loại bông băng, gạc, nẹp dùng trong khám bệnh, điều trị, phẫu thuật và các chất thải trong bệnh viện bao gồm: Các loại kim tiêm, ống tiêm Các phần cơ thể cắt bỏ, tổ chức mô cắt bỏ Chất thải sinh hoạt từ các phòng bệnh Chất thải chứa các chất thải có nồng độ cao sau đây: Chì, thủy ngân, cadimi, asen, xianua... Chất thải do các cơ sở công nghiệp hóa chất thải ra có tính độc hại cao và có tác động xấu đến sức khỏe, do đó việc xử lý chất thải phải có những giải pháp kỹ thuật hạn chế tác động có hại đó. Các chất thải nguy hại từ hoạt động nông nghiệp chủ yếu là các loại phân hóa học, hóa chất bảo vệ thực vật. Chất thải không nguy hại: Là những loại chất thải không chứa các chất có một trong các đặc tính nguy hại trực tiếp hoặc tương tác thành phần. Trong số các chất thải của thành phố, chỉ có một tỷ lệ nhỏ có thể sùn ngay trong sản xuất và tiêu dùng, song phần lớn phải hủy bỏ hoặc phải qua một quá trình chế biến phức tạp, qua nhiều khâu mới có thể sử dụng lại nhằm đáp ứng nhu cầu khác của con người. Lượng chất thải trong thành phố tăng lên do tác động của nhiều nhân tố như: Sự tăng trưởng và phát triển của sản xuất, sự gia tăng dân số, sự phát triển về trình độ và tính chất của người tiêu dùng trong thành phố... Các nguồn phát sinh chất thải và phân loại chất thải được thể hiện như sau: Các hoạt động kinh tế xã hội của con người Các quá trình sản xuất Các quá trình phi sản xuất Các hoạt động sống và tái sinh của con người Các hoạt động quản lý Các hoạt động giao tiếp và đối ngoại CHẤT THẢI Dạng lỏng Dạng khí Dạng rắn Chất dầu lỏng Bùn ga cống Hơi độc hại Chất thải sinh hoạt Chất thải công nghiệp Các loại khác Hình 2.2: Các nguồn phát sinh rác thải và phân loại chất thải [6] 2.1.3. Tác hại của chất thải rắn 2.1.3.1. Tác hại của chất thải rắn đối với sức khỏe cộng đồng Tác động của chất thải rắn lên sức khỏe con người thông qua ảnh hưởng của chúng lên các thành phần môi trường. Môi trường bị ô nhiễm tất yếu sẽ tác động đến sức khỏe con người thông qua chuỗi thức ăn. Theo ngiên cứu của tổ chức y tế thế giới (WHO), tỷ lệ người mắc bệnh ung thư ở các khu vực gần bãi chôn lấp rác thải chiếm tới 15,25% dân số. Ngoài ra, tỷ lệ mắc bệnh ngoại khoa, bệnh viêm nhiễm ở phụ nữa do nguồn nước bị ô nhiễm chiếm tới 25% (Sở Tài nguyên Môi trường Ninh Bình, 2007) [8], ô nhiễm không khí do quá trình phân hủy của rác thải cũng ảnh hưởng không nhỏ đến sức khỏe cộng đồng. Các ảnh hưởng của rác thải lên sức khỏe con người được minh họa qua sơ đồ sau: Môi trường không khí Rác thải (chất thải rắn) Sinh hoạt Sản xuất (công nghiệp, nông nghiệp..) Thương nghiệp Tái chế Nước mặt Nước ngầm Môi trường đất Bụi, CH4, NH3, H2S, VOC Người, động vật Qua đường hô hấp Qua chuỗi thức ăn Ăn uống, tiếp xúc qua da KLN, chất độc Hình 2.3: Sơ đồ tác hại chất thải rắn đối với sức khỏe con người [12]. 2.1.3.2. Chất thải rắn làm giảm mỹ quan đô thị Chất thải rắn, đặc biệt là rác thải sinh hoạt nếu không được thu gom, vận chuyển đến nơi xử lý thì sẽ làm giảm mỹ quan đô thị. Nguyên nhân của hiện tượng này là do ý thức của người dân chưa cao. Tình trạng người dân đổ rác bừa bãi ra lòng lề được và mương rãnh hở vẫn còn phổ biến gây ô nhiễm nguồn nước và ngập úng khi mưa. 2.1.3.3. Chất thải rắn làm ô nhiễm môi trường Đối với môi trường không khí: Quá trình phân hủy sinh học của rác thải tạo ra mùi hôi thối khó chịu tại các điểm trung chuyển rác thải trong khu dân cư đã gây ô nhiễm môi trường không khí. Đặc biệt, tại các bãi chôn lấp rác thại lộ thiên mùi hôi thối còn ảnh hưởng đến kinh tế và sức khoải của người dân. Đối với môi trường đất: Chất thải rắn đặc biệt là chất thải nguy hại chưa nhiều độc tố như hóa chất, KLN, chất phóng xạ nếu không được xử lý đúng cách mà được chôn lấp như rác thải thông thường thì nguy cơ gây ô nhiễm môi trường là rất cao. Đối với môi trường nước: Rác thải và các chất ô nhiễm làm biến đổi màu của nước mặt thành màu đen, từ không mùi đến có mùi khó chịu. Tải lượng của các chất bẩn hữu cơ đã làm cho thủy sinh vật trong nguồn nước mặt bị xáo trộn (Cục bảo vệ Môi trường, 2004) [1]. Đối với môi trường nước dưới đất, vấn đề nhiễm bẩn Nitơ ở tầng nông cũng là hậu quả của nước rỉ rác và việc vứt bừa bải rác thải lộ thiên không có các biện pháp kiểm soát nghiêm ngặt. 2.2. Hiện trạng quản lý rác thải sinh hoạt trên thế giới và Việt Nam 2.2.1. Tình hình quản lý rác thải sinh hoạt tại một số nước trên thế giới Tình hình phát sinh chất thải sinh hoạt ở một số nước khác nhau trên thế giới là rất khác nhau, tùy thuộc vào nhiều yếu tố kinh tế - xã hội và hệ thống quản lý của mỗi nước. Nói chung mức sống càng cao, lượng chất thải phát sinh cang nhiều. Nếu tính trung bình mỗi ngày một người thải ra môi trường 0,5 kg rác thải sinh hoạt thì trên toàn thế giới sẽ có trên 3 triệu tấn rác thải mỗi ngày, một năm xấp xỉ khoảng 6 tỷ tấn rác. - Đối với nước phát triển Ở các nước phát triển, dân số thường có đời sống cao và tỷ lệ dân số sống ở ác đô thị lớn, trung bình tiêu chuẩn rác thải của mỗi người dân là 2,8 kg/người/ngày (Tổ chức y tế thế giới, 1992) (Lê Văn Khoa, 2009) [4]. Tại các nước này, chất thải được phân loại trực tiếp ngay tại nguồn thải, người trực tiếp thực hiện việc phân loại rác này chính là những người dân. Nhìn chung các nước này thường áp dụng phương thức phân loại rác thải theo 4 nhóm thành phần: Chất thải hữu cơ, chất thải tái chế, chất thải độc hại và các chất thải khác 3 loại trên. Với các phân loại này tài nguyên rác sẽ được sử dụng một cách có hiệu quả nhất, đồng thời lượng rác chất thải độc hại và chất thải khác được sử dụng hợp lý, triệt để, bảo vệ môi trường và tiết kiệm. Tại các nước này đã và đang áp dụng chương trình giáo dục kiến thức môi trường tại các trường học, các khu công cộng, đặc biệt là vấn đề phân loại rác tại nguồn. Nghiên cứu phân loại rác tại nguồn ở Paksitan, Philippine, Ấn Độ, Brazil, Angentina và Hà Lan, Lardinois và Furedy (1999) đã nhận định: Giáo dục môi trường là vấn đề không thể thiếu trong bất cứ chương trình phân loại rác tại nguồn nào, đặc biệt là khi phân loại rác hữu cơ chưa được thực hiện (Trần Thanh Lâm, 2004) [5]. Rác thải sinh hoạt sau khi được phân loại tại nguồn sẽ trở thành các nguồn tài nguyên quý giá, nguồn tài nguyên này sẽ được các nhân viên thu gom, tỷ lệ thu gom ở các nước này thường rất cao, nhiều nơi là 100%. Tùy theo từng loại rác thải mà tần suất thu gom dầy hay thưa, rác hữu cơ được con người thải ra với tỷ lệ nhiều nhất và thường bốc mùi nên được thu gom thường xuyên hơn các thành phần rác khác. Rác thu gom sẽ được vận chuyển tới các trạm trung chuyển đến các nhà máy để chế biến, thành phần hữu cơ sẽ được vận chuyển đến các nhà máy để chế biến, thành phần hữu cơ sẽ được chế biến thành phân compost phục vụ cho sản xuất nông nghiệp, cá nhà làm vườn, cây xanh..., thành phần rác có thể tái chế chế biến thành các sản phẩm khác, điều này góp phần làm giảm chi phí sản xuất, đồng thời làm giảm đáng kể lượng và chi phí xử lý rác thải. Phần rác còn lại sẽ được xử lý theo các quy trình phù hợp, chôn lấp hợp vệ sinh, đốt, hoặc bê tông hóa dùng tỏng xây dựng, ... Điển hình trong công tác quản lý rác thải sing hoạt đem lại hiệu quả phải đến Singapore, Nhật Bản: Ở Nhật Bản: mỗi năm Nhật Bản thải ra khoảng 55-60 triệu tấn rác nhưng chỉ khoảng 5% trong số đó phải đưa tới bản chôn lấp (khoảng 2,25 triệu tấn rác), còn phần lớn được đưa đến các nhà máy để tái chế. Tại đây, khung pháp lý quốc gia hướng tới giảm thiểu chất thải nhằm xây dựng một xã hội tái chế bao gồm hệ thống luật và quy định của nhà nước. Theo đó, Nhật chuyển từ hệ thống quản lý chất thải truyền thông với dòng nguyên liệu xử lý theo một hướng sang xã hội có chu trình xử lý nguyên liệu theo mô hình 3R (giảm thiểu, tái sử dụng và tái chế), (Nguyễn Song Tùng, 2007) [9]. Các hộ gia đình đã phân loại chất thải thành 3 loại riêng biệt và cho vào 3 túi với màu sách theo quy định: Rác hữu cơ, rác vô cơ và giấy vải, thủy tinh, rác kim loại. Rác hữu cơ được đưa đến nhà máy xử lý rác thải để sản cuất phân vi sinh còn các loại ra còn lại đều được đưa đến các cơ sở tái chế hàng hóa (Cục bảo vệ Môi trường, 2004) [1]. Qua số liệu thống kê về tình hình quản lý rác thải của một số nước trên thế giới cho thấy rằng, Nhật Bản là nước áp dụng phương pháp thu hồi CTR cao nhất (38%), trong khi các nước khác chỉ sử dụng phương pháp đốt và xử lý vi sinh vật là chủ yếu. BỘ MÔI TRƯỜNG Sở Quản lý chất thải và tái chế Phòng Hoạch định chính sách Đơn vị Quản lý chất thải Phòng Quản lý chất thải công nghiệp Hình 2.4: Bộ máy quản lý chất thải rắn tại Nhật Bản [14]. Bộ Môi trường có rất nhiều phòng ban, trong đó có Sở quản lý chất thải và tái chế có nhiệm vụ quản lý sự phát sinh chất thải, đẩy mạnh việc tái chế, tái sử dụng các nguồn tài nguyên có thể tái tạo một cách hợp lý với quan điểm bảo tồn môi trường sống và sử dụng một cách có hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên. Với chủ trương vân động tất cả mọi cộng đồng dân cư trong cả nước thu gom chất thải và xây dựng xã hội tái chế trong thế kỷ XXI. Chính phủ nước này đã có những chính sách thúc đẩy và khuyến khích việc quản lý chất thải rắn trên cơ sở của sự tham gia tích cực và tình nguyện của các cộng đồng dân cư khác nhau. Ở Singapore: Một đất nước chỉ có diện tích khoảng 500 km2 nhưng có nền kinh tế rất phát triển. Tại Singapore, lượng rác thải phát sinh hàng năm rất lớn nhưng lại không đủ diện tích đất để chôn lấp như các quốc gia khác nên họ rất quan tâm đến các phương pháp quản lý chất thải nhằm giảm thiểu lượng phát sinh, kết hợp xử lý rác bằng phương pháp đốt và chôn lấp. Singapore tổ chức chính quyền quản lý theo mô hình chính quyền 1 cấp. Quản lý chất thải là một bộ phận trong hệ thống quản lý môi trương của quốc gia. Hệ thống quản lý xuyên suốt, chỉ chịu sự quản lý của Chính phủ. BỘ MÔI TRƯỜNG VÀ TÀI NGUYÊN NƯỚC Sở Tài nguyên nước Sở Môi trường Phòng Sức khỏe MT Phòng Bảo vệ MT Phòng Khí tượng Trung tâm KH Bảo vệ phóng xạ và hạt nhân Bộ phận Quản lý chất thải Bộ phận Bảo tồn tài nguyên Bộ phận Kiểm soát ô n
Luận văn liên quan