Tiểu luận Nợ nước ngoài và xử lý nợ nước ngoài ở Việt Nam

Quá trình toàn cầu hoá nền kinh tế đang diễn ra nhanh chóng với quy mô ngày càng lớn trong tất cả mọi lĩnh vực đời sống kinh tế xã hội. Hay nói cách khác xu thế hội nhập đang trở thành xu thế chung và tất yếu đối với tất cả các quốc gia. Trong xu thế ấy, không một quốc gia nào muốn phát triển lại có thể đứng ngoài cuộc không tham gia vào quá trình vận chuyển các luồng vốn quốc tế, bởi vì hội nhập sẽ tạo cơ hội thuận lợi cho các nước, đặc biệt là các nước kém phát triển có thể đi tắt đón đầu trong việc tiếp cận với công nghệ mới, tận dụng các nguồn vốn từ bên ngoài, nhưng đồng thời cũng đặt ra cho các nước này những thách thức, khó khăn. Sử dụng vốn vay nước ngoài hợp lý sẽ đem lại những hiệu quả hết sức to lớn, tạo được những lợi thế của những người đi sau, là sự chọn lựa thông minh để rút ngắn thời gian tích luỹ vốn, nhanh chóng phát triển kinh tế đất nước. Nội dung của tiểu luận gồm 4 chương : Chương I : Tổng quan về nợ nước ngoài Chương II : Thực trạng ở các nước đang phát triển nói chung và ở Việt Nam nói riêng Chương III : Một số bài học kinh nghiệm Chương IV: Một số giải pháp khắc phục khủng hoảng nợ nước ngoài ở các nước đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng Tính cấp thiết của tiểu luận nghiên cứu: Để đạt tốc độ tăng trưởng cao trong điều kiện trong nước còn hạn chế, các nước đang phát triển thường thu hút nguồn vốn nước ngoài bằng nhiều cách khác nhau, trong đó, vay nợ là một phương thức phổ biến. Vay nợ nước ngoài bao gồm vay nợ dưới hình thức vay vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) có tính chất ưu đãi và vay thương mại theo các điều kiện thị trường. Tuy nhiên, cũng phải lưu ý rằng sử dụng vốn vay cũng chính là tạo cho mình một khoản nợ đáng kể. Chính vì vậy chúng ta cần phải hiểu rõ việc sử dụng nợ nước ngoài rất cần có một chiến lược cụ thể, hợp lý; nếu không chính các khoản nợ đó lại là những rào cản đối với sự phát triển kinh tế của đất nước, cản trở quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới . Nguyên nhân của những thất bại trong việc vay nợ nước ngoài có rất nhiều, trong đó phải kể đến việc buông lỏng quản lý nợ nước ngoài. Chính vì vậy chính sách quản lý nợ nước ngoài là một bộ phận thiết yếu trong hệ thống tài chính quốc gia. Vấn đề vay và trả nợ ở Việt Nam thực ra mới chỉ bắt đầu nổi lên như một vấn đề quan trọng kể từ khi có sự nối lại các hoạt động cho vay của hai tổ chức tài chính đa phương lớn là Ngân hàng Thế giới và Ngân hàng Phát triển Châu á vào năm 1993. Song, cũng kể từ đó, cùng với những cam kết hỗ trợ ODA ngày càng lớn của cộng đồng các nhà tài trợ từ các nước công nghiệp phát triển và các tổ chức tài chính đa phương, vay nước ngoài của Việt Nam ngày càng tăng dần về số lượng vay, số khoản vay, tính đa dạng của các hình thức vay và trả nợ, và sự cần thiết phải theo dõi và kiểm soát nợ nước ngoài cũng trở nên ngày càng cấp thiết. Tính cấp thiết của việc đổi mới quản lý nợ nước ngoài cũng xuất phát từ việc tăng cường hội nhập của nền kinh tế Việt Nam vào quá trình toàn cầu hoá. Mặc dù chính sách của Chính phủ trong trung hạn là hạn chế vay thương cũng tất yếu dẫn đến sự gia tăng vốn vay nước ngoài của khối doanh nghiệp – cả vay lại ODA của Chính phủ lẫn vay thương mại. . Ý nghĩa của việc nghiên cứu Một là hệ thống hoá những vấn đề lý thuyết về quản lý nợ nước ngoài, khảo cứu các lý thuyết và mô hình quản lý nợ phù hợp và một số bài học kinh nghiệm về quản lý nợ nước ngoài trên thế giới. Hai là phân tích thực trạng hệ thống quản lý nợ nước ngoài ở Việt Nam trong thời gian qua, tập trung phân tích thực trạng đánh giá mức độ nợ nần đang áp dụng hiện nay ở Việt Nam. Qua đó đưa ra một số đề xuất tăng cường quản lý nợ nước ngoài ở Việt Nam trong thời gian tới.

doc21 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 4240 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Nợ nước ngoài và xử lý nợ nước ngoài ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC CÖÛU LONG KHOA QUAÛN TRÒ KINH DOANH -----(((((-----  Tieåu luaän moân KINH TEÁ HOÏC PHAÙT TRIEÅN Ñeà taøi: NÔÏ NÖÔÙC NGOAØI & XÖÛ LYÙ NÔÏ NÖÔÙC NGOAØI ÔÛ VIEÄT NAM Lôùp: Thöông Maïi & Dòch Vuï GVHD: TS. Ñoã Phuù Traàn Tình Nhoùm SV: -Traàn Thò Ngoïc Dieäu (10.042.021) -Döông Hoaøng Thanh Duy (NT) (10.042.022) -Phan Thò Thuùy Kieàu (10.042.026) -Nguyeãn Haûi Nguyeân (10.042.028) -Nguyeãn Minh Thieän (10.042.033) (Nhaän xeùt: Taát caû thaønh vieân ñeàu tích cöïc) VÓNH LONG THAÙNG 12/2010 Lôøi Môû Ñaàu Quá trình toàn cầu hoá nền kinh tế đang diễn ra nhanh chóng với quy mô ngày càng lớn trong tất cả mọi lĩnh vực đời sống kinh tế xã hội. Hay nói cách khác xu thế hội nhập đang trở thành xu thế chung và tất yếu đối với tất cả các quốc gia. Trong xu thế ấy, không một quốc gia nào muốn phát triển lại có thể đứng ngoài cuộc không tham gia vào quá trình vận chuyển các luồng vốn quốc tế, bởi vì hội nhập sẽ tạo cơ hội thuận lợi cho các nước, đặc biệt là các nước kém phát triển có thể đi tắt đón đầu trong việc tiếp cận với công nghệ mới, tận dụng các nguồn vốn từ bên ngoài, nhưng đồng thời cũng đặt ra cho các nước này những thách thức, khó khăn. Sử dụng vốn vay nước ngoài hợp lý sẽ đem lại những hiệu quả hết sức to lớn, tạo được những lợi thế của những người đi sau, là sự chọn lựa thông minh để rút ngắn thời gian tích luỹ vốn, nhanh chóng phát triển kinh tế đất nước. Nội dung của tiểu luận gồm 4 chương : Chương I : Tổng quan về nợ nước ngoài Chương II : Thực trạng ở các nước đang phát triển nói chung và ở Việt Nam nói riêng Chương III : Một số bài học kinh nghiệm Chương IV: Một số giải pháp khắc phục khủng hoảng nợ nước ngoài ở các nước đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng Tính cấp thiết của tiểu luận nghiên cứu: Để đạt tốc độ tăng trưởng cao trong điều kiện trong nước còn hạn chế, các nước đang phát triển thường thu hút nguồn vốn nước ngoài bằng nhiều cách khác nhau, trong đó, vay nợ là một phương thức phổ biến. Vay nợ nước ngoài bao gồm vay nợ dưới hình thức vay vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) có tính chất ưu đãi và vay thương mại theo các điều kiện thị trường. Tuy nhiên, cũng phải lưu ý rằng sử dụng vốn vay cũng chính là tạo cho mình một khoản nợ đáng kể. Chính vì vậy chúng ta cần phải hiểu rõ việc sử dụng nợ nước ngoài rất cần có một chiến lược cụ thể, hợp lý; nếu không chính các khoản nợ đó lại là những rào cản đối với sự phát triển kinh tế của đất nước, cản trở quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới . Nguyên nhân của những thất bại trong việc vay nợ nước ngoài có rất nhiều, trong đó phải kể đến việc buông lỏng quản lý nợ nước ngoài. Chính vì vậy chính sách quản lý nợ nước ngoài là một bộ phận thiết yếu trong hệ thống tài chính quốc gia. Vấn đề vay và trả nợ ở Việt Nam thực ra mới chỉ bắt đầu nổi lên như một vấn đề quan trọng kể từ khi có sự nối lại các hoạt động cho vay của hai tổ chức tài chính đa phương lớn là Ngân hàng Thế giới và Ngân hàng Phát triển Châu á vào năm 1993. Song, cũng kể từ đó, cùng với những cam kết hỗ trợ ODA ngày càng lớn của cộng đồng các nhà tài trợ từ các nước công nghiệp phát triển và các tổ chức tài chính đa phương, vay nước ngoài của Việt Nam ngày càng tăng dần về số lượng vay, số khoản vay, tính đa dạng của các hình thức vay và trả nợ, và sự cần thiết phải theo dõi và kiểm soát nợ nước ngoài cũng trở nên ngày càng cấp thiết.  Tính cấp thiết của việc đổi mới quản lý nợ nước ngoài cũng xuất phát từ việc tăng cường hội nhập của nền kinh tế Việt Nam vào quá trình toàn cầu hoá. Mặc dù chính sách của Chính phủ trong trung hạn là hạn chế vay thương cũng tất yếu dẫn đến sự gia tăng vốn vay nước ngoài của khối doanh nghiệp – cả vay lại ODA của Chính phủ lẫn vay thương mại. . Ý nghĩa của việc nghiên cứu Một là hệ thống hoá những vấn đề lý thuyết về quản lý nợ nước ngoài, khảo cứu các lý thuyết và mô hình quản lý nợ phù hợp và một số bài học kinh nghiệm về quản lý nợ nước ngoài trên thế giới. Hai là phân tích thực trạng hệ thống quản lý nợ nước ngoài ở Việt Nam trong thời gian qua, tập trung phân tích thực trạng đánh giá mức độ nợ nần đang áp dụng hiện nay ở Việt Nam. Qua đó đưa ra một số đề xuất tăng cường quản lý nợ nước ngoài ở Việt Nam trong thời gian tới. Do kiến thức còn hạn hẹp và thời gian không cho phép nên bài tiểu luận của nhóm em chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, nhóm em kính mong nhận được những lời nhận xét của thầy! Nhóm em xin chân thành cảm ơn! Mục Lục Chương I: Tổng Quan Về Nợ Nước Ngoài 1. Khái niệm 2. Phân loại 3. Các chỉ tiêu đánh giá nợ nước ngoài 4. Đánh giá mức độ nợ nước ngoài của Việt Nam Chương II : Thực Trạng Nợ Nước Ngoài ở Các Nước Đang Phát Triển Nói Chung Và Việt Nam Nói Riêng. 1. Nợ nước ngoài ở các khu vực 2. Thực trạng nợ nước ngoài ở các nước đang phát triển 3. Thực trạng nợ nước ngoài của Việt Nam Chương III : Một Số Bài Học Kinh Nghiệm 1. Thực trạng và các giải pháp trả nợ nước ngoài của Nga 2. Thực trạng và khủng hoảng nợ nước ngoài của Dubai Chương IV : Một Số Giải Pháp Khắc Phục Khủng Hoảng Nợ Nước Ngoài ở Các Nước Đang Phát Triển Nói Chung Và Việt Nam Nói Riêng Nhóm 1: Quản lý nợ nước ngoài của Chính phủ Nhóm 2: Quản lý nợ nước ngoài của các doanh nghiệp Nhóm 3: Về hạn mức vay nợ: Nhóm 4: Hoàn thiện chính sách và cơ chế quản lý nợ nước ngoài Nhóm 5: Hoàn thiện tổ chức bộ máy quản lý nợ nước ngoài Nhóm 6: Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng năng lực nghề nghiệp, đạo đức cho cán bộ quản lý Nhóm 7: Tổ chức mạng lưới thông tin nợ nước ngoài    Chương 1: Tổng quan về nợ nước ngoài 1- Khái niệm Theo quy chế quản lý vay và trả nợ nước ngoài (Ban hành kèm nghị định số 90/1998/NĐ-CP ngày 07/11/1998 của Chính phủ) thì không gọi là nợ mà gọi là vay nước ngoài: “Vay nước ngoài là khoản vay ngắn, trung và dài hạn (có hoặc không có lãi) do Nhà nước Việt Nam, Chính phủ Việt Nam hoặc doanh nghiệp là pháp nhân Việt Nam (kể cả doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài) vay của tổ chức tài chính quốc tế, của Chính phủ, của ngân hàng nước ngoài hoặc của tổ chức và cá nhân nước ngoài khác (sau đây gọi là bên cho vay nước ngoài)”. Như vậy, theo cách hiểu này nợ nước ngoài là tất cả các khoản vay mượn của tất cả các pháp nhân Việt Nam đối với nước ngoài và không bao gồm nợ của các thể nhân (nợ của cá nhân và hộ gia đình). Theo 8 tổ chức quốc tế nghiên cứu thống kê nợ nước ngoài, gồm Ngân hàng Thanh toán Quốc tế, Ban Thư ký Khối Thịnh Vượng chung, Tổ chức Thống Kê Châu Âu, Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế, Ban Thư ký Câu lạc bộ Paris, Hội nghị về Thương mại và Phát triển của Liên Hiệp Quốc, nợ nước ngoài được thống nhất định nghĩa: “Tổng nợ nước ngoài tại bất kỳ thời điểm nào, là tổng dư nợ của các nghĩa vụ nợ tại thời điểm đó, không bao gồm các nghĩa vụ nợ dự phòng, đòi hỏi người đi vay phải thanh toán nợ gốc có hay không có lãi trong tương lai và khoản nợ này là nợ của người cư trú với người không cư trú trong quốc gia”. 2- Phân loại: Phân loại các khoản nợ vay nước ngoài chủ yếu căn cứ vào các tiêu chí khác nhau giúp cho công tác theo dõi, đánh giá và quản lý nợ có hiệu quả.Cách phân loại chủ yếu lối với nợ nước ngoài của một quốc gia là phân loại theo phạm vi phát hành. - Phân loại theo điều kiện vay: ưu đãi và không ưu đãi. Theo định nghĩa của Ủy Ban Hỗ trợ phát triển, khoản vay ưu đãi là khoản vay trong đó yếu tố viện trợ từ 25% trở lên; yếu tố viện trợ của một khoản vay là giá trị cam kết của nó trừ đi giá trị dịch vụ nợ phải thanh toán theo hợp đồng (tính bằng giá trị hiện tại với suất chiết khấu theo thống lệ là 10%) và ngược lại là khoản vay không ưu đãi. - Phân loại theo thời hạn vay: ngắn hạn và dài hạn. Nợ ngắn hạn từ 1 năm trở xuống và nợ dài hạn trên 1 năm. Nợ ngắn hạn là những khoản nợ có ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình thanh khoản của quốc gia và có khả năng gây ra khủng hoảng kinh tế như kinh nghiệm của cuộc khủng hoảng ở Châu Á năm 1997 vừa qua. Do vậy, cần phải điều chỉnh đến mức thấp nhất những khoản nợ ngắn hạn để giảm bớt áp lực thanh toán và những tác động tiêu cực lên nền kinh tế khi có sự rút lui đột ngột các luồng vốn ngắn hạn. - Phân loại theo chủ thể đi vay: nợ chính thức (khu vực công) và nợ tư nhân (khu vực tư). Nợ chính thức hay nợ Chính phủ bao gồm nợ của các tổ chức Nhà nước (đối với một liên bang thì gồm cả nợ của các bang trong liên bang) và nợ của cơ quan hành chính, tỉnh, thành phố. Ngoài ra, các khoản nợ của khu vực tư nhân do Nhà nước hoặc tổ chức chính thức bảo lãnh cũng được coi là nợ chính thức vì chính phủ của nước đi vay sẽ chịu trách nhiệm trả vốn và lãi cho nước cho vay trong trường hợp tổ chức đi vay không thực hiện nghĩa vụ trả nợ theo cam kết trong hợp đồng. Tuy nhiên, trong trường hợp chính quyền địa phương hoặc doanh nghiệp vỡ nợ thì nghĩa vụ nợ bất thường có thể đè lên vai chính phủ trung ương, tùy thuộc vào điều khoản được quy định trong luật lệ về vay mượn hoặc trong bối cảnh khủng hoảng. Trong khi đó các khoản nợ do doanh nghiệp trực tiếp vay mượn hoặc do chính quyền địa phương mượn không được bảo lãnh của Chính phủ trung ương là nợ tư nhân. Nợ tư nhân thường là nợ trên thị trường trái phiếu, nợ ngân hàng thương mại và các tư nhân khác. Chính vì vậy, nợ chính thức và nợ tư nhân phải được phân tích riêng vì có những yếu tố ảnh hưởng khác nhau và Chính phủ cũng phải tính đến các khoản nợ dự phòng cho các nghĩa vụ nợ bất thường. Phân loại theo chủ thể cho vay: nợ đa phương và nợ song phương. Nợ đa phương đến chủ yếu từ các cơ quan của Liên hợp quốc, Ngân hàng Thế giới, Quỹ Tiền tệ Quốc tế, các ngân hàng phát triển khu vực, các cơ quan đa phương như OPEC và liên Chính phủ. Trong khi đó, nợ song phương đến từ Chính phủ một nước như các nước thuộc OECD và các nước khác hoặc đến từ một tổ chức quốc tế nhân danh một Chính phủ duy nhất dưới các dạng hỗ trợ tài chính, viện trợ nhân đạo bằng hiện vật. 3- Các chỉ tiêu đánh giá nợ nước ngoài: Khác với nợ trong nước, nợ nước ngoài của Chính phủ nói riêng, nợ quốc gia nói chung rất được các nhà quản lý quan tâm vì nợ nước ngoài không chỉ liên quan đến thực trạng nền kinh tế, khả năng trả nợ mà còn liên quan đến khả năng thu hút các nguồn lực tài chính từ bên ngoài phục vụ cho các mục tiêu vĩ mô của nhà nước. Các chỉ số đánh giá nợ nước ngoài được xây dựng thành hệ thống nhằm xác định mức độ nghiêm trọng của nợ nước ngoài đối với an ninh tài chính quốc gia. Cũng cần phải xác định lại là các chỉ tiêu đánh giá chung về nợ nước ngoài, trong đó nợ nước ngoài của Chính phủ là chủ yếu, còn nợ của khu vực tư nhân hầu như không đáng kể. 3.1. Các chỉ tiêu đánh giá mức độ nợ nước ngoài Để xếp loại các con nợ theo mức độ nợ, Ngân hàng thế giới sử dụng các chỉ số đánh giá mức độ nợ nần của các quốc gia vay nợ như ở bảng 1.1: Bảng 1.1: Tiêu chí đánh giá mức độ nợ nước ngoài Chỉ số  Mức độ trầm trọng  Mức độ khó khăn  Mức độ bình thường   1. Tỷ lệ % tổng nợ nước ngoài so với GDP  ≥ 50%  30 – 50%  ≤ 30%   2. Tỷ lệ % tổng nợ nước ngoài so với kim ngạch xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ  ≥ 200%  165 – 200%  ≤ 165%   3. Tỷ lệ % nghĩa vụ trả nợ so với kim ngạch xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ  ≥ 30%  18 – 30%  ≤ 18%   4. Tỷ lệ % nghĩa vụ trả nợ so với kim ngạch xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ so với GDP  ≥ 4%  2 – 4%  ≤ 2%   5. Tỷ lệ % nghĩa vụ trả lãi so với kim ngạch xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ  ≥ 20%  12 – 20%  ≤ 12%   Dựa vào các chỉ số trên, các tổ chức tài chính quốc tế có thể đánh giá mức độ nợ nần và khả năng tài trợ cho các nước thành viên. Các chỉ số này cũng là căn cứ để các quốc gia vay nợ tham khảo, xác định tình trạng nợ để hoạch định chiến lược vay nợ cho quốc gia. Quy mô nợ và trả nợ, trả lãi so với nguồn thu trực tiếp và gián tiếp để trả nợ thường được dùng để đánh giá mức độ nợ. Mức độ nợ cũng ngầm cho biết khả năng trả nợ của các quốc gia trong trung và dài hạn. Các chỉ tiêu thường dùng: * Khả năng hòan trả nợ vay nước ngoài (EDT/XGS) - Tổng nợ / Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa dịch vụ: Chỉ tiêu này biểu diễn tỷ lệ nợ nước ngoài bao gồm nợ tư nhân, nợ được chính phủ bảo lãnh trên thu nhập xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ. Ý tưởng sử dụng chỉ tiêu này là nhằm phản ánh nguồn thu xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ là phương tiện mà một quốc gia có thể sử dụng để trả nợ nước ngoài. Những vấn đề khi sử dụng chỉ tiêu này là: Nguồn thu xuất khẩu dễ biến động từ năm này sang năm khác, ngoài ra cũng có những phương án khác để nước con nợ có thể sử dụng để trả nợ nước ngoài mà không nhất thiết phải tăng xuất khẩu. Ví dụ cắt giảm nhu cầu nhập khẩu hay giảm nguồn dự trữ ngoại hối. Chỉ tiêu này ở các nước Đông Á Thái Bình Dương ngày càng giảm dần cho thấy khả năng trả nợ bằng thu nhập xuất khẩu đang trở nên khó khăn, cần phải có những nguồn thu khác để bù đắp. * Tỷ lệ nợ nước ngoài so với thu nhập quốc gia (EDT/GNI ) - Nợ/GNI: Đây là chỉ tiêu đánh giá khả năng trả nợ thông qua thu nhập quốc dân được tạo ra. Hay nói cách khác, nó phản ánh khả năng hấp thụ vốn vay nướcngoài. Thông thường các nước đang phát triển thường đánh giá cao giá trị đồng nội tệ hoặc sử dụng chế độ đa tỷ giá dẫn tới làm giảm tình trạng trầm trọng của nợ. Do vậy, tình trạng nợ có thể không được đánh giá đúng mức. *Tỷ lệ trả nợ ( TDS/XGS ) - Tổng nợ phải trả hàng năm / Kim ngạch thu xuất khẩu: Còn gọi là tỷ lệ dịch vụ nợ (nợ gốc và lãi phải thanh toán so với giá trị xuất khẩu). Đây là một tiêu chí quan trọng, phản ánh quan hệ giữa nghĩa vụ nợ phải trả so với năng lực xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ của quốc gia đi vay. Tháng 9 năm 2000, Hiệp định cơ cấu lại nợ cho các quốc gia có đồng tiền không khả năng chuyển đổi đã làm cho mức nợ của các nước này giảm đi đáng kể do đó chỉ số TDS/XGS đang tăng từ sau cuộc khủng khoảng Châu Á thì giảm xuống từ năm 2000. *Tỷ lệ trả lãi (INT / XGS ) - Tổng lãi phải trả hàng năm/Kim ngạch thu xuất khẩu: Còn gọi là tỷ lệ dịch vụ lãi hay tỷ lệ giữa tổng lãi phải trả so với kim ngạch xuất khẩu. Một quốc gia phải thanh toán lãi với mức lãi suất được quy định trong cam kết cho vay, thông thường lãi này được trích từ thu nhập xuất khẩu. Quốc gia mắc nợ trong quá khứ thì hiện tại và tương lai họ sẽ trích thu nhập từ xuất khẩu càng nhiều, hạn chế khối lượng ngoại tệ dành cho nhập khẩu. Đây là chỉ tiêu tốt nhất để đánh giá nợ vì không chỉ đề cập đến gánh nặng nợ mà còn chỉ ra chi phí vay nợ, điều này ngầm hiểu như hiệu quả sử dụng vốn vay có cao hơn chi phí lãi vay hay không. * Tiềm năng trả lãi (INP/GNI ) - Lãi/GNI: Tổng lãi phải trả so với GNI, phản ánh tiềm năng trả lãi của nước đi vay. Ở các nước khu vực Châu Á, trong đó có Việt N am, chỉ số này rất thấp, chỉ chưa đến 1,5%, điều này cho thấy tính khả quan trong việc trả nợ của các nước này. *Tỷ lệ % dự trữ ngoại hối so với tổng nợ (RES/EDT ) -Tổng dự trữ ngoại hối / Tổng nợ (%): Chỉ số này thể hiện khả năng của nước con nợ có thể dùng dự trữ ngoại hối để trả nợ nước ngoài. Dựa vào các chỉ số trên, các tổ chức tài chính quốc tế có thể đánh giá mức độ nợ nần và khả năng tài trợ cho các nước thành viên. Các chỉ số này cũng là căn cứ để các quốc gia vay nợ tham khảo, xác định tình trạng nợ để hoạch định chiến lược vay nợ cho quốc gia. 3.2. Các chỉ tiêu đánh giá cơ cấu nợ nước ngoài Cơ cấu nợ hàm chứa những thông tin quan trọng về mức độ rủi ro của việc vay nợ. Thông thường rủi ro sẽ cao khi tỷ trọng nợ ngắn hạn, tỷ lệ nợ thương mại và tỷ lệ nợ song phương cao. Các chỉ tiêu đánh giá cơ cấu gồm: - Nợ ngắn hạn / Tổng nợ: Phản ánh tỷ trọng các khoản nợ cần thanh toán trong thời gian nhỏ hơn một năm trong tổng nợ. Tỷ lệ này càng cao, áp lực trả nợ càng lớn. - Nợ ưu đãi / Tổng nợ: Tỷ lệ này càng cao, gánh nặng nợ nước ngoài càng nhẹ. - Nợ đa phương / Tổng nợ: Các khoản nợ đa phương thường nhằm mục đích hỗ trợ, ít mưu cầu về lợi nhuận, do đó việc tăng tỳ trọng nợ đa phương trong tổng nợ phản ánh tình hình nợ nước ngoài của một nước thay đổi theo chiều hướng tốt. 4- Đánh giá mức độ nợ nước ngoài của Việt Nam Báo cáo của Chính phủ về tình hình kinh tế, xã hội năm 2010 và nhiệm vụ năm 2011 tại Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khoá XII, cho biết: “Đến hết năm 2010, dư nợ Chính phủ tương đương khoảng 44,5% GDP, dư nợ nước ngoài của quốc gia khoảng 42,2% GDP và dư nợ công bằng 56,7% GDP, nằm trong giới hạn an toàn”.   Theo quan điểm của IMF thì tiêu chí đánh giá an toàn nợ nước ngoài đối với các quốc gia có thu nhập thấp dựa vào hiện giá thuần của nợ và dịch vụ nợ (nghĩa vụ trả nợ), một chính sách nợ yếu đồng nghĩa an toàn về nợ và một chính sách nợ mạnh đồng nghĩa với kém an toàn về nợ.  Tiêu chí đánh giá an toàn nợ theo quan điểm IMF. Nguồn: IMF Nếu dựa vào tiêu chí của IMF, nợ nước ngoài của Việt Nam vẫn còn trong mức độ an toàn.  Các chỉ tiêu về giám sát nợ nước ngoài. Nguồn: Bản tin nợ nước ngoài số 5 (Bộ Tài chính). Đối với Việt Nam, việc vay mượn vốn nước ngoài để đáp ứng yêu cầu tăng mức đầu tư trong nước nhằm nâng cao năng lực sản xuất trong tương lai là một giải pháp hợp lý. Bởi vì Việt Nam cần nguồn lực con người và vốn cao hơn nữa để cạnh tranh trên thị trường thế giới với các sản phẩm có giá trị gia tăng cao hơn, ví dụ như sản phẩm điện tử. Mặt khác, Việt Nam vẫn là nền kinh tế đang phát triển nên có thu nhập tương đối thấp cần phải đầu tư lớn vào cơ sở hạ tầng và con người để nâng tỷ lệ giá trị gia tăng trong dài hạn với dự kiến chỉ tiêu tăng trưởng GDP bình quân 7,5%-8,5%/năm trong giai đoạn 2011-2015. Bên cạnh đó, Việt Nam đang cần đầu tư vào các lĩnh vực như bệnh viện, trường học, dạy nghề, phát triển hạ tầng giao thông, giảm bớt chi phí dịch vụ tiện ích và viễn thông, củng cố môi trường kinh doanh và tăng cường trình độ các trung tâm nghiên cứu phát triển. Nếu quan sát diễn biến nợ nước ngoài trong một thời gian dài sẽ dễ dàng nhận thấy xu hướng gia tăng nợ đã diễn ra trong những năm gần đây, từ mức 14,208 tỷ USD năm 2005 lên 27,928 tỷ USD năm 2010. Nếu tiếp tục xu hướng này và không có các biện pháp kiểm soát và quản lý nợ có thể khiến nợ nước ngoài trở nên không an toàn. Nếu đặt nợ nước ngoài trong quan hệ đầu tư và tiết kiệm, ta thấy nợ nước ngoài là nguồn bổ sung cho khoảng chênh lệch tiết kiệm trong nước thấp và mức đầu tư tăng cao. Như vậy, để nợ nước ngoài không mất an toàn thì cần phải nâng cao hiệu quả đầu tư trong nước, khuyến khích tiết kiệm toàn dân. Nếu xem xét nợ nước ngoài trong quan hệ cán cán cân thương mại dưới góc độ xuất nhập khẩu thì đây là một khoản vay mà các nhà đầu tư nước ngoài cho Chính phủ và người tiêu dùng trong nước vay để thanh toán cho việc tiêu dùng quá mức, khi đó để giảm nợ nước ngoài cần cải thiện cán cân thương mại, thực hiện các giải pháp gia tăng xuất khẩu và kiểm soát nhập khẩu.  Quan hệ giữa thâm hụt thương mại và nợ nước ngoài của Việt Nam giai đoạn 2005-2009. Nguồn: Thống kê tài chính của IMF(IFS) và Bộ Tài Chính Tóm lại, nợ nước ngoài của Việt Nam hiện nay vẫn còn trong giới hạn an toàn nhưng xu hướng nợ nước ngoài đang gia tăng cho thấy, nếu không có những giải pháp hợp lý kèm theo, thì nợ nước ngoài có thể mất an toàn và gây ra các bất ổn kinh tế vĩ mô. Chương II : Thực trạng nợ nước ngoài ở các nước đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng 1- Nợ nước ngoài ở các khu vực Số liệu nợ nước ngoài phân theo khu vực và thu nhập trên thế giới năm 2007  Nợ nước ngoài ( Triệu USD)  GDP ( Triệu USD)  Nợ / GDP (%)  Kim ngạch xuất khẩu ( Triệu USD)  Nợ / Kim ngạch xuất khẩu (%)   1./ Phân theo khu vực        Đông Á và Thái Bình Dương  741.471  4.438.135  16,71  1.783.695  41,56   Châu Âu và Trung Á  1.214.038  3.155.221  38,47  874.122  138,88   Mỹ Latinh và Caribe  825.697  3.444.374  23,97  750.092  110,07   Trung Đông và Bắc Phi  136.448  828.691  16,46  297.678  45,83   Nam Á  304.713  1.438.594  21,18  184.991  164,71   Châu Phi khu vực Nam Sahara  195.094  842.914  23,14 
Luận văn liên quan