Bài thuyết trình: Tổ chức hợp tác thượng hải

Thành lập năm 2001, SCO bao gồm Trung Quốc, Nga và 4 nước Trung Á là : Kazakhstan, Kyrgystan, Tajikistan và Uzbekystan. SCO vẫn là một tổ chức đa phương ít được biết đến. Xung quanh sự ra đời của tổ chức này là hàng loạt nghi vấn, đặc biệt là SCO thực chất là gì hay chỉ đơn thuần là cái vỏ bọc cho những toan tính của Nga và Trung Quốc? Liệu SCO có trở thành một đối trọng tiề m năng của NATO về quân sự hay không? Những câu hỏi trên sẽ được giải đáp phần nào qua bài nghiên cứu sau đây.

pdf15 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 1830 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bài thuyết trình: Tổ chức hợp tác thượng hải, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1 Bài thuyết trình: TỔ CHỨC HỢP TÁC THƯỢNG HẢI 2 Thành lập năm 2001, SCO bao gồm Trung Quốc, Nga và 4 nước Trung Á là : Kazakhstan, Kyrgystan, Tajikistan và Uzbekystan. SCO vẫn là một tổ chức đa phương ít được biết đến. Xung quanh sự ra đời của tổ chức này là hàng loạt nghi vấn, đặc biệt là SCO thực chất là gì hay chỉ đơn thuần là cái vỏ bọc cho những toan tính của Nga và Trung Quốc? Liệu SCO có trở thành một đối trọng tiềm năng của NATO về quân sự hay không? Những câu hỏi trên sẽ được giải đáp phần nào qua bài nghiên cứu sau đây. I. Cơ sở hợp tác: 1. Sự ra đời của SCO: Vấn đề đường biên giới từ lâu gây căng thẳng giữa 2 nước Nga và Liên Xô đã trở thành vấn đề đa phương sau chiến tranh lạnh, với sự sụp đổ của Liên Xô cũ và sự ra đời của hàng loạt quốc gia mới. Năm 1997, Trung Quốc, Nga và Kazakhstan, Kyrgystan, Tajikistan họp tại Thượng Hải để kí kết hiệp định chung về xây dựng lòng tin và kiềm chế xung đột quân sự ở khu vực biên giới giữa các nước này (sau này nhóm này thường được gọi là nhóm Thượng Hải 5). SCO (the Shanghai coorperation organization) ra đời 14/6/2001theo sáng kiến của Bắc Kinh, gồm nhóm Bộ ngũ Thượng Hải ( Shanghai 5) thêm sự tham gia của Uzbekistan, như vậy có tất cả 6 thành viên. Đến nay SCO có 4 quan sát viên là Iran, Ấn Độ, Mông Cổ và Pakistan. SCO bao phủ một khu vực địa lí rộng lớn nhất so với các tổ chức khu vực khác: từ Kalingrad đến Vladivostok, từ Bắc Băng Dương đến biển Đông. Nếu các quan sát viên của tổ chức này trở thành thành viên chính thức thì SCO sẽ còn với tới cả Ấn Độ Dương và khu vực Trung Đông. Các thành viên và quan sát viên của nó sở hữu 25% dân số thế giới, 60% diện tích lục địa Á Âu, 47-50% dự trữ khí tự nhiên, 17,5% dự trữ dầu mỏ của thế giới. 2. Yếu tố lợi ích của các bên: Từ lâu nay, Trung Á luôn chiếm vị trí quan trọng, không chỉ ở châu Á mà còn đối với cả an ninh, kinh tế của thế giới. Về mặt địa lý, nơi đây là cửa ngõ đi vào vùng 3 chiến lược dầu khí xung quanh vùng biển Caspi, rốn dầu lớn thứ hai thế giới, sau Trung Đông. Về kinh tế, Trung Á là nơi có trữ lượng dầu khí và khoáng sản lớn. Riêng Kazakhstan được dự đoán sẽ là một trong 5 nước sản xuất dầu lớn nhất thế giới vào năm 2010. Về an ninh, tôn giáo chính ở khu vực này là Hồi giáo và những năm gần đây, chủ nghĩa Hồi giáo cực đoan phát triển, dẫn tới nguy cơ khủng bố cao. Chính vì vậy, Trung Á trở thành khu vực địa chính trị quan trọng trên thế giới. Riêng đối với Nga và Trung Quốc, khu vực này là vành đai an ninh hết sức quan trọng. Trữ lượng dầu khí và nguồn tài nguyên ở đây cũng trở nên hấp dẫn đối với Mỹ và một số nước Phương Tây. Do đó, với lập luận ngăn chặn khủng bố và tăng cường ổn định an ninh ở khu vực này, thời gian qua, Mỹ đã lần lượt đặt chân tới các căn cứ quân sự ở Uzbekistan và Kyrgyzstan. Nhưng thực tế, người ta thấy rõ sự có mặt của lực lượng quân sự Mỹ tại một số nước Trung Á là nằm trong chiến lược tổng thể lâu dài của Mỹ, nhằm khống chế các nước trong khu vực này và cả nguồn trữ lượng dầu khí Trung Á. Sau chiến tranh lạnh, nhu cầu hợp tác để bổ sung cho nhau giữa một nước Nga- nước kế thừa hợp pháp của Liên Xô đang suy yếu và tụt dốc- và một Trung Quốc đang cải cách và mở cửa thành công là một trong những yếu tố quan trọng thúc đẩy quan hệ hai nước trong thời gian đầu thập niên 90 của thế kỉ XX. Mối lo sợ về chủ nghĩa bá quyền của Mỹ đã góp phần đẩy Trung – Nga gần nhau hơn, đặc biệt là sau chiến tranh Kosovo 1999, chiến tranh ở Afganixtan 2001, và Iraq năm 2003. Về an ninh quốc phòng, hợp tác Trung Nga trong lĩnh vực này có ý nghĩa với cả hai nước láng giềng có chung đường biên giới dài nhất thế giới , tạo môi trường quốc tế thuận lợi để hai nước tập trung nguồn lực vào phát triển kinh tế, đồng thời hợp tác để đối phó có hiệu quả với các thách thức an ninh ở Trung Á. Đặc biệt với TQ, chính sách coi trọng an ninh ngoại biên của Putin trùng khớp với chính sách ngoại giao quân sự láng giềng hữu nghị TQ đang triển khai để cải thiện quan hệ với các nước trong vùng.1 a. Phía Nga: 1 Quan hệ Trung - Nga sau chuyến thăm Trung Quốc của tổng thống Nga Putin, Đinh Hiền Lương, tạp chí nghiên cứu quốc tế, số 04, tháng 8-2000 4 - Đối với quan hệ Nga – Trung Á: Nga là cường quốc duy nhất có mối quan hệ mật thiết với 4 nước Trung Á trong SCO, sau chiến tranh lạnh Nga vẫn có ảnh hưởng mạnh và nhiều quyền lợi ở khu vực này (15 năm cùng thuộc Liên Bang Xô Viết, tiếng Nga vẫn là ngôn ngữ được sử dụng ở các nước này). Bất cứ vấn đề an ninh nào trong khu vực này đều là mối đe dọa trực tiếp đến Nga, đặc biệt với 5 triệu người dân tộc thiểu số của Nga đang sinh sống tại khu vực biên giới. - Đối với quan hệ Nga – Trung Quốc: một đường biên giới ổn định giữa hai nước là rất quan trọng đối với lợi ích của Nga, thêm nữa hợp tác kinh tế với một nền kinh tế mới nổi như Trung Quốc đem lại nhiều lợi hơn hại cho Nga, đặc biệt nếu một khu vực mậu dịch tự do được ra đời trong khuôn khổ của SCO. Nga muốn tranh thủ quan hệ kinh tế thương mại với TQ để giảm bớt khó khăn trong nước , đồng thời để tránh không quá lệ thuộc vào Mỹ và phương tây. Hiện nay, Trung Quốc là bạn hàng lớn nhất của Nga về dầu thô, khí đốt và vũ khí. Vũ khí là mặt hàng xuất khẩu thu được nhiều ngoại tệ nhất, giúp Nga dần dần thoát khỏi gánh nặng nợ nần khổng lồ. - Đối với quan hệ Nga – Mỹ - NATO: trước sự quan tâm ngày càng lớn của Mỹ và phương Tây đối với khu vực Trung Á và sự hiện diện quân sự của các lực lượng này tại Afganistan và Iraq, Nga muốn thông qua SCO để kiềm chế sự can thiệp từ bên ngoài vào khu vực này, đồng thời tạo dựng một đối trọng với NATO.  Với Nga, SCO là công cụ hữu hiệu để cân bằng quyền lực, tuy nhiên cái giá phải trả là sự chia sẻ lợi ích với Trung Quốc. b. Về phía Trung Quốc: - SCO là minh chứng cho việc TQ có khả năng xây dựng một tổ chức quốc tế không phụ thuộc vào phương Tây. - Trung Á đối với Trung Quốc, là một khoảng trống được mở ra sau chiến tranh lạnh, một thị trường tiềm năng cho hàng hóa và công nghệ của Trung Quốc, đặc biệt là nguồn cung năng lượng về lâu dài cho sự phát triển kinh tế mạnh mẽ của nước này. 5 - Với Trung Quốc, nhu cầu bình ổn khu vực biên giới, giảm nguy cơ ở các điểm nóng là rất cần thiết, vì mối đe dọa của chủ nghĩa khủng bố và chia rẽ ở nước này đang lên cao, đặc biệt là ở các khu vực nhạy cảm như Tân Cương, Tây Tạng. c. Về phía 4 nước Trung Á: - Có lãnh thổ năm kẹp giữa hai cường quốc lớn của thế giới là Nga và Trung Quốc, tham gia vào SCO tránh cho 4 nước Trung Á phải trở thành chiến trường trong cuộc đua tranh giữa Nga và Trung quốc rất có thể xảy ra, đó là một lựa chọn an toàn và có lợi cho các bên. - SCO cũng không gây hại gì cho quan hệ giữa các nước này với Mỹ và phương Tây. Điển hình là sau khi SCO thành lập thì Kyrgystan và Uzbekistan vẫn cung cấp lực lượng quân đội cho liên quân mà Mỹ cầm đầu ở Afganistan, các nước Trung Á vẫn nhận viện trợ của phương Tây theo chương trình trợ giúp của OSCE. Tóm lại các nước này vẫn đảm bảo được sự cân bằng trong quan hệ với các nước lớn. - Vốn yếu kém trong việc đối phó với chủ nghĩa khủng bố và cực đoan nổi lên ở khu vực, tham gia vào SCO là cơ hội để các nước này nhận được sự trợ giúp lớn từ Nga và Trung Quốc. - Hợp tác với Trung quốc về kinh tế cũng là một cơ hội lớn đối với các nước này. - Tham gia vào SCO trong lúc sự hiện diện của mình vẫn còn mờ nhạt trong chính trường thế giới sẽ là cách để các nước này tăng cường vị thế của mình. 3. Mục tiêu và nguyên tắc hoạt động: a. Mục tiêu: - Củng cố lòng tin và xây dựng quan hệ láng giềng hòa hảo. - Khuyến khích hợp tác có hiệu quả giữa các nước thành viên trong mọi lĩnh vực: chính trị, kinh tế, thương mại, khoa học, công nghệ, văn hóa, giáo dục, năng lượng, thông tin, môi trường vầ các vấn đề khác. 6 - Đảm bảo hòa bình, an ninh và ổn định của khu vực. - Thiết lập một trật tự kinh tế, chính trị công bằng và dân chủ. - Chống lại chủ nghĩa khủng bố, li khai và cực đoan, mà SCO cho là “ba lực lượng hắc ám”. b. Nguyên tắc hoạt động: - Tôn trọng lẫn nhau về chủ quyền, độc lập, sự toàn vẹn lãnh thổ của các nước và sự bất khả xâm phạm về biên giới lãnh thổ, bất tương xâm - Không can thiệp vào các vấn đề thuộc thẩm quyền của các quốc gia khác, không sử dụng hoặc đe doạ sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế, không sử dụng ưu thế quân sự của mình trên lãnh thổ các quốc gia kế cận. - Bình đẳng đối với tất cả các quốc gia thành viên nhằm tìm kiếm những vị thế chung trên cơ sở sự hiểu biết lẫn nhau và tôn trọng ý kiến của mỗi nước thành viên; - Giải quyết hoà bình các tranh chấp giữa các nước thành viên; SCO cam kết không trực tiếp chống lại các quốc gia khác và các tổ chức quốc tế; ngăn ngừa bất kỳ hành động bất hợp pháp nào trực tiếp chống lại các lợi ích của tổ chức SCO; - Thực hiện một cách thiện chí các qui định được qui định trong Hiến chương hiện hành và các tài liệu khác được thêm vào trong khuôn khổ hoạt động của tổ chức. II. Cơ chế hợp tác: 1. Lĩnh vực và cơ chế hợp tác : Cùng với thời gian, từ một diễn đàn về an ninh biên giới , chống lại cái mà các thành viên của tổ chức này gọi là “ba lực lượng hắc ám”: chủ nghĩa ly khai, chủ nghĩa cực đoan và chủ nghĩa khủng bố, ngày nay SCO đã mở rộng thêm nhiều kế hoạch hợp tác cùng có lợi khác về chính trị, ngoại giao, thương mại, văn hóa, 7 chống buôn bán ma túy, v.v... Trên thực tế, tổ chức này đã phát triển thành một liên minh thiên về quân sự hơn. SCO là một mạng lưới liên chính phủ hoạt động theo các hội nghị thường niên và hội nghị Liên chính phủ khác. Các hội nghị thường niên hàng năm trong khuôn khổ SCO được tổ chức không chỉ dành cho nguyên thủ các quốc gia thành viên, mà còn theo nhiều cấp độ và quy mô khác với sự tham gia của các Bộ trưởng Ngoại giao, Bộ trưởng Quốc phòng, cùng với các cơ quan chức năng có liên quan đến lĩnh vực quan tâm chung. Đó là lý do khiến SCO đã có những bước phát triển nhanh chóng cả về quy mô cũng như chiều sâu hợp tác. SCO có một ban thư kí thành lập tại Bắc Kinh năm 2004 (với 30 thành viên), cơ quan chống khủng bố khu vực (RATS) với 30 thành viên, cũng được thành lập năm 2004. 3 cơ quan chính: hội đồng nguyên thủ, hội đồng lãnh đạo chính phủ, hội đồng bộ trưởng Ngoại giao. Bên cạnh đó, SCO còn triển khai các cuộc diễn tập quân sự chung chống khủng bố, một sáng kiến được phía Nga đề xuất đầu tiên. Cuộc diễn tập chung đầu tiên đã diễn ra tại bãi tập Chebarkul của Nga vào mùa hè năm 2006. 2. Quá trình vận hành và điều chỉnh : a. Từ năm 1996 đến 2005: Với sự tham gia của Nga và Trung Quốc, diện tích các nứơc thành viên chiếm khoảng 60% diện tích lãnh thổ của 2 châu lục Á, Âu , SCO có thể là một đối trọng mới của NATO sau khi Khối hiệp ước Warsaw tan rã .Tại hội nghị của SCO vào tháng 8-1999, lãnh đạo hai nước thành viên Nga và Trung Quốc đã bày tỏ mong muốn xây dựng một thế giới đa cực chứ không phải là thế giới đơn cực như tình hình thế giới lúc bấy giờ .Với mong muốn đó thì vào năm 2003,SCO đã hoạch định thêm một hướng ưu tiên là tăng cường hợp tác kinh tế giữa các nước thành viên, một kế hoạch thực chất là nhằm ngăn chặn các công ty dầu lửa của Mỹ và các nước phương Tây xâm nhập vào Trung Á và biến khu vực này thành đối trọng với phương Tây. 8 Khi nguyên thủ các nước thành viên SCO kêu gọi thực hiện lộ trình đóng cửa các căn cứ quân sự của Mỹ tại Trung Á trong hội nghị thượng đỉnh thường niên năm 2005, khối SCO có vẻ đã tự đặt mình vào vị trí đối lập, chống lại ảnh hưởng của Mỹ ở khu vực. Vài ngày sau đó, Uzbekistan đã yêu cầu các lực lượng quân sự Mỹ phải rời khỏi một căn cứ quân sự tại Karshi-Khanabad. Và cũng trong năm đó, SCO đã chỉ trích mạnh mẽ các cuộc cách mạng màu do phương Tây hậu thuẫn diễn ra trên khắp lục địa Âu-Á và các tổ chức phi chính phủ (NGOs) phương Tây hỗ trợ phong trào này. Cũng vào khi các cuộc cách mạng màu nổ ra trên khu vực Á-Âu trong giai đoạn từ 2002-2005, các chương trình nghị sự về an ninh của Moscow và Bắc Kinh được phối hợp thực hiện. Cả hai nước đều lo ngại quá trình dân chủ hóa do phương Tây hậu thuẫn ở lục địa Á-Âu, bởi đối với Nga, ảnh hưởng của nước này đối với các chính quyền tại đây sẽ bị suy yếu, còn đối với Trung Quốc, tiến trình dân chủ hóa sẽ tạo một tiền lệ nguy hiểm đối với khu vực ở vùng xa của nước này. Tóm lại, trong giai đoạn này, sự phối hợp giữa các nước thành viên đã tạo cho tổ chức này một tiềm lực lớn, và người ta đã dự đoán rằng SCO sẽ phát triển thành một liên minh mạnh mẽ chống phương Tây và thao túng cả khu vực Trung Á. b. Sau 2005: bộc lộ sự lỏng lẻo trong cơ chế hợp tác giữa các thành viên: - Sự căng thẳng trong quan hệ Nga – Trung : Trước hết, xuất phát từ chênh lệch về lợi ích , Nga coi Trung Á là "vùng lợi ích ưu tiên" của mình. Hai thập kỷ qua, Moscow đã tìm cách ép các nước Trung Á gia nhập một cơ chế do Nga kiểm soát - Tổ chức Hiệp ước an ninh tập thể (CSTO), một liên minh tương trợ phòng thủ; Cộng đồng kinh tế Á-Âu (EurAsEC), liên minh hải quan; và Khối thịnh vượng chung của các quốc gia độc lập (CIS), một liên minh lỏng lẻo các nước Liên Xô cũ. Cùng lúc đó, Nga đã tích cực chống lại các cơ chế của phương Tây như NATO. Ngược lại, Trung Quốc không tập trung quá nhiều vào việc chống lại phương Tây so với việc ổn định lãnh thổ phía Tây nước này: tỉnh tự trị Tân Cương, nơi có chung đường biên giới với các quốc gia Trung Á. 9 Cuộc chiến Nga-Grudia năm 2008 đã cho thấy khoảng cách thực tế giữa nghị trình an ninh của Nga và Trung Quốc. Chỉ vài ngày sau thỏa thuận ngừng bắn do EU làm trung gian, Tổng thống Nga Dmitry Medvedev tới dự Hội nghị thượng đỉnh SCO tổ chức tại Dushanbe, và kêu gọi ủng hộ sự công nhận của Nga đối với nền độc lập của Abkhazia và Nam Ossetia - hai tỉnh ly khai thuộc Grudia. Điều này đi ngược với mục tiêu là chống lại chủ nghĩa ly khai mà các thành viên đã đặt ra. Quả thật, Trung Quốc và các nước Trung Á đã kiên quyết không chấp thuận yêu cầu trên. Thỏa thuận của Moscow với các thực thể ly khai không phù hợp với lợi ích an ninh của Trung Quốc, cũng như nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia khác. Tương tự, nỗ lực cấp hộ chiếu cho cư dân nói tiếng Nga tại các vùng lãnh thổ tranh chấp của Grudia trước khi nổ ra cuộc chiến đã gây ra sự lo lắng cho các nước Trung Á vốn hầu hết đều có số lượng lớn người nói tiếng Nga. Sau lần cảnh báo mang tính ngoại giao này, Moscow đã tăng cường nỗ lực để thúc đẩy CSTO, một tổ chức bao gồm các cùng nước Trung Á trên, nhưng nằm trong tầm kiểm soát của Nga. Sự mạo hiểm không đúng chỗ của Nga trái ngược với thành công của Trung Quốc trong việc giành được sự ủng hộ của SCO trong thời gian nổ ra các vụ bạo lực của người Hồi giáo Uighur và người Hán tại tỉnh Tân Cương hồi cuối tháng 7/2009. Trong vòng một vài giờ đồng hồ "dẹp loạn", Bộ Ngoại giao Trung Quốc đã ra tuyên bố trước các thành viên khác của SCO, rằng sự kiện ở tỉnh Tân Cương là vấn đề nội bộ của Trung Quốc và hành động của chính phủ Trung Quốc là để nhằm khôi phục lại trật tự ở khu vực. Tuyên bố này thống nhất với quan điểm của SCO về vấn đề nội bộ nên đã nhanh chóng được tất cả các nước thành viên SCO chấp thuận và được công nhận là quan điểm chính thức của khối. Khi sứ mệnh của SCO được mở rộng, bao gồm cả hợp tác kinh tế, thì khoảng cách lợi ích giữa Nga và Trung Quốc lại càng trở lên rõ ràng hơn. Cảnh giác trước ưu thế về kinh tế của Bắc Kinh, và khả năng sử dụng SCO phục vụ cho các mục đích kinh tế cho riêng mình của Trung Quốc, Nga từng ngăn cản nhiều nỗ lực làm sâu sắc hơn sự hội nhập trong khối. Moscow đã bác bỏ đề xuất của Thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo trong việc thành lập một khu vực mậu dịch tự do SCO. Thay vào đó, Nga ủng hộ việc mở rộng EurAsEC, bao gồm Nga, 10 Kazakhstan, Kyrgyzstan, Tajikistan và Belarus, nhưng đáng chú ý là không có Trung Quốc. Khủng hoảng tài chính toàn cầu đã làm gia tăng những khác biệt trong tiềm năng và tham vọng kinh tế của Nga và Trung Quốc. Moscow đã bị tác động mạnh hơn trong cuộc khủng hoảng, buộc phải thu hẹp quy mô của nhiều dự án ở khu vực Trung Á và đàm phán lại các điều khoản của các thỏa thuận năng lượng khu vực không mang lại lợi nhuận. Hơn thế nữa, nhiều dự án nước này chưa từ bỏ như dự án nhà máy thủy điện Kambarata ở Kyrgyzstan- dường như dựa trên những mục đích chính trị nhiều hơn là những tính toán lợi ích thương mại và có thể sẽ làm hao mòn của cải của Nga. Ngược lại, Trung Quốc, với hệ thống tài chính trụ vững trước khủng hoảng, đã đẩy nhanh các hoạt động kinh tế ở khu vực Trung Á, tiến hành "phân phát" các khoản tài trợ song phương đáng kể dưới vỏ bọc của SCO. Bắc Kinh gần đây đã đạt được hàng loạt thỏa thuận cho vay đầu tư vào hyđrôcacbon với Kazakhstan và Turkmenistan và hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng tại các nước thành viên SCO có chung biên giới, để kết nối mãi mãi với miền Tây Trung Quốc. Và Bắc Kinh đã đơn phương thành lập quỹ bình ổn “chống khủng hoảng” trị giá 10 tỷ USD trong nội bộ SCO, đưa ra các khoản hỗ trợ tài chính ngắn hạn, lãi suất thấp cho các ngành ưu tiên như năng lượng và hạ tầng, sau khi Moscow từ chối nhiều yêu cầu cùng tài trợ cho quỹ này. Moscow muốn lập một quỹ do EurAsEC kiểm soát hay cung cấp viện trợ song phương trực tiếp tới các nước yếu hơn. - Với các thành viên Trung Á khác: Ngoài căng thẳng Nga - Trung, SCO còn gặp phải một vấn đề cơ bản khác: các thành viên Trung Á không thể - và, trong một số trường hợp, không sẵn sàng - tham gia một cách đầy đủ vào các kế hoạch của Nga hay Trung Quốc. Moscow và Bắc Kinh đều còn quan ngại về sự hiện diện của Mỹ ở khu vực này, nhưng Kazakhstan, Kyrgyzstan, Tasjikistan và Uzbekistan đã hoàn tất các hiệp định quá cảnh thương mại với quân đội Mỹ, mở rộng tuyến đường tiếp tế của Hoa Kỳ ở phía Bắc tới Afghanistan. 11 Hơn nữa, các tuyến biên giới bị đóng cửa của Trung Á có giá trị thương mại quan trọng - về hải quan, lệ phí cầu đường và các công việc liên quan. Các nhà lãnh đạo cầm quyền của những quốc gia này thường kiểm soát hoạt động tại biên giới và các ngành quan trọng khác của nền kinh tế như viễn thông và điện lực. Việc họ sẽ sẵn sàng mở cửa biên giới này để cạnh tranh trực tiếp với bên ngoài vì thế vẫn là triển vọng vẫn rất khó đạt được. Do vậy, bất kể tham vọng hợp tác và ảnh hưởng của SCO ở khu vực là gì, thì sự phối hợp chặt chẽ giữa các thành viên vẫn còn là điều quá xa vời. Là một tổ chức an ninh tập thể, SCO yếu và không còn tỏ ra là một khối chống phương Tây mạnh mẽ như vài năm trước đây nữa.Trong các vấn đề về phi an ninh, SCO thậm chí còn yếu kém hơn nữa. Và trong khi SCO phải đang tìm kiếm sự công nhận của cộng đồng quốc tế về vai trò trong hội nhập khu vực, thì vẫn chưa thể khẳng định liệu nó có thành công được hay không. Nhưng trên hết, SCO cần phải đạt được những thành tựu thực tế để thể hiện vai trò của mình trong các vấn đề an ninh quốc tế hiện nay III. Đánh giá và dự báo về vai trò an ninh của SCO: 1. Thành tựu của SCO với tư cách là một thể chế an ninh khu vực: a. Thành tựu: - Thứ nhất, SCO đã góp phần xây dựng lòng tin và ổn định ở Châu Á. SCO đã tăng cường xây dựng lòng tin và tin cậy lẫn nhau giữa các thành viên và quan sát viên. Theo khuôn khổ hợp tác của “Cơ chế 5 thành viên” – SCO, và theo như nỗ lực chung của TQ, Nga, Kazakistan, Kyrgystan và Tajikistan, tất cả các tranh chấp liên quan đến đường biên giới phía Tây dài hơn 3000km giữa LX và Nga – đường biên giới đã gây ra sự mất ổn định và xung đột qua nhiều thế kỷ - đã được hoàn toàn giải quyết trong 6 năm. - Thứ hai là có 1 sự hợp tác chặt chẽ trong việc chống lại việc mất ổn định khu vực xuyên biên giới. Sau khi LX sụp đổ và sự nổi lên của phong trào Taliban tại Afghanistan, các phần tử cực đoan và khủng bổ đang hoạt động lan tràn tại Trung Á, gây rắc rố
Luận văn liên quan