Thực trạng và giải pháp hoàn thiện phương thức xuất khẩu cho ngành may Việt Nam

Nghề dệt may đã xuất hiện ở Việt Nam từ lâu đời nay. Xuất phát điểm từ những hoạt động sản xuất cá thể, hộ gia đình rồi tới các làng nghề thủ công. Ngày nay nghề dệt may đã trở thành một ngành kinh tế kỹ thuật lớn mạnh, đã thực sự khẳng định vị trí quan trọng của mình trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Hiện tại, ngành có tìm lực phát triển khá mạnh, giá trị sản xuất công nghiệp của ngành chiếm bình quân trên 9% giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp, chiếm 2% GDP cả nước. Kim ngạch xuất khẩu năm 2001 đã đạt 2,15 tỷ USD, năm 2002 đạt 2,75 tỷ USD, chiếm 14% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu cả nước. Ngành đã tạo việc làm cho gần 2 triệu lao động công nghiệp. Bàn về vấn đề xuất khẩu của ngành may Việt Nam hiện nay thì xuất khẩu được thực hiện chủ yếu bằng phương thức gia công. Giá trị hàng hóa thực hiện theo phương thức này trong những năm qua dao động trong khoảng 60-70% tổng kim ngạch xuất khẩu của toàn ngành dệt may. Nguyên liệu và phụ liệu do các doanh nghiệp trong nước sản xuất và cung ứng cho may xuất khẩu hết sức hạn hẹp. Việc không đảm bảo đủ nguyên liệu, thậm chí cả phụ liệu mà phải nhận từ khách hàng không chỉ làm cho các doanh nghiệp may Việt Nam bị động trong tổ chức sản xuất mà làm cho hiệu quả quá trình sản xuất kém, giá trị gia tăng thấp. Do vậy, để ngành may tiếp tục tăng tốc như thời gian qua thì việc tăng giá trị gia tăng là vấn đề có ý nghĩa sống còn.Muốn vậy, các doanh nghiệp may phải dần lấy lại được tính chủ động trong việc tổ chức sản xuất hay nói cách khác, các doanh nghiệp may cần xem xét việc hoàn thiện phương thức gia công xuất khẩu, kể cả có nên thay đổi phương thức xuất khẩu của ngành.

doc48 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2775 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thực trạng và giải pháp hoàn thiện phương thức xuất khẩu cho ngành may Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Nghề dệt may đã xuất hiện ở Việt Nam từ lâu đời nay. Xuất phát điểm từ những hoạt động sản xuất cá thể, hộ gia đình rồi tới các làng nghề thủ công. Ngày nay nghề dệt may đã trở thành một ngành kinh tế kỹ thuật lớn mạnh, đã thực sự khẳng định vị trí quan trọng của mình trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Hiện tại, ngành có tìm lực phát triển khá mạnh, giá trị sản xuất công nghiệp của ngành chiếm bình quân trên 9% giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp, chiếm 2% GDP cả nước. Kim ngạch xuất khẩu năm 2001 đã đạt 2,15 tỷ USD, năm 2002 đạt 2,75 tỷ USD, chiếm 14% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu cả nước. Ngành đã tạo việc làm cho gần 2 triệu lao động công nghiệp. Bàn về vấn đề xuất khẩu của ngành may Việt Nam hiện nay thì xuất khẩu được thực hiện chủ yếu bằng phương thức gia công. Giá trị hàng hóa thực hiện theo phương thức này trong những năm qua dao động trong khoảng 60-70% tổng kim ngạch xuất khẩu của toàn ngành dệt may. Nguyên liệu và phụ liệu do các doanh nghiệp trong nước sản xuất và cung ứng cho may xuất khẩu hết sức hạn hẹp. Việc không đảm bảo đủ nguyên liệu, thậm chí cả phụ liệu mà phải nhận từ khách hàng không chỉ làm cho các doanh nghiệp may Việt Nam bị động trong tổ chức sản xuất mà làm cho hiệu quả quá trình sản xuất kém, giá trị gia tăng thấp. Do vậy, để ngành may tiếp tục tăng tốc như thời gian qua thì việc tăng giá trị gia tăng là vấn đề có ý nghĩa sống còn.Muốn vậy, các doanh nghiệp may phải dần lấy lại được tính chủ động trong việc tổ chức sản xuất hay nói cách khác, các doanh nghiệp may cần xem xét việc hoàn thiện phương thức gia công xuất khẩu, kể cả có nên thay đổi phương thức xuất khẩu của ngành. CHƯƠNG I:TỔNG QUAN VỀ NGÀNH DỆT MAY VÀ CÁC PHƯƠNG THỨC XUẤT KHẨU 1.1:Lịch sử phát triển và khái quát ngành dệt may Việt Nam hiện nay 1.1.1:Lịch sử phát triển của ngành dệt may Việt Nam Ngành dệt may là một trong những ngành công nghiệp có lịch sử phát triển lâu đời ở Việt Nam. Đặc biệt ngành dệt sợi có từ lâu và phát triển mạnh trong thời kỳ thực dân Pháp đô hộ. Trước khi thực dân Pháp xâm lược Đông Dương đã tồn tại nhiều nhà sản xuất vải tại Việt Nam sử dụng sợi nhập khẩu. Thực dân Pháp đã tăng thuế nhập khẩu sợi làm cho sản xuất vải tại Việt Nam gặp nhiều khó khăn. Nhưng trong thời kỳ này nhiều nhà máy dệt hiện đại do Pháp đầu tư đã được thành lập. Năm 1889, nhà máy dệt đầu tiên tại Việt Nam được Pháp xây dựng tại Nam Định, tiếp theo là năm 1894 tại Hà Nội và sau đó tại Hải Phòng. Năm 1912, ba nhà máy hợp nhất thành “Công ty dệt vải Đông Kinh”. Chính phủ thực dân Pháp thu được nhiều lợi nhuận từ việc kinh doanh độc quyền ngành này. Sau đại chiến thế giới thứ 2, ngành dệt may Việt Nam có những bước phát triển đáng kể. Vào thời gian đó, các doanh nghiệp dệt ở Miền Bắc nhập máy móc thiết bị dệt sợi từ Trung Quốc, Liên Xô củ, các nước Đông Âu, còn các doanh nghiệp ở Miền Nam nhập từ các nước phương tây để đẩy mạnh sản xuất hàng dệt may. Năm 1975 sau khi Việt Nam thống nhất các doanh nghiệp dệt may quy mô lớn của miền Nam được quốc hửu hoá và được đưa vào hệ thống kinh tế bao cấp. Uỷ ban kế hoạch nhà nước giao chỉ tiêu sản xuất cho các doanh nghiệp dệt, nhuộm, may nên hoạt động sản xuất lưu thông hoàn toàn phụ thuộc vào kế hoạch. Kế hoạch và việc sản xuất hàng dệt may được thực hiện theo quy trình: Trước tiên, uỷ ban kế hoạch nhà nước dao chỉ tiêu cho các doanh nghiệp may về kế hoạch sản xuất, số lượng, giá. Các doanh nghiệp may căn cứ vào đó tính số lượng nguyên liệu đầu vào trình lên uỷ ban kế hoạch về các doanh nghiệp nhuộm có thể đáp ứng yêu cầu. Sau đó, căn cứ vào những đề nghị này uỷ ban kế hoạch lại giao chỉ tiêu sản lượng cho các doanh nghiệp nhuộm ấn định về giá và ngày giao hàng. Dựa vào giá cả và ngày giao hàng, các doanh nghiệp nhuộm lại tính lượng sợi cần thiết rồi trình uỷ ban kế hoạch nhà nước về nhà sản xuất sợi có thể sản xuất loại sợi theo yêu cầu. Cuối cùng uỷ ban kế hoạch nhà nước giao chỉ thị cho doanh nghiệp sợi sản xuất lượng sợi cần thiết như kế hoạch được trình ở trên. Trong nền kinh tế kế hoạch, mối quan hệ giữa các doanh nghiệp dệt, nhuộm và may rất mật thiết. Các doanh nghiệp may tiến hành sản xuất theo thiết kế, số lượng và giá đã được uỷ ban kế hoạch nhà nước quy định. Các doanh nghiệp này thường xuyên nắm bắt những thông tin như loại vải nào thì có thể sản xuất ở doanh nghiệp nào và giữ mối quan hệ mật thiết với các doanh nghiệp nhuộm. Đơn giá, mẫu mã… của vải sử dụng ở các doanh nghiệp may do uỷ ban kế hoạch nhà nước quy định nhưng nhà cung cấp vải lại do các doanh nghiệp may để trình lên uỷ ban kế hoạch nhà nước nhưng thực chất quyết định cuối cùng vẫn do các doanh nghiệp này đưa ra. Đồng thời các doanh nghiệp nhuộm củng giữ mối quan hệ khăng khít với các doanh nghiệp dệt. Xét trên toàn nghành mối quan hệ trực tiếp lâu dài giữa các doanh nghiệp và sự chia sẻ thông tin giữa các doanh nghiệp đã được duy trì khá tốt. Tuy nhiên mối quan hệ khăng khít cùng việc chia sẻ thông tin giữa các doanh nghiệp khác ngành đã có sự thay đổi lớn từ sau khi có hiệp định thương mại gia công uỷ thac( Hiệp định ngày 19-5) được ký kết giữa chính phủ liên xô củ và chính phủ Việt Nam vào năm 1986. Theo hiệp định này chính phủ Việt Nam nhập khẩu nguyên liệu cơ sở từ Liên Xô để tiến hành sản xuất hàng may mặc tại các doanh nghiệp nhà nước, sau đó xuất khẩu trở lại Liên Xô. Hiệp định này đã làm giảm hẳn nhu cầu đối với sản phẩm của các doanh nghiệp nhuộm và dệt trong nước và mối quan hệ mật thiết giữa các doanh nghiệp củng bị rạn nứt. Việc các doanh nghiệp dệt, nhuộm lớn đầu từ vào nghành may đã đẩy nhanh hơn sự rạn nứt này. Các doanh nghiệp trong các lĩnh vực dệt, nhuôm,vải từ mối quan hệ hợp tác đã trở thành đối thủ cạnh tranh của nhau. Người ta cho rằng đó là nguyên nhân lịch sử chủ yếu khiến cho sự phân ngành trong nghành dệt may Việt Nam chưa phát triển. 1.1.2: Khái quát về ngành dệt may Viêt Nam hiện nay. Từ sau khi thực hiện chính sách đổi mới đặc biệt bước vào thập kỉ 90 của thế kỷ 20, ngành kệt may Việt Nam đã có những bước phát triển đáng kể. Vào đầu những năm 90 các nước Đông Á như Hàn Quốc, Đài Loan, Nhật Bản trở thành những nước nhập khẩu hàng dệt may chủ yếu của Việt Nam và từ năm 1993 khi hiệp định thương mại giữa EU và Việt Nam được ký kết, quy định hạn ngạch xuất khẩu hàng may mặc sang EU thì xuất khẩu hàng dệt may tăng nhanh. Xem xét sự thay đổi của tổng giá trị sản lượng hàng dệt may từ năm 1995 đến năm 1999 cho thấy trong năm năm, tổng giá trị sản lượng tăng khoảng 57%, như vậy tỷ lệ tăng trưởng thực tế bình quân khoảng 12% /năm. So với các ngành khác về lĩnh vực xuất khẩu ngành dệt may củng đã phát triển rất nhanh và được coi là ngành xuất khẩu mũi nhọn trong thập niên 90. Bảng sau thể hiện sự thay đổi danh mục hàng xuất khẩu của Việt Nam giai đoạn 1994-1998. Cho đến trước năm 1994 kim ngạch xuất khẩu dầu thô, thuỷ sản vẩn cao hơn hàng dệt may, nhưng sang năm 1995 mặt hàng dẹt may đã vượt lên trên hàng thuỷ sản, tiếp đến vượt dầu thô vào năm 1997 và đang chiếm vị trí dẫn đầu trong lĩnh vực xuất khẩu. Như vậy so với các ngành khác thì ngành dệt may vấn là ngành xuất khẩu chủ yếu có tốc độ tăng trưởng cao. Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam  1994  1995  1996  1997  1998   Hàng dệt may  550 13,6%  800 14,7%  1150 15,8%  1349 14,7%  1531 16,4%   Dầu thô  866 21,4%  1024 18,8%  1346 18,6%  1413 15,4%  1232 13,2%   Gạo  425 10,5%  549 10,1%  855 11,8%  870 9,5%  1024 10,9%   Thuỷ sản  551 13,6%  620 11,4%  661 9,1%  781 8,5%  818 8,7%   Cà phê  95 2,3%  495 9,1%  337 4,6%  491 5,3%  594 6,3%   Tổng cộng (gồm cả các mặt hàng khác)  4051  5449  7256  9185  9361   Nguồn :Tác giả lập từ The economics intelligence unit country profile 2000. (chú thích ) dòng trên : Kim ngạch xuất khẩu , đơn vị triệu USD; dòng dưới :Tỷ lệ trong tổng kim ngạch xuất khẩu Xét theo cơ cấu sở hữu ngành dệt may gồm 3 bộ phân: Sở hữu nhà nước, ngoài nhà nước, vốn đầu tư nước ngoài. Giá trị sản lượng của các hình thức sở hữu trong ngành dệt may Việt Nam. Năm 1995 giá trị sản lượng của khu vực nhà nước đạt 4532 tỷ đồng, khu vực ngoài nhà nước đạt 2986 tỷ đồng tương đương khoảng 2/3 khu vực nhà nước, còn khu vực có vốn đầu từ nước ngoài đạt 1606 tỷ đồng tức khoảng 1/3 khu vực nhà nước. Đến năm 1999 trong khi tổng giá trị sản lượng của khu vực nhà nước đạt 5973 tỷ đồng thì khu vực ngoài nhà nước và đẩu tư nước ngoài đạt tương ứng 4323 tỷ đồng và 4103 tỷ đồng, thu hệp chênh lệch so với khu vực nhà nước. Các hình thức sở hữu trong tổng giá trị sản lượng. Năm 1995 tổng giá trị sản lượng của khu vực nhà nước vượt sang so với hai khu vực còn lại chiếm gần 50%. Nhưng tỷ lệ đó có xu hướng giảm dần và đến năm 1999 giảm xuống còn hơn 40%. Trong khi đó, tỷ lệ của khu vực ngoài quốc doanh có xu hướng tương đối ổn định, còn khu vực có vốn nước ngoài ngày càng tăng cao. Khác với ngành dệt và nhuộm trong ngành may khu vực ngoài nhà nước chiếm tỷ lệ lớn nhất. Khu vực nhà nước chiếm khoảng 1/3 tổng giá trị sản lượng và tỷ lệ của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài có xu hướng tăng nhẹ. Trong ngành may, yếu tố khiến khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh chiếm tỷ lệ lớn nhât trong tổng giá trị sản lượng xuất phát từ đặc tính của ngành may là vốn đầu tư ban đầu tương đối thấp nên các doanh nghiệp dể dàng tham gia vào thị trường ngay cả khi vốn rất ít. 1.2 Các phương thức xuất khẩu của ngành may Việt Nam 1.2.1 Gia công xuất khẩu (CMT) Xuất khẩu bằng phương thức gia công quốc tế là quan hệ kinh tế giữa 2 chủ thể kinh tế ở 2 quốc gia khác nhau. Nội dung mối quan hệ này được tóm tắt trong bảng dưới đây. Nếu xem xét trên khía cạnh quyền sở hữu nguyên liệu trong quá trình sản xuất sản phẩm thì phương thức này có thể được thực hiện theo hình thức nhận nguyên phụ liệu và giao thành phẩm, nhưng cũng có thể được thực hiện theo hình thức mua nguyên phụ liệu và bán thành phẩm. Trong phương thức sản xuất và phân phối này, các đối tác tham gia có thể là hai bên hoặc nhiều bên. Phương thức gia công xuất khẩu đã có từ lâu đời, được hình thành dựa trên cơ sở khai thác lợi thế của các bên tham gia. Trong lịch sử phát triển công việc, phương thức này đã từng được phát triển mạnh ở Hàn Quốc, Malaysia, Đài Loan, Singapore … Trong thời kỳ đầu công nghiệp hóa, phương thức này đã được các quốc gia và khu vực này coi là điều kiện sống còn cho sự phát triển của một số ngành công nghiệp. Ngày nay, phương thức gia công xuất khẩu lại được dịch chuyển qua các nước nghèo hơn nhưng có nguồn nhân lực dồi dào và rẻ như Việt Nam, Bangladet, Nepan … Chủ thể nước ngoài  Chủ thể trong nước   -Đặt yêu cầu về loại mặt hàng, sản lượng, yêu cầu chất lượng, chi phí gia công, thời gian giao hàng và các điều kiện khác.  - Cân đối khả năng sản xuất ( máy móc thiết bị và lực lượng lao động) theo yêu cầu đặt hàng của đối tác nước ngoài.   - Cung cấp nguyên phụ liệu chủ yếu  - Tự bảo đảm một số loại phụ liệu   - Hướng dẫn kỹ thuật sản xuất  - Tổ chức quá trình sản xuất   - Kiểm định chất lượng và nhận hàng  - Giao hàng   - Trả tiền gia công  - Nhận tiền gia công   Nguồn: Nhóm nghiên cứu ĐH KTQD xây dựng Việt Nam đang trong quá trình thực hiện nhiệm vụ công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Trong chiến lược CNH-HĐH hiện nay, công nghiệp dệt may được coi là ngành mũi nhọn. Định hướng phát triển công nghiệp dệt may được phát hiện trên cơ sở đánh giá lợi thế của Việt Nam và vị trí của ngành trong việc giải quyết các vấn đề kinh tế xã hội của đất nước. Việt Nam có những lợi thế rất cơ bản để phát triển công nghiệp dệt may thành một ngành mũi nhọn trong cơ cấu kinh tế. Đó là nguồn nhân lực dồi dào, giá nhân công rẻ; bản chất của công nghệ may không phức tạp và không đòi hỏi lượng vốn đầu tư lớn; xu hướng dịch chuyển các ngành công nghiệp hao phí nhiều lao động, trong đó có công nghiệp dệt may, từ các nước công nghiệp phát triển sang các nước đang phát triển; truyền thống của ngành tại Việt Nam, vị trí địa lý kinh tế và sự ổn định về chính trị xã hội … Bên cạnh những thuận lợi hết sức cơ bản đó, trong việc phát triển công nghiệp dệt may, Việt Nam cũng có những yếu thế, khó khăn nhất định. Trong đó chủ yếu là: - Khả năng thiết kế thời trang còn hạn chế. Về cơ bản đến nay, thương hiệu hàng dệt may Việt Nam chưa tạo lập được chỗ đứng vững trên thị trường quốc tế. - Kinh nghiệm Marketting quốc tế chưa tích lũy được nhiều, khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới còn thấp. - Trình độ trang bị kỹ thuật còn thấp kém so với một số nước trong khu vực. - Phần lớn trong doanh nghiệp đang gặp khó khăn về vốn kinh doanh … Sơ đồ sản xuất và phân phối hàng may mặc  Hiện tại, trong quá trình thực hiện phương thức gia công xuất khẩu, khách hàng nước ngòai không chỉ cung cấp cho các doanh nghiệp may những thứ cần thiết trực tiếp cho sản xuất như nguyên vật liệu bao gồm nguyên liệu, phụ liệu, bản thiết kế, mẫu thiết kế, thuyết minh sản phẩm … mà còn thực hiện chuyển giao cả kỹ thuật sản xuất và quản lý cho bên Việt Nam. Khách hàng hướng dẫn từ công đoạn lắp ráp dây chuyền sản xuất, các kỹ thuật may, hòan thiện và kiểm tra sản phẩm, bên Việt Nam chỉ thực hiện công đoạn thứ tự trong quá trình sản xuất ra sản phẩm may mặc. Nhờ việc hướng dẫn kỹ thuật này mà trình độ sản xuất của các doanh nghiệp may Việt Nam được nâng cao rõ rệt. Nhiều nhà nghiên cứu khi nhận xét về vấn đề này đã cho rằng gia công xuất khẩu là con đường chuyển giao kỹ thuật chủ yếu của các doanh nghiệp may Việt Nam. 1.2.2Xuất khẩu trực tiếp (FOB) Trái với hình thức xuất khẩu theo phương thức gia công quốc tế, trong hình thức xuất khẩu trực tiếp, các doanh nghiệp may Việt Nam tự mua nguyên phụ liệu và bán các sản phẩm cho các khách hàng nước ngoài. Hiện tại, trong sản xuất lưu thông hàng dệt may đang tồn tại 3 hình thức xuất khẩu FOB được gọi là FOB kiểu I, FOB kiểu II, FOB kiểu III. FOB kiểu I: Khách hàng nước ngoài chỉ định nhà sản xuất vải, quy cách, màu vải, từ đó nhà máy mua vải sản xuất và xuất khẩu theo đơn hàng. Điểm khác biệt của doanh nghiệp may thực hiện xuất khẩu FOB kiểu I và doanh nghiệp may thực hiện theo hình thức gia công ủy thác là phía Việt Nam phải chịu trách nhiệm trong việc thanh toán tiền mua vải. Khi tiến hành thanh toán tiền mua vải, các doanh nghiệp may Việt Nam có thể thu được lợi nhuận lưu thông. Trên thực tế,chênh lệch về lợi nhuận giữa hình thức này và hình thức gia công xuất khẩu là không đáng kể. FOB kiểu II: Khách hàng đưa ra mẫu hàng hóa cho doanh nghiệp may Việt Nam báo giá và nhận đơn hàng. Trong phương thức này, doanh nghiệp tự chuẩn bị vải bằng cách tìm mua trong nội bộ công ty hoặc tìm trên thị trường. Do tự chuẩn bị vải nên các doanh nghiệp này có thể chủ động đưa phần lợi nhuận của khâu mua vải vào báo giá sản phẩm của công ty mình, do đó lợi nhuận được nâng lên. FOB kiểu III: Trong hình thức này, doanh nghiệp may Việt Nam tự thiết kế mẫu mã hàng hóa, tìm mua nguyên vật liệu và xuất khẩu với nhãn hiệu riêng của mình. Theo hình thức này, doanh nghiệp may Việt Nam phải đảm trách tòan bộ quá trình sản xuất từ khâu lập kế hoạch, thiết kế sản phẩm, tìm mua nguyên vật liệu, cắt may hòan thiện sản phẩm và phân phối. Phạm vi hoạt động của họ lớn hơn nhiều, bao trùm toàn bộ quá trình như đã trình bày, mức độ rủi ro của thị trường và doanh nghiệp may phải gánh chịu cũng lớn hơn và do đó lợi nhuận mà họ nhận được cũng cao hơn. Có thể nói rằng trong ba hình thức xuất khẩu trực tiếp thì FOB kiểu III là loại có nhiều rủi ro nhất nhưng cũng có khả năng mang lại nhiều lợi nhuận nhất. Việc phát triển công nghiệp may phải phát huy được những lợi thế cơ bản vốn có, nhưng cũng phải tính đến những khó khăn và yếu kém của ngành may như đã đề cập ở trên để giảm thiểu các rủi ro trong kinh doanh. Trong quan hệ thương mại quốc tế của các doanh nghiệp may, việc xuất khẩu trực tiếp dưới hình thức mua nguyên vật liệu sản xuất sản phẩm (FOB) về lý thuyết có lợi hơn là xuất khẩu dưới hình thức gia công (CMT) do bên Việt Nam sẽ được hưởng lợi nhuận lưu thông liên quan đến các khâu thiết kế, chuẩn bị nguyên phụ liệu, phân phối. Song với những khó khăn và yếu thế nếu trên, các doanh nghiệp may Việt Nam vẫn cần thiết phải duy trì một mức độ nhất định về xuất khẩu bằng hình thức gia công. Về lâu dài, xuất khẩu trực tiếp phải trở thành phương thức xuất khẩu chủ yếu của các doanh nghiệp may Việt Nam nhưng gia công là bước đi quan trọng để tạo lập uy tín của sản phẩm dệt may Việt Nam trên thị trường thế giới. Thông qua gia công, các doanh nghiệp may có thể học hỏi kinh nghiệm Marketting quốc tế, tổ chức quản lý sản xuất, tiếp thu công nghệ mới, từng bước đổi mới công nghệ, tích lũy nguồn tài chính, chuẩn bị các điều kiện cần thiết để thực hiện xuất khẩu trực tiếp một cách có hiệu quả. Như vậy trong những năm tới, phương thức gia công vẫn phải được tiếp tục thực hiện với các doanh nghiệp may Việt Nam và thực hiện gia công xuất khẩu phải được xem như là một bước chuẩn bị cho việc chuyển sang hình thức xuất khẩu trực tiếp. CHƯƠNG II:THỰC TRẠNG PHƯƠNG THỨC XUẤT KHẨU CỦA NGÀNH MAY VIỆT NAM 2.1 Thực trạng về sức cạnh tranh ngành may Việt Nam Về sản phẩm: Trong thời gian qua, ngành may Việt Nam đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ, sản phẩm của ngành bao gồm nhiều chủng loại khác nhau từ sơ mi nam nữ, áo jacket, áo khoác nam nữ, quần jean, bộ quần áo nam nữ… Nhiều sản phẩm mới ra đời, đặc biệt đã xuất hiện một số hàng chất lượng cao có tiêu chuẩn quốc tế như sơ mi cao cấp, áo jacket quần jean … Những sản phẩm này đã khẳng định được chỗ đứng của mình trên nhiều thị trường khó tính như Paris, London, Berlin, Tokyo, New York… Mặc dù vậy, với điều kiện kỹ thuật và công nghệ hạn chế nên phần nhiều các sản phẩm của ngành thuộc nhóm sản phẩm trung bình, chất lượng còn ở mức khiêm tốn ( mặc dù cũng có một số sản phẩm có chất lượng cao). Nhìn chung là các doanh nghiệp may chưa đáp ứng được những yêu cầu đối với hàng may như mốt, mẫu mã, đường nét, chất liệu, màu sắc… của thị trường xuất khẩu. Sản phẩm của ngành có nhiều đặc điểm riêng biệt ( như yếu tố thời trang ) khiến thị hiếu khách hàng thay đổi nhanh phụ thuộc vào mốt và thời vụ, công nghệ sản xuất thời trang lại thường khá đơn giản nên mẫu mốt dễ bị bắt chước … Vì vậy dù công tác mẫu mốt đã có những bước phát triển đáng kể nhưng chủ yếu ngành vẫn sử dụng mẫu mốt của ngành đặt hàng gia công. Cũng bởi lý do này mà công tác sản xuất thường phụ thuộc vào khách hàng. Một số chủng loại hàng may xuất khẩu vào thị trường Mỹ năm 2002 TT  Tên hàng  TT  Tên hàng   1  Hàng may cho trẻ sơ sinh  12  Bộ quần áo   2  Quần nam nữ trẻ em  13  Áo jacket   3  Áo nịt nam nữ trẻ em  14  Váy ngắn, váy dài   4  Áo khoác nam nữ trẻ em  15  Đồ ngủ   5  Áo veston nam bé trai  16  Đồ lót   6  Áo veston nữ bé gái  17  Áo gối   7  Sơ mi nam nữ cho trẻ em  18  Chăn   8  Sơ mi nam nữ cho người lớn  19  Túi xách   9  Áo veston nam  20  Hàng may chất liệu len   10  Bộ quần áo  21  Hàng may lụa và sợi thực vật   11  Áo blu nam nữ cho người lớn  22  Hàng may bông và không bông   Nguồn: Tài liệu hội thảo “Để đạt được mục tiêu xuất khẩu hàng dệt may năm 2003 và 2005 với hiệu quả cao” Nói tóm lại, xét về sản phẩm, tuy chất lượng và cơ cấu sản phẩm của ngành đa đạng và phong phú hơn trước nhưng so với nhu cầu và thị hiếu của khách hàng thì còn nhiều khoảng trống chưa đáp ứng, nhất là đối với thị trường các nước tư bản phát triển. Hàng may xuất khẩu của ngành nói chung chưa có nhãn mác thương mại riêng, đây cũng là lý do làm giảm khả năng cạnh tranh của sản phẩm may trên thị trường xuất khẩu. Về giá bán sản phẩm Ngành may có đặc điểm là có hàm lượng lao động cao, yêu cầu công nghệ không quá hiện đại và phụ thuộc nhiều vào kỹ năng của người lao động. Đặc điểm này làm cho ngành được đánh giá là có tính phù hợp cao trong giai đoạn phát triển kinh tế Việt Nam hiện nay. Việt Nam có nguồn lao động dồi