Đất nước đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, đang vượt qua
nhiều khó khăn, thách thức, nhất là những tác động bất lợi của cuộc
khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu để bước vào
thời kỳ phát triển mới, tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa và phát triển nhanh, bền vững. Trong quá trình đó, xuất nhập
khẩu tiếp tục là một động lực quan trọng đối với tăng trưởng và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy hội nhập và tăng cường vị thế
của nền kinh tế nước ta trong kinh tế toàn cầu.
Trong 10 năm qua, lĩnh vực xuất nhập khẩu đã đạt được những
thành tựu to lớn và rất quan trọng, nhưng sau khi gia nhập WTO,
xuất khẩu đã tăng chậm lại, nhập siêu tăng cao, một số chỉ tiêu phát
triển vẫn chưa đạt được mục tiêu đã xác định trong Chiến lược phát
triển xuất nhập khẩu thời kỳ 2001 – 2010, trong Đề án phát triển
xuất khẩu 2006 – 2010. Trong 10 năm tới, nền kinh tế nước ta tiếp
tục hội nhập quốc tế sâu hơn và nằm trong khu vực phát triển năng
động nhất thế giới, khu vực cạnh tranh của nhiều nền kinh tế đang đi
lên mà phần lớn có năng lực cạnh tranh cao hơn, đặc biệt là sự trỗi
dậy của Trung Quốc. Vì thế, để đón bắt được những cơ hội phát
triển mới và vượt qua những thách thức, Việt Nam cần có quan điểm
và định hướng Chiến lược phát triển xuất nhập khẩu phù hợp, nhanh
chóng phục hồi nhịp độ phát triển và nâng cao chất lượng tăng
trưởng xuất khẩu, nhằm tạo ra sự bứt phá cho phát triển nhanh, bền
vững.
Từ yêu cầu thực tiễn phát triển đất nước trong thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, thực hiện chủ trương hội nhập quốc tế của
Đảng, cụ thể hóa các quan điểm và định hướng Chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội 2011 – 2020, chuyên đề nghiên cứu: “Quan điểm
Chiến lược phát triển xuất nhập khẩu thời kỳ 2011 – 2020” được
xây dựng để cung cấp luận cứ khoa học cho việc xác định các quan
điểm chỉ đạo Chiến lược phát triển xuất nhập khẩu thời kỳ 2011 –
2020.
Nội dung chuyên đề được trình bày thành 3 phần:
2
I. Một số hạn chế, thách thức đối với phát triển kinh tế và phát
triển xuất nhập khẩu của Việt Nam trong hội nhập quốc tế.
II. Dự báo bối cảnh quốc tế và trong nước tác động đến phát
triển xuất nhập khẩu thời kỳ tới
III. Các quan điểm phát triển xuất nhập khẩu thời kỳ 2011-2020
Dưới đây là nội dung chuyên đề
33 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2269 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Các quan điểm phát triển xuất nhập khẩu thời kỳ 2011 – 2020, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ CÔNG THƯƠNG
Dự án hỗ trợ thương mại đa biên EU – Việt Nam
Hoạt động CB - 2A “Hỗ trợ Bộ Công Thương xây dựng
chiến lược phát triển xuất nhập khẩu thời kỳ 2011 - 2020
Báo cáo chuyên đề
CÁC QUAN ĐIỂM PHÁT TRIỂN
XUẤT NHẬP KHẨU THỜI KỲ 2011 – 2020
Thực hiện chuyên đề: PGS.TS Trần Công Sách
Viện Nghiên cứu thương mại – Bộ Công Thương
Hà Nội, 11 - 2010
1
Lời mở đầu
Đất nước đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, đang vượt qua
nhiều khó khăn, thách thức, nhất là những tác động bất lợi của cuộc
khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu để bước vào
thời kỳ phát triển mới, tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa và phát triển nhanh, bền vững. Trong quá trình đó, xuất nhập
khẩu tiếp tục là một động lực quan trọng đối với tăng trưởng và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy hội nhập và tăng cường vị thế
của nền kinh tế nước ta trong kinh tế toàn cầu.
Trong 10 năm qua, lĩnh vực xuất nhập khẩu đã đạt được những
thành tựu to lớn và rất quan trọng, nhưng sau khi gia nhập WTO,
xuất khẩu đã tăng chậm lại, nhập siêu tăng cao, một số chỉ tiêu phát
triển vẫn chưa đạt được mục tiêu đã xác định trong Chiến lược phát
triển xuất nhập khẩu thời kỳ 2001 – 2010, trong Đề án phát triển
xuất khẩu 2006 – 2010. Trong 10 năm tới, nền kinh tế nước ta tiếp
tục hội nhập quốc tế sâu hơn và nằm trong khu vực phát triển năng
động nhất thế giới, khu vực cạnh tranh của nhiều nền kinh tế đang đi
lên mà phần lớn có năng lực cạnh tranh cao hơn, đặc biệt là sự trỗi
dậy của Trung Quốc. Vì thế, để đón bắt được những cơ hội phát
triển mới và vượt qua những thách thức, Việt Nam cần có quan điểm
và định hướng Chiến lược phát triển xuất nhập khẩu phù hợp, nhanh
chóng phục hồi nhịp độ phát triển và nâng cao chất lượng tăng
trưởng xuất khẩu, nhằm tạo ra sự bứt phá cho phát triển nhanh, bền
vững.
Từ yêu cầu thực tiễn phát triển đất nước trong thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, thực hiện chủ trương hội nhập quốc tế của
Đảng, cụ thể hóa các quan điểm và định hướng Chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội 2011 – 2020, chuyên đề nghiên cứu: “Quan điểm
Chiến lược phát triển xuất nhập khẩu thời kỳ 2011 – 2020” được
xây dựng để cung cấp luận cứ khoa học cho việc xác định các quan
điểm chỉ đạo Chiến lược phát triển xuất nhập khẩu thời kỳ 2011 –
2020.
Nội dung chuyên đề được trình bày thành 3 phần:
2
I. Một số hạn chế, thách thức đối với phát triển kinh tế và phát
triển xuất nhập khẩu của Việt Nam trong hội nhập quốc tế.
II. Dự báo bối cảnh quốc tế và trong nước tác động đến phát
triển xuất nhập khẩu thời kỳ tới
III. Các quan điểm phát triển xuất nhập khẩu thời kỳ 2011-2020
Dưới đây là nội dung chuyên đề:
3
NỘI DUNG CHUYÊN ĐỀ
I. MỘT SỐ HẠN CHẾ, THÁCH THỨC ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN
KINH TẾ VÀ PHÁT TRIỂN XUẤT NHẬP KHẨU CỦA VIỆT
NAM TRONG HỘI NHẬP QUỐC TẾ
1. Một số hạn chế thách thức đối với phát triển nền kinh tế nước ta
trong hội nhập quốc tế
- Trong xã hội còn tồn tại tư tưởng chủ quan, nóng vội muốn tăng trưởng
nhanh và chưa nhận thức đúng về hội nhập quốc tế (HNQT), Hạn chế này về
nhận thức trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân thường biểu hiện
ở những dạng thức khác nhau, như:
+ Mong muốn đạt được tốc độ tăng trưởng cao nên tập trung cao độ cho
tăng trưởng mà xem nhẹ vấn đề phát triển bền vững. Trong điều kiện mô hình
tăng trưởng chủ yếu dựa vào đầu tư và xuất khẩu, muốn tăng trưởng nhanh thì
phải duy trì tỉ lệ đầu tư cao trong GDP, nhưng hiệu quả đầu tư thấp nên lãng
phí nguồn lực cho tăng trưởng. Đầu tư càng tăng cao thì chất lượng và hiệu
quả tăng trưởng càng thấp. Năm 2008, hệ số nguồn lực/GDP đầu người của
Việt Nam là 0,126, cao gấp 8,4 lần của Trung Quốc (0,015) và cao gấp 5,47
lần của Ấn Độ (0,023). Muốn tăng trưởng nhanh, phải đẩy mạnh xuất khẩu,
nhưng mô hình tăng trưởng xuất khẩu đang chủ yếu dựa vào khai thác tài
nguyên và dựa vào nhập khẩu nên xuất khẩu tăng nhanh dẫn đến thâm dụng tài
nguyên, cạn kiệt tài nguyên và nhập siêu tăng cao, ảnh hưởng tới các cân đối
vĩ mô. Điều đó cũng đồng nghĩa với phát triển không bền vững.
+ Tư tưởng thụ động, thiếu tính chủ động, tích cực trong HNQT nên
không nâng cao được năng lực độc lập tự chủ trong hoạt động HNQT; khi thời
cơ đến không kịp thời đón bắt để vượt lên phát triển nhanh, hoặc gặp khó khăn
thì chán nản để mất tự chủ. Điều đó dẫn đến tư tưởng muốn duy trì bảo hộ cao
4
cho các ngành thay thế nhập khẩu, cản trở tự do hóa và không chú trọng nâng
cao sức cạnh tranh để vươn ra thị trường nước ngoài, hướng về xuất khẩu.
+ Tư tưởng mơ hồ hoặc nhận thức chưa đúng về HNQT, gia nhập
WTO của Việt Nam; coi đó là mục tiêu chứ không phải là cách thức phát triển;
hoặc đó là cơ hội nhiều, thách thức ít… nên thiếu quyết tâm, nỗ lực sáng tạo
để tăng cường năng lực độc lập tự chủ để vượt qua thách thức, tận dụng cơ hội
nhằm phát triển nhanh hơn.
- Nền kinh tế phát triển theo chiều rộng, tăng trưởng dựa vào khai thác tài
nguyên là chủ yếu, mới khai thác lợi thế so sánh mà ít dựa vào lợi thế cạnh
tranh, chưa chuyển mạnh lên khai thác kỹ thuật để phát triển theo chiều sâu,
tăng năng suất lao động, tăng sức cạnh tranh của sản phẩm. Tỉ lệ khai thác
năng lượng trong tổng thu nhập quốc gia1 (GNP) của thời kỳ 1990 – 2008 có
xu hướng tăng nhanh từ 4% - 7,5% trong giai đoạn 1990 – 2000 lên 10 – 13%
trong giai đoạn 2001 – 2004, và vọt lên 16 – 19% những năm 2005 – 2010
(chỉ số này của Ấn Độ trong cả thời kỳ 1990 – 2008 chỉ dao động ở mức 3-
4%). Trong các động năng tăng trưởng của nền kinh tế thời kỳ 1990 – 2010,
yếu tố năng suất lao động chỉ đóng góp gần 30%, còn yếu tố vốn đóng góp
50% và yếu tố lao động đóng góp 20% (các chỉ số tương ứng của Ấn Độ trong
thời kỳ1990 - 2005 là 36%, 40% và 24%). Chỉ số năng suất Tổng hợp (TFP)2
có xu hướng giảm từ 4,31%/năm trong giai đoạn 1991 – 1995 xuống 2,56%
trong giai đoạn 1996 – 2000 và 1,7%/năm trong giai đoạn 2001 – 2007 (riêng
năm 2000 là 0,28% và năm 2006 là 2,7%). Vì thế, nội năng tự chủ phát triển
của nền kinh tế chậm được nâng lên và nguồn tài nguyên nhanh bị cạn kiệt,
ảnh hưởng dài hạn cho đất nước.
- Đầu tư tăng cao nhưng còn dàn trải, nhiều mũi nhọn, nhiều trọng điểm ưu
tiên hiệu quả thấp, cơ cấu đầu tư mất cân đối. Cơ cấu kinh tế trong nội bộ
1 Khai thác năng lượng = khai thác thực tế (gồm dầu thô, khí đốt và than) x đơn giá khai thác – Nguồn WDI
(2009)
2 Năng suất lao động xã hội được tính bằng cách chia GDP theo giá thực tế cho tổng số lao động đang làm
việc.
5
từng ngành chậm chuyển dịch vào những ngành sản phẩm có lợi thế phát triển
nên hạn chế quá trình chuyên môn hóa để phát triển theo chiều sâu, khai thức
lợi thế so sánh quốc gia để tham gia sâu vào phân công lao động quốc tế. Công
nghiệp chưa xây dựng được ngành sản phẩm xuất khẩu chủ lực, chiếm thị
phần lớn trên toàn cầu (chặng hạn, trường hợp Đài Loan đến năm 1985 đã có
sản phẩm máy tính tổng thành thế hệ II đạt sản lượng trên 40 triệu sản phẩm,
chiếm 34% thị trường toàn cầu), nên vị thế của công nghiệp Việt Nam trong
khu vực chậm được cải thiện. Đầu tư tăng cao, từ chiếm tỉ trọng 14,4% GDP
năm 1990 lên 29,6% vào năm 2000 và trên 40% từ năm 2006 đến nay, nhưng
hiệu quả đầu tư rất thấp và chậm được cải thiện (Đài Loan đạt tốc độ tăng
trưởng GDP ở mức 10%/năm trong 18 năm liên tục nhưng tỉ lệ đầu tư so với
GDP chỉ ở mức 25%). Hệ số ICOR ngày càng tăng thể hiện nền kinh tế ngày
càng cần nhiều vốn hơn để có tăng trưởng. Trong giai đoạn 2001 – 2006, hệ
số ICOR của Việt Nam bình quân đã là 4,4; sau khi gia nhập WTO, hệ số này
tăng vọt lên 5,3 trong năm 2007 và 6,55 trong năm 2008, ước năm 2009 và
2010 là 7,0. Đây là mức rất cao so với các nước khác trong khu vực ở những
giai đoạn phát triển tương đương như Việt Nam3. Mặt khác, cơ cấu đầu tư mất
cân đối, thiên về đầu tư vật chất kỹ thuật, đầu tư hình thành tài sản vốn con
người và khoa học công nghệ còn rất thấp.
- Cơ cấu kinh tế chậm chuyển dịch theo hướng kinh tế thị trường hiện đại.
Sau 20 năm thực hiện hội nhập quốc tế và đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa (1990 – 2009), tuy tỉ trọng của khu vực công nghiệp và xây dựng trong
GDP đã tăng gấp 2 lần (từ 22,7% năm 1990 lên 42% năm 2008), nhưng tỉ
trọng của khu vực dịch vụ lại không tăng ,mà lại có xu hướng giảm nhẹ từ
44,1% năm 1995 xuống 38,1% năm 2000 và 38,2% năm 2007. Điểm đáng chú
ý là tỉ trọng đóng góp của các tổ chức tài chính vào GDP chỉ dao động ở mức
3 Hệ số ICOR của Hàn Quốc thời kỳ 1961 – 1980 là 3,0 và của Đài Loan trong thời kỳ này là 2,7; của
Indonexia giai đoạn 1981 – 1985 là 3,7 của Malayxia là 4,4 và của Thái Lan trong cùng giai đoạn là 4,1; của
Trung Quốc giai đoạn 2001 – 2006 là 4,0.
6
1,8 – 2,0% trong suốt thời kỳ 1995 – 2008. Như thế, cơ cấu kinh tế chậm
chuyển dịch theo hướng kinh tế thị trường hiện đại.
Chưa chú trọng đúng mức vào phần cốt cốt lõi của công nghiệp hóa, hiện
đại hóa. Ở giai đoạn bản lề của sự phát triển, trước và sau ngưỡng cửa của gia
nhập WTO, chúng ta đã có bước thụt lùi về kỹ thuật công nghệ. Trình độ công
nghệ thấp, chậm được cải thiện, lệ thuộc vào công nghệ nước ngoài , mất cân
đối cung – cầu công nghệ ngày càng tăng.
Công nghệ trong nước mới đáp ứng được 10% nhu cầu phát triển, còn 90%
công nghệ sản xuất phải được nhập khẩu. Thế nhưng, trong giai đoạn 2001 –
2008, tỉ trọng nhập khẩu nhóm máy móc thiết bị và công nghệ (yếu tố chính
tạo ra năng suất lao động và hình thành sức cạnh tranh của sản phẩm) trong
tổng kim ngạch nhập khẩu đã có xu hướng giảm mạnh từ 30,5% năm 2001
xuống 14,7% năm 2006 và 16,9% năm 2008. Trong cấu trúc nhập khẩu năm
2005, công nghệ Cao chỉ chiếm 15%, Trung – Cao chiếm 21,8%, trung – thấp
chiếm 36,2%, và công nghệ thấp chiếm 27%. Trong cấu trúc xuất khẩu năm
2005 (hàm lượng công nghệ trong sản phẩm xuất khẩu), công nghệ cao chỉ
chiếm 7,6% , trung – cao chiếm 3,7%, trung - thấp chiếm 31,2% và công nghệ
thấp chiếm 57,5%. Đồng thời, trong giai đoạn 2000 – 2005, chúng ta đã có
bước thụt lùi về công nghệ: giảm nhập khẩu công nghệ trung – cao (-6,5%) để
nhập khẩu công nghệ trung – thấp (+7,4%). Từ năm 1997 đến năm 2003, tỉ lệ
XK hàng công nghệ cao của Việt Nam chỉ nâng được từ 3% lên 6%, thấp hơn
rất nhiều so với các nước trong khu vực4. Tốc độ đổi mới máy móc, thiết bị và
công nghệ toàn nền kinh tế chỉ đạt 6 -7%/năm; tỉ lệ đầu tư cho R&D trong
doanh thu của các doanh nghiệp chỉ đạt bình quân 0,1 – 0,2%.
- Hướng tới và chuyển nhanh sang phát triển kinh tế tri thức nhưng chất
lượng giáo dục đào tạo thấp, chậm được cải thiện; mất cân đối cung – cầu lao
4 Các chỉ số tương ứng của Indonexia là 10,5% và 14%, của Trung Quốc là 12,8% và 27,6%; của Thái Lan là
31% và 30%, của Hà Quốc là 27% và 32%, của Singapore là 58% và 57%, của Malayxia là 49% và 59%.
7
động, cơ cấu lao động theo trình độ kỹ thuật và theo vùng; đặc biệt là thiếu
lao động có tay nghề, có tính chuyên nghiệp cao:
Mặc dù tỉ lệ đi học ở các bậc phổ thông khá cao, nhưng chất lượng giáo
dục còn rất thấp (kết quả trượt tốt nghiệp PTTH năm 2007 là một minh
chứng). Số lượng sinh viên được vào Đại học cũng chỉ chiếm một tỉ lệ rất nhỏ
trong những người ở độ tuổi học Đại học. Trong năm 2000, tỉ lệ lao động tốt
nghiệp đại học chỉ chiếm 2% tổng dân số (so với 5% ở Trung Quốc và 8% ở
Ấn Độ); đến năm 2005, tỉ lệ sinh viên đỗ đại học ở Việt Nam chỉ là 16% (tỉ lệ
này của Trung Quốc và Indonexia là 17% - 19%, Thái Lan là 43%). Chất
lượng đào tạo ở các trường Đại học chưa đạt chuẩn quốc tế, giảng viên các
trường đaị học của Việt Nam còn rất ít bài đăng trên các tạp chí khoa học quốc
tế5. Gần 50% sinh viên ra trường ở Việt Nam không được làm đúng ngành đào
tạo. Trong khi đó, trên thực tế, tỉ lệ ngân sách dành cho giáo dục trong GDP
của Việt Nam liên tục tăng và cao hơn hầu hết các nước trong khu vực, chưa
kể mỗi năm cả nước (Chính phủ, tổ chức và cá nhân) chi khoảng 1 tỉ USD cho
việc du học (chủ yếu là từ nguồn gia đình có người đi du học).
Đến năm 2009, cả nước có 2,6 triệu người có trình độ đại học (chiếm 4,5%
lao động cả nước); trong đó, có 18 nghìn thạc sĩ, 16 nghìn tiến sĩ, hơn 6 nghìn
phó giáo sư và giáo sư. Thế nhưng năm 2002, Việt Nam chỉ đăng ký được 2
bản quyền với tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO).
- Xu hướng đô thị hóa diến ra rất chậm, cơ sở hạ tầng chậm được cải
thiện, ô nhiễm môi trường gia tăng nhưng chưa được kiểm soát chặt chẽ
Sau 20 năm (1990 – 2009), tỉ lệ dân số sống ở khu vực thành thị của Việt
Nam chỉ tăng từ 20,3% lên 28,6% (chí số tương ứng của Trung Quốc là 27,4%
và 44,5%, của Indonexia là 30,6% và 53%, của Philipin là 48,8% và 66,4%,
5 Trong năm 2006, với 2.830 giảng viên của trường Đại học Chulalongkom của Thái Lan đăng được 744 công
trình nghiên cứu trên các tạp chí khoa học quốc tế. Trong khi đó, 3.360 giảng viên ở hai trường Đaị học quốc
gia Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh chỉ đăng được tổng cộng 36 công trình – Nguồn: Chỉ số trích dẫn khoa
học mở rộng – Web of Scienoe, Thompson Corp.
8
của Thái Lan là 29,4% và 33%, ASEAN là 31,6% và 47,5%). Đầu tư phát
triển cơ sở hạ tầng tăng nhanh nhưng lãng phí lớn, hiệu quả thấp, hạ tầng ở các
đô thị đang quá tải, ách tắc và ô nhiễm nặng. Những chương trình như: “một
triệu tấn đương”, hay “đánh bắt cá xa bờ” và phong trào xây dựng các khu
công nghiệp, khu kinh tế đã không đem lại nhiều lợi ích kinh tế cho người dân
ở khu vực nông thôn, vốn là mục tiêu ban đầu, của những dự án này; gây ra
những bức xúc và bất ổn về mặt tâm lý xã hội. Tình trạng ô nhiễm môi trường
tràn lan tới mức khó kiểm soát ở các khu công nghiệp hiện nay đang ảnh
hưởng trực tiếp tới sản xuất và đời sống mưu sinh của người dân. Chưa kể tính
trạng khai thác tài nguyên khoáng sản và tính trạng tàn phá rừng đầu nguồn
chưa được quản lý, kiểm soát chặt chẽ cũng đang làm gia tăng ô nhiễm môi
trường, gây bức xúc trong xã hội.
- Hệ thống logistics chậm được xây dựng kết nối với mạng lưới logistics
khu vực và toàn cầu, nên chưa tận dụng được lợi thế địa – kinh tế để phát
triển nhanh. Việt Nam có nhiều tiềm năng, lợi thế địa – kinh tế để phát triển
dịch vụ logistics, đặc biệt là hệ thống cảng biển. Phát triển cảng biển mới, đặc
biệt là cảng biển nước sâu đã được coi là một ưu tiên quốc gia, nhưng chậm
được triển khai thực tế. Do dịch vụ logistics chưa được chú trọng phát triển
nên hàng XK của Việt Nam phần lớn chưa thể xuất trực tiếp sang thị trường
Bắc Mỹ, Châu Âu mà vẫn phải quá cảng ở Hồng Kông và Singapore, chi phí
XK cao hơn mức trung bình của khu vực. Năm 2007, chi phí XK của Việt
Nam là 701 USD6 trong khi mức trung bình của khu vực là khoảng 500 USD
(Trung Quốc là 335 USD, malayxia là 481 USD, Hồng Kông là 425 USD,
Thái Lan là 848 USD). Do dịch vụ vận tải biển chưa phát triển nên các doanh
nghiệp vận tải biển của Việt Nam mới chiếm khoảng 22 – 24% thị phận vận
tải hàng hóa XK và khoảng 18 – 20% thị phần hàng hóa nhập khẩu của Việt
Nam. Trong 3 năm 2005 – 2007 Việt Nam phải trả 6 tỉ USD cho nước ngoài
6 Chi phí XK bao gồm chi phí giấy tờ, hành chính, bốc dỡ, lưu kho, vận chuyển đường bộ cho 1 container 20
ft – Nguồn: Doiry Business 2007, WB.
9
về chi phí bảo hiểm và vận tải hàng hóa XNK, chiếm 35,7% tổng chi dịch vụ
cùng giai đoạn và là yếu tố chính làm thâm hụt cán cân dịch vụ, cán cân vãng
lai của Việt Nam.
- Số lượng doanh nghiệp tăng nhanh nhưng rất thiếu những doanh nghiệp
trong nước có thương hiệu mạnh,có khả năng cạnh tranh trên thị trường thế
giới. Năng lực tham gia các mạng sản xuất, các chuỗi giá trị toàn cầu của sản
phẩm và doanh nghiệp Việt Nam còn rất hạn chế, chỉ mới ở các khâu mang lại
giá trị gia tăng thấp của chuỗi giá trị.
Đến nay, cả nước có khoảng 500 nghìn doanh nghiệp, trong đó mới có trên
44 nghìn doanh nghiệp tham gia hoạt động thương mại quốc tế. Tuyệt đại đa
số là những doanh nghiệp nhỏ và vừa, khả năng cạnh tranh quốc tế còn rất
yếu. Doanh nghiệp là lực lượng chính yếu trong hoạt động kinh tế và trong
hoạt động HNQT, nhưng đến nay chúng ta có rất ít doanh nghiệp có thương
hiệu Việt mạnh, có khả năng hoạt động xuyên quốc gia và giành thắng lợi
trong cạnh tranh toàn cầu.
Phần lớn các doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam mới tham gia được vào
phân khúc sản xuất, gia công lắp ráp – tức là các khâu mang lại giá trị gia tăng
thấp nhất trong chuối giá trị. Có rất ít doanh nghiệp tham gia được và khâu
thiết kế, nghiên cứu và phát triển, tiêu thụ… là những khâu mang lại giá trị gia
tăng cao. Đối với các sản phẩm nông thủy sản có khối lượng lớn XK cũng
tương tự, các doanh nghiệp Việt Nam mới chủ yếu tham gia ở khâu sản xuất
và chế biến nông, chưa tham gia nhiều vào khâu chế biến sâu ra sản phẩm tiêu
dùng cuối cùng và các khâu maketing, tiêu thụ, qui trình canh tác và tạo ra các
giống mới năng suất cao. Tham gia vào các mạng sản xuất, các chuối giá trị
toàn cầu chưa trở thành phương thức chủ yếu để tìm kiếm giá trị gia tăng cao
của các doanh nghiệp Việt Nam.
- Hoạt động đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh ngoài biên giới quốc gia
mới ở giai đoạn khởi đầu (vốn thực hiện đầu tư trực tiếp ra nước ngoài mới
10
chiếm 0,19% GDP), khả năng tận dụng những cơ hội phát triển mới do HNQT
và toàn cầu hóa mở ra của Việt Nam còn rất hạn chế.
- Khu vực dịch vụ chưa trở thành đầu tầu tăng trưởng để kéo nền kinh tế
phát triển theo hướng kinh tế thị trường hiện đại. Đầu tầu tăng trưởng vẫn
đang là công nghiệp (thời kỳ 1996 – 2008, chỉ số giá trị gia tăng công nghiệp
tăng bình quân 11,5/năm, trong khi chỉ số này của khu vực dịch vụ chỉ đạt
7,5%/năm.
- Động lực tăng trưởng chính của nền kinh tế là ngành công thương, nhưng
giá trị gia tăng của ngành công thương thấp. Trong thời kỳ 2000 – 2008, chỉ
số MVA/GO có xu hướng giảm từ 38,4% năm 2000 xuống 26,4%, năm 2007,
24,8%, năm 2008 và năm 2009 còn 21%. Chỉ số VA/GO của thương mại trong
nước trong cùng thời kỳ không có xu hướng tăng mà chỉ dao động ở mức 24%
- 29%. Nhóm ngành công nghiệp chế biến có lợi thế cạnh tranh về giá nhân
công rẻ phát triển theo định hướng XK, tuy chiếm 43% GTSLCN nhưng chỉ
chiếm 30% tổng MVA toàn ngành công nghiệp năm 2000, giảm xuống 23%
năm 2007, và 20% trong năm 2009, hoạt động gia công lắp ráp là chủ yếu, còn
phụ thuộc nặng nề vào nguồn lực bên ngoài và chậm thích ứng với những biến
động của tình hình thế giới.
XK đang là động lực tăng trưởng, nhưng tăng trưởng XK phụ thuộc chủ
yếu vào các ngành gia công, chế biến có chi phí cao, lệ thuộc vào đầu nhập
khẩu, giá trị gia tăng thấp, dễ ô nhiễm môi trường và tiêu tốn ngoại tệ. Tốc độ
chuyển dịch cơ cấu hàng XK theo hướng hiện đại còn rất chậm. Từ năm 2001
đến năm 2009, tỉ trọng nhóm sản phẩm thô và sơ chế trong tổng KNNK chỉ
giảm từ 53% xuống 46,6% năm 2009. Đến năm 2009, nhóm sản phẩm chế
biến mới chiếm 53,4% (Hàn Quốc năm 1986 đã đạt trên 96,4% và Trung Quốc
năm 2000 đã đạt đến 92%). Do hàng thô và sơ chế còn chiếm tỉ trọng lớn nên
độ co giãn về cung với thị trường thế giới rất nhỏ, sản xuất trong nước chậm
thích ứng với những biến động của thị trường thế giới .
11
- “Đầu tầu” của tăng trưởng là khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, nhưng
một số ngành công nghiệp quan trọng như khai thác tài nguyên, công nghiệp
chế biến và các lĩnh vực có giá trị gia tăng cao đang có nguy cơ bị khu vực
này nắm giữ, chi phối. Khu vực FDI có tốc độ tăng trưởng cao nhất và đóng
góp ngày càng nhiều vào tăng trưởng GDP, tăng trưởng XK (năm 2008 khu
vực FDI chiếm 20% GDP, 41% vốn đầu tư xã hội, 45% GTSLCN, 57%
KNXK, 31,5% KNNK). Tuy nhiên, đầu tư vào công nghiệp khai thác tài
nguyên đạt hiệu quả cao nhất trong các ngành công nghiệp (hệ số ICOR thời
kỳ 2000 – 2008 là 0,51) và các lĩnh vực kinh doanh có giá trị gia tăng cao, tỉ
suất lợi nhuận cao (kinh doanh tài sản, nhà ở, nhà hàng, khách sạn, siêu thị,
trung tâm thương mại lại đang hút mạnh nguồn vốn FDI, và các lĩnh vực này
đang có nguy