Từ một nước chậm phát triển, Việt Nam đã bước sang giai đoạn trở
thành một nước phát triển với trình độ trung bình. Nền kinh tế đang
chuyển dần từ chiều rộng sang chiều sâu với những bước đi cụ thể
và tầm nhìn dài hạn. Tuy nhiên hệ lụy của chính sách tăng trưởng
theo chiều rộng một thời đã bộc lộ một số mặt trái: môi trường bị
tàn phá, nạn tham nhũng vẫn diễn biến phức tạp, cái xấu-cái tốt, cái
cũ-cái mới đan xen và không dễ nhận diện, đặc biệt là sự tác động
của nhiều nhóm lợi ích vào chính sách, vào việc ưu tiên sử dụng tài
nguyên và các nguồn lực diễn ra ngày một phức tạp Những điều
này đã tạo ra những nguy cơ lớn gây bất ổn xã hội, đe dọa sự phát
triển.
Trong bối cảnh đó, với vai trò là công cụ của Đảng, Nhà nước, tiếng
nói của các tổ chức xã hội và là diễn đàn của nhân dân, lực lượng
báo chí đã bám sát các sự kiện xảy ra trong xã hội, phản ánh đa chiều
những vấn đề nảy sinh từ hiện tượng cũng như lột tả bản chất các
xung đột, mâu thuẫn xảy ra trong quá trình đi lên của đất nước.
144 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2178 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Báo cáo Khảo sát, nghiên cứu về các hành vi cản trở tác nghiệp báo chí, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BÁO CÁO KHẢO SÁT, NGHIÊN CỨU
VỀ CÁC HÀNH VI CẢN TRỞ TÁC NGHIỆP BÁO CHÍ
Hà Nội, 2011
2 BÁO CÁO KHẢO SÁT, NGHIÊN CỨU VỀ CÁC HÀNH VI CẢN TRỞ TÁC NGHIỆP BÁO CHÍ
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................ 4
I. Bối cảnh chung ......................................................................... 4
II. Lý do thực hiện nghiên cứu .................................................. 5
III. Phạm vi, đối tượng, thời gian,
phương pháp nghiên cứu ............................................................ 7
PHẦN A
THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH CẢN TRỞ
TÁC NGHIỆP VÀ CÁC BIỆN PHÁP
ĐÃ ĐƯỢC ÁP DỤNG
I. Quá trình nghiên cứu trước đây –
Các định nghĩa đã có về “cản trở tác nghiệp báo chí” ......... 11
II. Một số vụ cản trở tác nghiệp điển hình trong
hai năm qua ................................................................................. 14
III. Một số kết quả khảo sát đáng chú ý ................................. 19
IV. Cản trở tác nghiệp báo chí trong lĩnh vực bảo vệ
tài nguyên-môi trường và chống tham nhũng ..................... 45
V. Hoạt động cung cấp thông tin của các cơ quan
Nhà nước – Quy chế người phát ngôn ................................... 55
PHẦN B
NGUYÊN NHÂN CỦA HÀNH VI
CẢN TRỞ BÁO CHÍ TÁC NGHIỆP
I. Nguyên nhân về phía người làm báo .................................. 63
1. Nguyên nhân chủ quan ...................................................... 63
2. Nguyên nhân khách quan .................................................. 67
II. Nguyên nhân về phía cơ quan báo chí .............................. 68
3BÁO CÁO KHẢO SÁT, NGHIÊN CỨU VỀ CÁC HÀNH VI CẢN TRỞ TÁC NGHIỆP BÁO CHÍ
1. Khi tòa soạn kém uy tín .................................................... 68
2. Khi tòa soạn không đoàn kết ........................................... 69
III. Nguyên nhân về phía đối tượng Cản trở ........................ 70
1. Cơ quan Nhà nước, doanh nghiệp,
các tổ chức xã hội… .......................................................... 70
2. Người dân ........................................................................... 72
IV. Nguyên nhân liên quan đến hệ thống pháp luật
và cơ chế thực thi ........................................................................ 73
A. CÁC TỒN TẠI
1. Hệ thống pháp luật ............................................................. 74
2. Hội nghề nghiệp (Hội Nhà báo)....................................... 83
3. Cơ quan quản lý nhà nước (kiểm tra,
giám sát việc tuân thủ pháp luật về báo chí) ................... 88
B. CÁC NGUYÊN NHÂN ......................................................... 90
C. CÁC GIẢI PHÁP ................................................................... 93
1. Truyền thông (tuyên truyền - giáo dục) .......................... 93
2. Kiện toàn pháp luật ............................................................ 95
3. Nâng cao vai trò của Hội Nhà báo Việt Nam ................. 96
4. Đối với cơ quan quản lý nhà nước ................................... 97
KẾT LUẬN .................................................................................100
PHỤ LỤC ...................................................................................104
TỔNG HỢP KẾT QUẢ KHẢO SÁT
TRÊN BÁO ĐIỆN TỬ..............................................................113
4 BÁO CÁO KHẢO SÁT, NGHIÊN CỨU VỀ CÁC HÀNH VI CẢN TRỞ TÁC NGHIỆP BÁO CHÍ
PHẦN MỞ ĐẦU
I. BỐI CẢNH CHUNG
Từ một nước chậm phát triển, Việt Nam đã bước sang giai đoạn trở
thành một nước phát triển với trình độ trung bình. Nền kinh tế đang
chuyển dần từ chiều rộng sang chiều sâu với những bước đi cụ thể
và tầm nhìn dài hạn. Tuy nhiên hệ lụy của chính sách tăng trưởng
theo chiều rộng một thời đã bộc lộ một số mặt trái: môi trường bị
tàn phá, nạn tham nhũng vẫn diễn biến phức tạp, cái xấu-cái tốt, cái
cũ-cái mới đan xen và không dễ nhận diện, đặc biệt là sự tác động
của nhiều nhóm lợi ích vào chính sách, vào việc ưu tiên sử dụng tài
nguyên và các nguồn lực diễn ra ngày một phức tạp… Những điều
này đã tạo ra những nguy cơ lớn gây bất ổn xã hội, đe dọa sự phát
triển.
Trong bối cảnh đó, với vai trò là công cụ của Đảng, Nhà nước, tiếng
nói của các tổ chức xã hội và là diễn đàn của nhân dân, lực lượng
báo chí đã bám sát các sự kiện xảy ra trong xã hội, phản ánh đa chiều
những vấn đề nảy sinh từ hiện tượng cũng như lột tả bản chất các
xung đột, mâu thuẫn xảy ra trong quá trình đi lên của đất nước. Sự
tham gia của báo chí vừa là thực hiện nghĩa vụ cung cấp thông tin
5BÁO CÁO KHẢO SÁT, NGHIÊN CỨU VỀ CÁC HÀNH VI CẢN TRỞ TÁC NGHIỆP BÁO CHÍ
cho người dân theo Hiến pháp, vừa giám sát hoạt động của cơ quan
nhà nước với tư cách là nhân tố chủ chốt điều hành và phân chia các
nguồn lực trong xã hội.
Chính vì đánh giá rất cao vai trò của báo chí nên từ năm 1989, Quốc
hội đã ban hành Luật Báo chí nhằm tạo hành lang pháp lý cho các
phóng viên, nhà báo hoạt động. Luật này không những minh định
quyền thu thập và công bố thông tin của nhà báo mà còn nghiêm
cấm tất cả những hành vi cản trở nhà báo hành nghề đúng pháp luật.
Sau đó, Luật Phòng chống tham nhũng và nhiều văn bản khác tiếp
tục cụ thể hóa quyền này của báo chí với mục tiêu tạo điều kiện tốt
hơn cho các nhà báo hoạt động, cũng là nhằm phục vụ xã hội tốt
hơn.
Tuy nhiên, do tính chất phức tạp của các sự vật hiện tượng diễn ra
trong quá trình phát triển, do bị đụng chạm đến lợi ích, do nhà báo bị
tác động hoặc đơn giản do thiếu hiểu biết, ở một số nơi, hiện tượng
cản trở nhà báo hành nghề vẫn diễn ra, có trường hợp rất nghiêm
trọng, gây bức xúc dư luận xã hội. Trong vài năm gần đây, hiện tượng
này diễn ra ngày một nhiều, hậu quả ngày một lớn, diễn ra ở tất cả
mọi vùng miền, lĩnh vực… nhưng kết quả xử lý các hành vi cản trở
nhà báo lại không tương xứng với mong muốn của các cơ quan quản
lý, chỉ đạo báo chí, của chính giới báo chí cũng như của các tầng lớp
nhân dân. Tình hình này đòi hỏi có những khảo sát, đánh giá cụ thể
về thực trạng, chỉ rõ nguyên nhân và đề ra giải pháp nhằm hạn chế
tình trạng cản trở nhà báo tác nghiệp.
II. LÝ DO THỰC HIỆN NGHIÊN CỨU
Tính đến tháng 3/2011, trên lĩnh vực báo in, cả nước có 745 cơ quan
báo chí với 1003 ấn phẩm. Ở lĩ nh vực phát thanh và truyền hình,
có 67 đài phát thanh, truyền hình gồm 3 đài phát thanh, truyền hình
ở trung ương (VOV, VTV, VTC), và 64 đài phát thanh-truyền hình
ở các địa phương với 200 kênh sản xuất trong nước và 67 kênh nước
ngoài.
Trong lĩnh vực thông tin điện tử, cả nước có 46 báo điện tử và tạp chí
điện tử, 287 trang tin điện tử của các cơ quan báo chí và hàng nghìn
trang tin điện tử có nội dung thông tin của các cơ quan Đảng, Nhà
nước và Chính phủ, các đoàn thể, hội, hiệp hội và các doanh nghiệp.
6 BÁO CÁO KHẢO SÁT, NGHIÊN CỨU VỀ CÁC HÀNH VI CẢN TRỞ TÁC NGHIỆP BÁO CHÍ
Cũng tính đến tháng 3/2001, cả nước có gần 17.000 người đã được
cấp thẻ nhà báo và trên 5.000 người đang hoạt động báo chí nhưng
chưa có thẻ, trong đó nhiều phóng viên, biên tập viên có trình độ
chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ khá.
Hiện tượng phóng viên, nhà báo bị cản trở khi tác nghiệp đã diễn ra
từ lâu, ở nhiều vùng, do nhiều loại đối tượng gây ra với đủ loại hậu
quả. Xét về mặt hình thức, các quy định của pháp luật về lĩnh vực
này có tương đối nhiều, hệ thống cơ quan quản lý, chỉ đạo báo chí và
tổ chức của hội nghề nghiệp cũng khá đầy đủ. Tuy nhiên, tình hình
các phóng viên, nhà báo liên tục bị cản trở vẫn diễn ra, trong khi từ
trước đến nay chưa có bất cứ nghiên cứu bài bản, toàn diện nào về
tình trạng này.
RED Communication là tổ chức khoa học trực thuộc Liên hiệp Các
Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, có chức năng nghiên cứu về
lĩnh vực truyền thông phát triển. Các nhân sự tham gia RED đều
từng là nhà báo, từng quan tâm và bám sát các hiện tượng phóng
viên, nhà báo bị cản trở khi tác nghiệp. Ngay tại thời điểm RED đề
xuất ý tưởng nghiên cứu (tháng 4/2011), đã xảy ra liên tiếp các vụ
cản trở nhà báo gây xôn xao dư luận và giống như nhiều sự việc khác,
các vụ cản trở này đa phần không tìm ra thủ phạm hoặc thủ phạm
không bị xử lý nghiêm minh. Chính vì thế, từ tháng 6/2011, được sự
hỗ trợ của Bộ Ngoại giao Anh, được cơ quan chủ quản là Liên hiệp
các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phê duyệt, RED
triển khai thực hiện dự án trên quy mô toàn quốc với nhiều hoạt
động cụ thể.
Chính vì tầm quan trọng của dự án, RED Communication đã mời
nhóm chuyên gia nghiên cứu là những người đã hoạt động nhiều
năm trong lĩnh vực báo chí, có nhiều kinh nghiệm, am hiểu công
tác nghiên cứu và xây dựng chính sách, đã tham gia nhiều hoạt động
tương tự ở giai đoạn tiền dự án.
7BÁO CÁO KHẢO SÁT, NGHIÊN CỨU VỀ CÁC HÀNH VI CẢN TRỞ TÁC NGHIỆP BÁO CHÍ
Họ tên Các đơn vị công tác đã qua Chuyên môn hiện tại
Mai Phan Lợi
Báo Khoa Học & Đời Sống,
báo Nhà Báo & Công Luận,
báo Pháp Luật TP.HCM
Quản lý tòa soạn báo
Ngô Huy Toàn Thanh tra Bộ VH-TT; Thanh tra Bộ TT-TT Thanh tra Báo chí
Lưu Đình Phúc Cục An ninh Tư tưởng - Văn hóa; Cục Báo chí Quản lý báo chí
Nguyễn Văn Hiếu
VKSND tỉnh Hưng Yên, Vụ
Pháp chế Bộ VH-TT, Cục
Báo chí
Quản lý báo chí
Phạm Đoan
Trang
Báo điện tử VnExpress;
Đài TH VTC, báo điện tử
VietNamNet, báo Pháp Luật
TP.HCM
Nhà báo
Hoàng Nghĩa
Nhân
Tạp chí Nghề Luật, báo điện
tử VnExpress, báo Pháp Luật
TP.HCM
Thư ký tòa soạn báo
Lê Khánh Duy Báo điện tử VietNamNet Nhà báo
III. PHẠM VI, ĐỐI TƯỢNG, THỜI GIAN,
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Dự án được ký kết ngày 20/6/2011, nhưng đã được nhóm thành viên
RED khởi động từ rất sớm. Sau khi văn kiện dự án được phê duyệt,
từ 1/7/2011 đến 15/8/2011, việc khảo sát được tiến hành theo hai
hình thức:
- Khảo sát trực tuyến trên 6 báo điện tử (VietNamNet, VTC News,
Dân Việt, Thanh Niên online, Pháp luật TP.HCM online, Người Lao
Động online) với nhóm bạn đọc và nội dung được xác định trước.
- Khảo sát trực tiếp với 384 người đang trực tiếp hành nghề báo chí
theo bảng câu hỏi có sẵn (bảng hỏi định lượng); phỏng vấn trực tiếp
(bảng hỏi định tính có ghi danh) 60 nhà báo, cán bộ liên quan đến
tác nghiệp báo chí xung quanh chủ đề cản trở nhà báo tác nghiệp.
Trong quá trình này, nhóm nghiên cứu đã trực tiếp thực hiện điều
tra khảo sát tại một số địa bàn trọng điểm đối với tác nghiệp báo chí
8 BÁO CÁO KHẢO SÁT, NGHIÊN CỨU VỀ CÁC HÀNH VI CẢN TRỞ TÁC NGHIỆP BÁO CHÍ
như Lạng Sơn, Quảng Ninh, Đà Nẵng, Quảng Nam, Tây Nguyên,
TP.HCM và Cần Thơ. Một số địa bàn “nóng” khác cũng được các
điều tra viên, cộng tác viên của RED trực tiếp khảo sát, như Hải
Phòng, Nghệ An, Huế, Bình Thuận.
Trong cuộc khảo sát trực tiếp 384 người làm báo (gồm cả nhà báo –
đã có thẻ, và phóng viên – chưa được cấp thẻ), để đảm bảo tính đại
diện, RED cố gắng duy trì một tỷ lệ thích hợp, cân đối giữa các nhóm
tuổi, kinh nghiệm làm nghề và loại hình báo chí, như trong các bảng
dưới đây.
Độ tuổi của các phóng viên, nhà báo tham gia khảo sát cũng là một
thông số cần chú ý, bởi vì trong nghề báo, độ tuổi có mối liên hệ rất
chặt chẽ với trình độ chuyên môn, kinh nghiệm làm việc, trong đó
có cả kỹ năng ứng xử khi tác nghiệp, nhất là trong những tình huống
khó khăn.
9BÁO CÁO KHẢO SÁT, NGHIÊN CỨU VỀ CÁC HÀNH VI CẢN TRỞ TÁC NGHIỆP BÁO CHÍ
Tương tự, một thông số khác là số năm kinh nghiệm làm việc, cũng
là một yếu tố có tác động mạnh tới trình độ chuyên môn, kỹ năng tác
nghiệp của phóng viên, nhà báo, nhất là trong tình huống khó khăn.
Một thông số quan trọng mà nhóm tiến hành điều tra khảo sát tính
đến là tỷ lệ người làm báo có và không có thẻ nhà báo. Điều này sở dĩ
quan trọng vì trong luật pháp cũng như trong nhận thức của xã hội,
nhà báo phải là người “đang hoạt động hoặc công tác thường xuyên
với một cơ quan báo chí Việt Nam và được cấp thẻ nhà báo”. Người
chưa/không được cấp thẻ thì không được công nhận là nhà báo. Thế
nhưng trên thực tế, như các phần sau trong báo cáo sẽ cho thấy, một
tỷ lệ rất lớn người bị cản trở trong lúc tác nghiệp báo chí lại là những
người không có thẻ. Từ đây đặt ra vấn đề cần làm gì để bảo vệ quyền
lợi của những người tác nghiệp báo chí chính đáng, đúng luật pháp
mà lại chưa/không có thẻ nhà báo.
10 BÁO CÁO KHẢO SÁT, NGHIÊN CỨU VỀ CÁC HÀNH VI CẢN TRỞ TÁC NGHIỆP BÁO CHÍ
Ngoài ra, nhóm nghiên cứu còn tiến hành thu thập tài liệu, khảo sát,
phân tích sâu về các nhóm đề tài: thực trạng việc sử dụng công cụ
pháp lý (hành chính, hình sự) trong việc bảo vệ quyền tác nghiệp
của nhà báo; việc thực hiện Quy chế phát ngôn và cung cấp thông
tin theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ; thực trạng cản trở tác
nghiệp báo chí liên quan đến mảng phòng chống tham nhũng và tài
nguyên môi trường; vai trò của hội nghề nghiệp trong bảo vệ quyền
tác nghiệp báo chí; sự quan tâm của một cơ quan báo chí (Pháp Luật
TP.HCM) đối với đề tài cản trở tác nghiệp báo chí; kinh nghiệm
nước ngoài xử lý các hành vi cản trở nhà báo tác nghiệp.
11BÁO CÁO KHẢO SÁT, NGHIÊN CỨU VỀ CÁC HÀNH VI CẢN TRỞ TÁC NGHIỆP BÁO CHÍ
PHẦN A
THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH VÀ CÁC BIỆN
PHÁP ĐÃ ĐƯỢC ÁP DỤNG
I. Quá trình nghiên cứu trước đây – Các
định nghĩa đã có về “cản trở tác nghiệp
báo chí”
Cho đến nay, ở Việt Nam, chưa từng có một đề tài nghiên cứu nào
cụ thể hóa về “cản trở tác nghiệp báo chí”, cho nên cũng chưa có định
nghĩa nào của giới nghiên cứu về khái niệm này.
Gần đây nhất, Nghị định 02/2011/NĐ-CP của Chính phủ về xử
phạt vi phạm hành chính trong hoạt động báo chí-xuất bản, ký ngày
6/1/2011, tại Điều 6, có nhắc tới một định nghĩa về “hành vi cản trở
bất hợp pháp hoạt động báo chí”:
1. Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với hành
vi xúc phạm danh dự, nhân phẩm của nhà báo khi đang hoạt động
12 BÁO CÁO KHẢO SÁT, NGHIÊN CỨU VỀ CÁC HÀNH VI CẢN TRỞ TÁC NGHIỆP BÁO CHÍ
nghiệp vụ đúng pháp luật.
2. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với hành vi
cản trở nhà báo hoạt động nghề nghiệp đúng pháp luật.
3. Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng đối với một
trong các hành vi sau:
a) Đe dọa, uy hiếp tính mạng nhà báo;
b) Hủy hoại, cố ý làm hư hỏng hoặc thu giữ trái phép phương tiện, tài
liệu hoạt động báo chí của nhà báo.
Bên cạnh Điều 6, khoản 1 Điều 8 của Nghị định này có nêu các hành
vi vi phạm quy định về cung cấp thông tin cho báo chí, theo đó:
1. Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000
đồng đối với một trong các hành vi sau:
a) Cản trở việc cung cấp thông tin cho báo chí của tổ chức, công dân;
b) Không cung cấp thông tin cho báo chí theo quy định tại Điều 7
Luật Báo chí (Điều 7 Luật Báo chí quy định: “Trong phạm vi quyền
hạn, nhiệm vụ của mình, các tổ chức có quyền và nghĩa vụ cung cấp
thông tin cho báo chí, giúp cho báo chí thông tin chính xác, kịp thời
và chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung thông tin”).
Như vậy, Nghị định đã gián tiếp định nghĩa cản trở tác nghiệp báo
chí bao gồm: hành vi xúc phạm danh dự, nhân phẩm của nhà báo khi
đang hoạt động nghiệp vụ đúng pháp luật; hành vi cản trở nhà báo hoạt
động nghề nghiệp đúng pháp luật; đe dọa, uy hiếp tính mạng nhà báo;
hủy hoại, cố ý làm hư hỏng hoặc thu giữ trái phép phương tiện, tài liệu
hoạt động báo chí của nhà báo; không cung cấp thông tin cho báo chí
theo quy định của Luật Báo chí.
Song ở đây lại có vướng mắc. Nhà báo, theo định nghĩa từ Luật Báo
chí năm 1989, thì “phải là người có quốc tịch Việt Nam, có địa chỉ
thường trú tại Việt Nam, có đủ các tiêu chuẩn chính trị, đạo đức và
nghiệp vụ báo chí do Nhà nước quy định, đang hoạt động hoặc công
tác thường xuyên với một cơ quan báo chí Việt Nam và được cấp thẻ
nhà báo”.
Có thể thấy định nghĩa này hạn chế nội hàm của khái niệm nhà báo
ở việc định ra một tiêu chuẩn là nhà báo phải là người được cấp thẻ.
13BÁO CÁO KHẢO SÁT, NGHIÊN CỨU VỀ CÁC HÀNH VI CẢN TRỞ TÁC NGHIỆP BÁO CHÍ
Với cách tiếp cận như vậy, ở Việt Nam những người hoạt động báo
chí thường xuyên và xem đó là sự nghiệp chính, mang lại nguồn thu
nhập chủ yếu… có thể được phân chia ra thành hai nhóm: nhà báo
(có thẻ) và không phải nhà báo (không có thẻ). Nhóm “không phải
nhà báo” bao gồm phóng viên, cộng tác viên. Căn cứ Điều 6 Nghị
định 02 đã nói trên, thì nhóm này không phải là đối tượng được xét
đến trong việc xử lý các hành vi cản trở bất hợp pháp hoạt động báo
chí.
Việc không đưa ra một định nghĩa bao hàm cả những người không
có thẻ mà thực chất vẫn hoạt động báo chí thường xuyên như sự
nghiệp chính không làm chúng ta bác bỏ được một thực tế, là trong
những vụ cản trở tác nghiệp báo chí ở Việt Nam nhiều năm qua, có
không ít trường hợp nạn nhân là phóng viên, cộng tác viên của báo
chí. Không có số liệu thống kê chính thức nhưng từ thực tế khảo sát,
có thể nhận định rằng số “không có thẻ” chiếm tỷ lệ rất đáng kể trong
các nạn nhân của hành vi cản trở tác nghiệp báo chí (sẽ phân tích rõ
hơn trong phần sau). Tuy vậy, do không được thừa nhận là nhà báo
nên những nạn nhân này không nhận được sự chú ý cần thiết của
dư luận (thông qua chính kênh báo chí) cũng như sự bảo vệ từ pháp
luật. Điều đó, đến lượt nó, có nguy cơ gây cho những đối tượng cản
trở tâm lý xem thường và “bắt nạt” những người tuy vẫn hành nghề
báo chí nhưng không có thẻ.
14 BÁO CÁO KHẢO SÁT, NGHIÊN CỨU VỀ CÁC HÀNH VI CẢN TRỞ TÁC NGHIỆP BÁO CHÍ
Từ điển tiếng Việt của Trung tâm Từ điển học, NXB Đà Nẵng,
2011, định nghĩa “cản trở” là “gây trở ngại, làm cho không
tiến hành được dễ dàng”. Một tài liệu khác – Dự án Từ điển
tiếng Việt, truy cập tại địa chỉ
leipzig.de/~duc/Dict/ định nghĩa động từ hoặc danh từ “cản
trở” là “gây khó khăn trở ngại, làm cho không tiến hành được
dễ dàng, suôn sẻ, ví dụ cản trở giao thông, công việc bị cản trở,
cản trở sự tiến bộ”.
II. Một số vụ cản trở tác nghiệp điển hình
trong hai năm qua
Do số lượng các vụ cản trở quá nhiều, tính chất phức tạp, diễn ra trên
địa bàn quá rộng lớn (cả nước), nên khi thực hiện báo cáo này, chúng
tôi chọn một giai đoạn cụ thể để khảo sát. Theo nhận định của đa số
nhà báo mà chúng tôi tiếp xúc, thì khoảng thời gian từ năm 2008 đến
nay, có thể do có những diễn biến phức tạp về kinh tế - chính trị - xã
hội mà báo chí vẫn bám sát, nên tình hình hoạt động báo chí ở Việt
Nam có xu hướng biến động theo hướng bất an hơn cho nhà báo.
Số vụ cản trở xảy ra ngày một nhiều (so với thời gian trước đó), và ở
nhiều vụ, tính chất cũng nghiêm trọng hơn.
Để nghiên cứu được tập trung hơn, chúng tôi lựa chọn thời gian
khảo sát là trong hai năm trở lại đây. Ở mức độ nào đó, tất cả các vụ
cản trở tác nghiệp báo chí đều nghiêm trọng bởi nó thể hiện sự coi
thường pháp luật, xâm phạm quyền hành nghề vì nhiệm vụ công
của cá nhân khác. Tuy nhiên, cũng để hạn chế bớt quy mô quá dàn
trải nên chúng tôi chỉ lựa chọn những vụ việc nghiêm trọng theo
nghĩa được công luận nhắc đến thông qua phương tiện thông tin
đại chúng. Các nạn nhân của hành vi cản trở cũng được xác định là
người làm báo (có thẻ hoặc không có thẻ) bị cản trở trong lúc đang
tác nghiệp hợp pháp hoặc gần như sau khi vừa tác nghiệp xong, cho
thấy có dấu hiệu liên quan. Vì lý do này, chúng tôi sẽ không xét đến ở
đây những vụ việc tuy cũng rất nghiêm trọng nhưng lại không diễn
ra nhằm vào nhà báo đang tác nghiệp hợp pháp, và không có bằng
chứng cho thấy có liên quan trực tiếp với hoạt động tác nghiệp của
nhà báo; chẳng hạn vụ việc nhà báo Hoàng Hùng (Người Lao Động)
bị phóng hỏa tại nhà riêng trong đêm 19/1/2011, gây xôn xao dư
luận.
HỘP 1:
15BÁO CÁO KHẢO SÁT, NGHIÊN CỨU VỀ CÁC HÀNH VI CẢN TRỞ TÁC NGHIỆP BÁO CHÍ
Trong hai năm qua, trên toàn quốc, đã có nhiều vụ cản trở tác nghiệp
được phản ánh trên báo chí:
- Phóng viên Minh Sơn (báo Người Lao Động) bị ném đá vào kính
xe ô-tô (tại Đồng Nai, ngày 24/7/2011);
- Hai phóng viên Phạm Hồng Phong (Truyền hình Kỹ thuật số VTC)
và Lê Duy Khánh (truyền hình ATV của báo An Ninh Thủ Đô) bị
côn đồ chửi bới, đấm vào mặt, bóp cổ…