Bệnh lởmồm long móng (Foot and Mouth Disease – FMD) hiện nay vẫn đang còn gây 
thiệt hại kinh tếquan trọng ởnhiều nơi trên thếgiới, mặc dù nó đã được thanh toán hoặc 
khống chếthành công tại nhiều nước. Bệnh gây thành dịch ởnhiều loài động vật móng 
guốc chẵn, chủyếu là trâu, bò và lợn. Bệnh lởmồm long móng được biết đến nhưnạn đại 
dịch của các đàn bò, cừu và lợn tại nhiều nước từthếkỷXIX. Bệnh có ởkhắp thếgiới. 
Cuối thếkỷXIX, đại dịch đã hoành hành ởhầu hết châu Âu, kéo dài hơn 10 năm không 
tắt, gây bệnh cho hàng chục triệu bò, cừu. Nửa đầu những năm 50 của thếkỷXX, lại có 
một vụdịch mới kéo dài gây thiệt hại lớn cho đàn gia súc ởnhiều nước thuộc châu Âu. ở
châu Á và châu Phi, bệnh cũng xảy ra trầm trọng như ởchâu Âu, hầu hết các nước đã 
từng có bệnh. Điều làm đau đầu các nhà dịch tễhọc là tại nhiều nước và khu vực, sau 
nhiều năm liên tục tiêm phòng vacxin cho đàn gia súc và áp dụng các biện pháp kiểm 
soát bệnh nghiêm ngặt, bệnh tưởng như đã hoàn toàn biến mất, nay bỗng nhiên lại bùng 
phát dữdội. Điển hình ở Đài Loan năm 1997 từnguồn dịch là vài con lợn mắc bệnh trên 
một chiếc thuyền buôn, trong vòng 2 tháng bệnh nhanh chóng lan ra hàng ngàn trại chăn 
nuôi lợn, làm suy sụp nền kinh tếchăn nuôi, thiệt hại khoảng 2 tỷUSD. Đểchẩn đoán lở
mồm long móng, đầu tiên căn cứvào dấu hiệu lâm sàng của bệnh. Tuy nhiên điều này có 
thểbịnhầm lẫn do những bệnh có triệu chứng tương tự. Ởtrâu, bò bệnh viêm miệng mụn 
nước (vesicular stomatitis, VS) rất giống bệnh lởmồm long móng. Ởlợn, bệnh mụn nước 
ởlợn (swine vesicular disease, SVD) và bệnh mụn nước ban đỏ(vesicular exanthema ò 
swine, VES) tuy khác căn nguyên nhưng có triệu chứng giống nhau. Sựphát hiện sớm 
giai đoạn nhiễm bệnh và xác định đúng bệnh nếu có thểtrước khi xuất hiện các dấu hiệu 
lâm sàng là yếu tốchủyếu cho sựkhống chếbệnh hiệu quả, ngăn chặn bệnh lây lan. Điều 
đó đòi hỏi phải có phương pháp chẩn đoán nhanh, đặc hiệu, chính xác có thểcho kết quả
trong vòng 24g.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 30 trang
30 trang | 
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2632 | Lượt tải: 2 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chẩn đoán virus lở mồm long móng (fmdv) bằng kỹ thuật gene, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chẩn đoán bệnh lở mồm long móng (FMD) 
Nguyễn Thúy Kiều |   1 
Oct. 30 
Trường Đại Học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh 
Bộ môn Công Nghệ Sinh Học 
Lớp DH06SH 
P 
Tiểu luận: CHẨN ĐOÁN BỆNH GIA SÚC GIA CẦM 
CHẨN ĐOÁN VIRUS LỞ MỒM LONG MÓNG 
(FMDV) BẰNG KỸ THUẬT GENE 
Chẩn đoán bệnh lở mồm long móng (FMD) 
Nguyễn Thúy Kiều |   2 
Oct. 30 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Bệnh lở mồm long móng (Foot and Mouth Disease – FMD) hiện nay vẫn đang còn gây 
thiệt hại kinh tế quan trọng ở nhiều nơi trên thế giới, mặc dù nó đã được thanh toán hoặc 
khống chế thành công tại nhiều nước. Bệnh gây thành dịch ở nhiều loài động vật móng 
guốc chẵn, chủ yếu là trâu, bò và lợn. Bệnh lở mồm long móng được biết đến như nạn đại 
dịch của các đàn bò, cừu và lợn tại nhiều nước từ thế kỷ XIX. Bệnh có ở khắp thế giới. 
Cuối thế kỷ XIX, đại dịch đã hoành hành ở hầu hết châu Âu, kéo dài hơn 10 năm không 
tắt, gây bệnh cho hàng chục triệu bò, cừu. Nửa đầu những năm 50 của thế kỷ XX, lại có 
một vụ dịch mới kéo dài gây thiệt hại lớn cho đàn gia súc ở nhiều nước thuộc châu Âu. ở 
châu Á và châu Phi, bệnh cũng xảy ra trầm trọng như ở châu Âu, hầu hết các nước đã 
từng có bệnh. Điều làm đau đầu các nhà dịch tễ học là tại nhiều nước và khu vực, sau 
nhiều năm liên tục tiêm phòng vacxin cho đàn gia súc và áp dụng các biện pháp kiểm 
soát bệnh nghiêm ngặt, bệnh tưởng như đã hoàn toàn biến mất, nay bỗng nhiên lại bùng 
phát dữ dội. Điển hình ở Đài Loan năm 1997 từ nguồn dịch là vài con lợn mắc bệnh trên 
một chiếc thuyền buôn, trong vòng 2 tháng bệnh nhanh chóng lan ra hàng ngàn trại chăn 
nuôi lợn, làm suy sụp nền kinh tế chăn nuôi, thiệt hại khoảng 2 tỷ USD. Để chẩn đoán lở 
mồm long móng, đầu tiên căn cứ vào dấu hiệu lâm sàng của bệnh. Tuy nhiên điều này có 
thể bị nhầm lẫn do những bệnh có triệu chứng tương tự. Ở trâu, bò bệnh viêm miệng mụn 
nước (vesicular stomatitis, VS) rất giống bệnh lở mồm long móng. Ở lợn, bệnh mụn nước 
ở lợn (swine vesicular disease, SVD) và bệnh mụn nước ban đỏ (vesicular exanthema ò 
swine, VES) tuy khác căn nguyên nhưng có triệu chứng giống nhau. Sự phát hiện sớm 
giai đoạn nhiễm bệnh và xác định đúng bệnh nếu có thể trước khi xuất hiện các dấu hiệu 
lâm sàng là yếu tố chủ yếu cho sự khống chế bệnh hiệu quả, ngăn chặn bệnh lây lan. Điều 
đó đòi hỏi phải có phương pháp chẩn đoán nhanh, đặc hiệu, chính xác có thể cho kết quả 
trong vòng 24g. Hơn nữa, sự xác định kịp thời typ đặc hiệu của virus thuộc địa và đặc 
Chẩn đoán bệnh lở mồm long móng (FMD) 
Nguyễn Thúy Kiều |   3 
Oct. 30 
tính phân tử của nó là rất cần thiết để thực hiện tiêm phòng khẩn cấp với kháng nguyên 
tương ứng và để đánh dấu nguồn gốc ổ dịch. Vì thế chẩn đoán bằng kỹ thuật gene là 
phương pháp đang được nghiên cứu và áp dụng để phát hiện kịp thời để đưa ra những 
giải pháp xử lý hiệu quả. 
I. TỔNG QUAN 
1.1. FMD (foot and mouth disease) 
Lở mồm long móng (FMD) là bệnh truyền nhiễm cấp tính nguy hiểm do virus gây ra. 
Đây là bệnh được tổ chức dịch tể thế giới (Office International des Epizooties _ OIE) xếp 
vào hàng đầu trong danh mục A gồm 15 bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho các loài móng 
guốc chẵn: trâu, bò, dê, cừu, heo (Cục thú y, 1993). Năm 2001, một vụ dịch khác xảy ra 
sau hơn 20 năm vắng bóng tại nước Anh, cũng gây thiệt hại cho ngành chăn nuôi và du 
lịch khoảng 2 tỷ USD. Ở nước ta bệnh đầu tiên được phát hiện ở Nha Trang (1898) sau 
đó lang ở cả ba miền. Năm 1995 có 26 tỉnh, thành có bệnh với hàng ngàn ổ dịch (19.883 
trâu, bò và 10.293 heo bệnh, chết 384 trâu bò, 5208 heo _ cục thú y Việt Nam) đã gây tác 
hại lớn đến nền kinh tế cho các trại chăn nuôi (giảm 25% sức sản xuất) và nền kinh tế 
nước ta. Việt Nam là nước trong vùng Châu Á được báo cáo trên bản đồ dịch tể bệnh lở 
mồm long móng thế giới là vùng dịch địa phương (endemic) (Gleeson, 2002). Dịch lở 
mồm long móng đã xảy ra trên trâu bò liên tục suốt thời gian từ 1975-2005, trên lợn 
1992-2005 và gây thiệt hại nặng nề nhất vào các năm 1993, 1995, 1999, 2000. Ngoài typ 
O lưu hành trong nhiều năm qua, typ A cũng đã được phát hiện năm 2004 trên trâu bò và 
Chẩn đoán bệnh lở mồm long móng (FMD) 
Nguyễn Thúy Kiều |   4 
Oct. 30 
typ Asia 1 trên lợn năm 2005 ở Việt Nam. FMD là một bệnh địa phương và các type 
huyết thanh phổ biến là O, Asia 1 và A. Các typ huyết thanh có sự phân bố khác nhau 
trên thế giới. Typ huyết thanh O, A được nhận biết ở nhiều vùng khác nhau trên thế giới. 
Trái lại các type huyết thanh SAT1, SAT2, SAT3 được giới hạn ở một số nước thuộc 
châu Phi. Typ huyết thanh Asia 1 được tìm thấy ở nhiều nước thuộc châu Á. Riêng typ 
huyết thanh C chỉ còn tồn tại một vài nước như Philippine. Trong các ổ dịch, động vật có 
thể mắc bệnh do một hoặc cùng một lúc nhiều typ huyết thanh. Sự biến đổi của các typ 
huyết thanh cũng khá phức tạp, đôi khi còn những điều chưa được hiểu biết rõ. Các 
chủng virus lở mồm long móng biến đổi rất nhiều và do sự phân bố rộng rãi, phức tạp của 
chúng nên thường gặp rất nhiều khó khăn trong việc xác định nguồn gốc lây lan của 
chúng. Chỉ riêng typ O người ta đã các định được 8 nhóm với kiểu di truyền sai khác 
nhau từ 15% trở lên khi so sánh trình tự gene VP1. Virus lở mồm long móng typ A là 
nhóm có tính đa dạng kháng nguyên cao nhất, typ A có đến 32 subtype. Và hiện nay 
người ta cũng chưa thống nhất được với nhau về số lượng kiểu di truyền của virus typ A 
khi giải trình tự gene VP1. Với virus typ C việc giải trình tự gene VP1 cho phép phân 
chúng thành 8 nhóm di truyền. Typ virus Asia 1 có sự đa dạng di truyền ít nhất, chúng 
chỉ có 1 nhóm di truyền. Theo kết quả giải trình tự gene VP1 các typ SAT1 có 3 nhóm, 
SAT2 có 2 nhóm, SAT3 có 3 nhóm di truyền và phân bố theo khu vực địa lý rõ ràng. Ở 
Việt Nam đã xác định có typ O, A, và Asia 1 ở trâu, bò và typ A, O ở heo. 
1.2. Triệu chứng bệnh tích 
 Triệu chứng 
Ở trâu bò và lợn hoặc các loài vật khác, bệnh có chung đặc điểm là sốt đột ngột 2-3 ngày, 
viêm dạng mụn nước rồi lở loét ở miệng, vú, vùng móng chân, nước bọt chảy nhiều như 
Chẩn đoán bệnh lở mồm long móng (FMD) 
Nguyễn Thúy Kiều |   5 
Oct. 30 
bọt bia. Niêm mạc miệng, môi, lợi, chân răng đỏ ửng, khô, nóng. Mụn nước bắt đầu mọc 
ở bên trong má, mép, chân răng, môi, lợi, và bề mặt lưỡi. Kích thước mụn bằng hạt gạo, 
hạt ngô hoặc to hơn. Mụn nước phồng lên, có màng bọc mỏng, bên trong chứa nước 
trong, sau đục dần. Sau 1-2 ngày, mụn nước bị vỡ, lớp niêm mạc tróc ra để lộ mặt dưới 
đỏ, chạm nhẹ vào dễ chảy máu. Mụn nước thường không có mủ. Do viêm vùng miệng, 
con vật có chịu, luôn lúc lắc đầu, nhai tóp tép, nước bọt sùi ra đầy mõm miệng, chảy lòng 
thòng thành sợi dài. 
Do có viêm mụn nước ở vùng vành móng, kẽ móng chân làm con vật khó chịu, tỏ ra đau 
đớn, bồn chồn, luôn nhấc chân lên. Dễ thấy nhất là hiện tượng què, không đi cày kéo 
được trong khoảng 1-2 tuần. Có trường hợp móng chân bị long hẳn ra, phổ biến nhất là ở 
lợn. Triệu chứng què ở cả đàn trâu bò gây ảnh hưởng xấu đối với vùng dựa vào sức kéo 
của chúng, làm lỡ thời vụ gieo trồng, có nơi năng suất lúa bị giảm 20%. 
ở con vật cái đang nuôi con, triệu chứng và bệnh tích ở bầu vú, núm vú cũng tương tự 
như ở miệng và chân làm con vật giảm tiết sữa, sữa bị giảm phẩm chất. Con mẹ thường 
không cho con bú vì đau, làm con non thiếu sữa. Hơn nữa chính con non cũng bị viêm lở 
mồm như mẹ nên không bú được. Hậu quả có tới 50-80% gia súc non bị chết. Ở con vật 
trưởng thành, tỷ lệ mắc bệnh trong đàn có serotyp đều gây bệnh giống nhau. 
Súc vật cái mang thai nhiễm virus lở mồm long móng sẽ sẩy thai. 
Biến chứng: Viên cơ tim ở súc vật non và viêm ruột (bê non, lợn <-2 tháng). 
Chẩn đoán bệnh lở mồm long móng (FMD) 
Nguyễn Thúy Kiều |   6 
Oct. 30 
. 
Hình: Triệu chứng FMD ở trâu, bò và heo 
 Bệnh tích 
Chẩn đoán bệnh lở mồm long móng (FMD) 
Nguyễn Thúy Kiều |   7 
Oct. 30 
Từ miệng tới thực quản, dạ dày, ruột đều có mụn loét với từng mảng xuất huyết hoặc tụ 
máu. Bộ máy hô hấp cũng bị viêm. 
Ở trâu bò hay gặp hiện tượng mặt ngoài cơ tim có những vệt hoại tử màu trắng xen kẽ 
trông giống như da hổ nên gọi là “tim vằn hổ”. 
Bệnh lở mồm long móng ở người: Lây nhiễm bệnh lở mồm long móng ở người khá hiếm 
và nhẹ. Đôi khi gặp ở người hay tiếp xúc với gia súc có bệnh hoặc với virus trong phòng 
thí nghiệm như người chăn nuôi, chăm sóc gia súc, cán bộ thú y, công nhân lò mổ, nhân 
viên phòng thí nghiệm. Đôi khi do uống sữa nhiễm mầm bệnh không tiệt trùng kỹ, hoặc 
qua vết trầy xước trên da. Biểu hiện là có mụn nước nổi trên da ở tay, chân và lưỡi, lợi, 
có cảm giác ngứa ngáy và hơi nóng rát. Mụn nước có thể tự vỡ ra hoặc xẹp đi sau 
1.3. Đường lây truyền và thời gian lây truyền 
 Đường lây bệnh 
Quan trọng là nhiễm virus có trong nước bọt, nước mũi dưới dạng khí dung. Gia súc hít 
phải virus có khi từ khoảng cách hàng chục km nếu thuận chiều gió thổi, có khi tới 250 
km. Điều này giải thích sự lây lan bệnh mạnh và nhanh chóng trong thời gian ngắn trên 
phạm vi nhiều huyện, tỉnh, thậm chí giữa các quốc gia. Sự lây truyền trực tiếp cũng xảy 
ra hoặc gián tiếp qua thức ăn, nước uống, bãi chăn, đồng cỏ, dụng cụ, quần áo, tay chân 
bị nhiễm trùng. ở đây, con người là yếu tố quan trọng làm lây lan bệnh, nhất là khi đưa 
gia súc có bệnh hoặc các sản phẩm của chúng đến nơi khác. Bệnh có thể truyền qua bào 
thai. 
 Thời kỳ ủ bệnh 
Từ 1 – 7 ngày, trung bình 3 – 4 ngày. Trong suốt thời gian từ khi có các triệu chứng đầu 
tiên đến khi khỏi bệnh. Nhiều trâu bò sau khi khỏi bệnh vẫn còn mang trùng và thải trùng 
hàng tháng, có trường hợp tới 3 năm. Lợn có vai trò thải trùng rất lớn, gấp nhiều lần trâu 
Chẩn đoán bệnh lở mồm long móng (FMD) 
Nguyễn Thúy Kiều |   8 
Oct. 30 
bò khi đang có triệu chứng, nhưng sau khi khỏi lâm sàng, lợn vẫn thải virut sau 1-2 
tháng, trâu bò sau khỏi lâm sàng vẫn thải virut 6-24 tháng. Đây là đặc điểm quan trọng 
trong quá trình phòng chống bệnh ở gia súc. Sức đề kháng của mầm bệnh với điều kiện tự 
nhiên và thuốc sát trùng. 
II. NỘI DUNG 
2.1. Giới thiệu về virus gây lở mồng long móng (FMDV) 
Do virus Apthovirus gây ra. Aphthovirus thuộc giống Picornaviridae. Có 7 type huyết 
thanh gồm: A, O, C, SAT1, SAT2, SAT3 và Asia 1 gây bệnh có triệu chứng giống nhau 
nhưng không gây miễn dịch chéo. Các typ O1, O2, O3 …, A1, A2, A3, C1, C2, C3 … 
căn cứ vào sự khác biệt về gen và cấu trúc kháng nguyên. Cấu trúc của FMDV (foot and 
mouth disease virus) là cấu trúc đối xứng khối 20 mặt, gồm 1 sợi RNA mạch đơn chứa 
8500 nucleotide được đóng gói trong một vỏ protein được tạo thành từ 60 capsome, 
không vỏ bọc. Mỗi capsomer gồm 4 loại polypeptide VP (virus protein) ký hiệu 
VP1(1D), VP2 (1C), VP3 (1B), VP4 (1A). 4 loại VP này đều có nguồn gốc từ VP0, VP1 
ở lớp ngoài cùng, là yếu tố cấu trúc, tham gia quá trình cố định virus trên màng tế bào, có 
tính sinh miễn dịch chủ yếu. Người ta đã ứng dụng phát hiện này để điều chế vacxin cho 
hiệu quả cao với VP1 (dẫn liệu của Lê Anh Phụng, 1996; Trần Thanh Phong, 1996). Do 
có đặc điểm của các virus sợi đơn (+) RNA, virus có tính biến dị và truyền nhiễm mạnh. 
Bộ gene gồm vùng không giải mã (UTR: untranslated region) dài 1200base ở đầu 5’ 
(5’UTR) (có vai trò quan trọng trong việc giải mã, độc lực, hình thành capsid), vùng này 
chứa một cấu trúc thứ cấp có thể xoay (clover-leaf secondary structure), và được biết như 
là vị trí để tiến vào bên trong ribosome (IRES: international ribosome entry site) và đầu 
3’ (3’UTR). Phần giải mã protein cấu trúc (1ABCD) và phần giải mã protein không cấu 
trúc (2ABC và 3ABCD). Chỉ thị phần tử sử dụng nhiều nhất trong định typ và nghiên cứu 
phả hệ virus lở mồm long móng là 5’UTR và VP1. Cả hai đầu của bộ gene có thể được 
Chẩn đoán bệnh lở mồm long móng (FMD) 
Nguyễn Thúy Kiều |   9 
Oct. 30 
thay đổi, đầu 5’ tận cùng bởi VPg (genome-linked protein) (khoảng 23 acid amin), đầu 3’ 
bởi chuổi dài adenyl (King, 2000). 
Hình: genome FMDV 
Toàn bộ genome của FMDV mã hóa cho một protein đơn. Sau khi dịch mã, protein này 
phân cắ thành 4 sản phẩm sơ cấp: Amino terminal L protease, phân cắt ở đầu cuối 
carboxyl , P1-2A, tiền chất của protein vỏ, sẽ trải qua giai đoạn polyprotein sau dịch mã 
với sự tham gia của các protease virus để tạo thành 1 protomer. Hạt virus hình thành từ 
từng đơn vị protomer (hay đơn vị capsid). Từ đơn vị căn bản này, 5 protomer hợp thành 1 
5' UTR L VP4 VP2VP3VP12A2B2C3A3B13B23B33C3D3' UTR
VP1: xanh dương 
VP2: xanh lá cây 
VP3: đỏ 
VP4: vàng 
Chẩn đoán bệnh lở mồm long móng (FMD) 
Nguyễn Thúy Kiều |   10 
Oct. 30 
pentamer, 12 pentamer liên kết nhau theo cấu trúc khối đối xứng gồm 3 trục để hình 
thành 1 sợi RNA, đó là 1 virus. 
Hình: Cấu trúc của FMDV. Có 
3 loại protein bề mặt là VP1, 
VP2, VP3. Mỗi protein hiện 
diện với dạng hình thang trên bề 
mặt. Ba loại protein này nhóm 
lại tạo thành 1 đơn vị cấu trúc 
được chỉ ở bên trái. 
Chẩn đoán bệnh lở mồm long móng (FMD) 
Nguyễn Thúy Kiều |   11 
Oct. 30 
Vỏ protein ngoài của virus được 
tạo thành từ 60 bản copy của 
mỗi loại protein 1A (VP4), 1B 
(VP2), 1C (VP3), và 1D (VP1). 
4 loại protein này lắp ráp thành 
một đơn vị thay thế protein 
(protein sub-unit) hay một 
protomer. 5 protomer kết hợp 
thành 1 pentamer. 12 pentamer 
đóng gói vào sợi RNA và tạo 
thành hạt virus. 
Hình: cấu trúc FMDV 
Chẩn đoán bệnh lở mồm long móng (FMD) 
Nguyễn Thúy Kiều |   12 
Oct. 30 
Thành phần hệ gene của virus luôn biến đổi ngay cả trong một serotyp, các chủng phân 
lập ở các vùng địa lý khác nhau có mức độ tương đồng về thành phần nucleotide và acid 
amin cũng khác nhau (Feng và ctv, 2004). 
 Sức đề kháng 
Tương đối mạnh, chịu lạnh, chịu khô đến 14 ngày (mùa hè), 6 tháng (mùa đông). Trong 
đất từ 3-28 ngày. Trong nước tiểu virus tồn tại 39 ngày. Virus bền vững ở pH 7,2 và 7,6 
nhưng rất mẫn cảm với pH 11. Ở 40C virus có thể sống sót 1 năm, nhưng khi 
nhiệt độ tăng lên thì thời gian sống sót còn 8-10 tuần ở 280C, 10 ngày ở 370C và ít hơn 30 
phút ở 500C. Đun nóng 700C, chết sau 15 phút, 1000C chết ngay. Trong tủ lạnh sống được 
425 ngày, trong cỏ khô sống được 8-15 tuần. Trong đất ẩm virut sống hàng năm. Xút 1% 
Chẩn đoán bệnh lở mồm long móng (FMD) 
Nguyễn Thúy Kiều |   13 
Oct. 30 
diệt virus sau 10 phút, Formol 2% - 6 giờ. 
Virus trong không khí còn sống tốt nhất ở ẩm độ tương đối RH > 60%. 
2.2. Các phương pháp chẩn đoán 
Các kỹ thuật phân tích khác nhau đã được sử dụng để phát hiện acid nucleic của virus, 
kháng nguyên và sự đáp ứng miễn dịch của vật chủ gồm: kết hợp bổ thể (complement 
fixation test_CFT), trung hòa virus (virus neutralization), ELISA (enzyme_linked 
immunosorbent assay), RT_PCR (reverse transcriptase polymerase chain reaction), xác 
định trình tự chuổi acid nucleic (nucleic acid sequence_based amplification, NASBA) 
(Anonymous, 2000; Collins và ctv, 2002; Feng và ctv, 2003). 
 Kết hợp bổ thể: dùng kháng thể chuẩn để phát hiện serotype virus O, A, C trong 
bệnh phẩm. Phản ứng nhanh chỉ trong 12 giờ, đơn giản giúp khẳng định hoặc loại 
trừ nghi ngờ bệnh lở mồm long móng (FMD). Phản ứng này cũng đã được hoàn 
thiện và nếu sử dụng thành thục sẽ là một phương pháp hữu hiệu để chẩn đoán 
phân biệt giữa virus lở mồm long móng và các virus gây viêm mụn nước khác. 
 Trung hòa virus: phát hiện qua xét nghiệm mẫu bằng phản ứng trung hòa virus dựa 
trên khả năng bắt cặp đặc hiệu của kháng thể kháng virus (nếu có) trong mẫu bệnh 
phẩm với virus lở mồm long móng. Đây là phản ứng được dùng làm thí nghiệm 
kiểm chứng do có tính đặc hiệu cao nhưng phản ứng này không phân biệt được 
kháng thể có được là do tiêm phòng hay nhiễm bệnh. Phương pháp này sử dụng 
dòng tế bào mẫn cảm BHK-21, hoặc tế bào sơ cấp của thận heo, cừu. Kháng thể 
trung hòa được phát hiện sau 4-5 ngày bệnh. 
 ELISA: được dùng phát hiện kháng nguyên và kháng thể virus trong vòng 3-4 giờ, 
không phụ thuộc môi trường mô, đặc hiệu nhanh, ít (+) tính giả. Hiện bộ kit chẩn 
đoán đang được sử dụng tại Việt Nam gồm bộ kháng thể chuẩn để phát hiện 4 
Chẩn đoán bệnh lở mồm long móng (FMD) 
Nguyễn Thúy Kiều |   14 
Oct. 30 
serotyp kháng nguyên O, A, C, Asia 1, và bộ kháng nguyên chuẩn để chẩn đoán 3 
serotyp O, A, C. Phương pháp này chẩn đoán nhanh, đặc hiệu và độ nhạy cao, 
được dùng trong giám định serotype của virus, thay thế phương pháp kết hợp bổ 
thể. Có thể đây là 1 kỹ thuật huyết thanh học nhạy nhất với mục đích chẩn đoán và 
xác định typ. 
Cả hai phương pháp trung hòa virus và ELISA cạnh tranh trong pha lỏng đều phát hiện 
kháng thể kháng protein cấu trúc, protein vỏ của virus nhưng không phân biệt được đó là 
kháng thể của động vật đã tiêm vacxin hay do nhiễm virus. 
Virus lở mồm long móng (FMDV) khi xâm nhiễm vào tế bào vật chủ sẽ dịch mã để tạo 
nên các protein cấu trúc và protein không cấu trúc. Các protein không cấu trúc liên quan 
đến hoạt động của virus và biến đổi chức năng tế bào vật chủ. Một số protein không cấu 
trúc gây đáp ứng miễn dịch và tạo ra các kháng thể đặc hiệu với chúng. Vacxin chỉ chứa 
hạt virus tinh sạch với dung dịch đệm và chất bổ trợ nên đáp ứng miễn dịch với vacxin 
chỉ tạo ra kháng thể kháng protein cấu trúc của virus. Trong trường hợp vacxin không 
tinh sạch bị nhiễm protein không cấu trúc, cũng xảy ra một đáp ứng miễn dịch yếu và 
ngắn ngủi đối với loại protein này, vì hàm lượng chúng rất thấp. Do đó nếu phát hiện 
kháng thể kháng protein không cấu trúc ta có thể kết luận con vật bị nhiễm virus lở mồm 
long móng (FMDV) chứ không phải do vacxin. 
Một số protein không cấu trúc của virus gây đáp ứng miễn dịch: 3D, 3A/3AB/3ABC, 2C, 
2B, 3C và Lpro. Trong thời gian gần đây một số protein không cấu trúc 2C, 3B, 3AB, 
3ABC đã được nghiên cứu và nhiều phương pháp có độ nhạy cao đã được phát triển. 
 RT_PCR: để xác định gia súc nhiễm bệnh đồng thời xác định typ virus gây bệnh 
FMD dai dẳng ở thực địa thì kỹ thuật PCR rất nhạy, nhanh, chính xác, hiệu quả sẽ 
Chẩn đoán bệnh lở mồm long móng (FMD) 
Nguyễn Thúy Kiều |   15 
Oct. 30 
cần thiết và được xem như là phương pháp bổ sung hay thay thế cho phương pháp 
huyết thanh học. 
Phương pháp kết hợp bổ thể, phương pháp ELISA mới chỉ dừng lại ở việc trả lời câu hỏi 
type gây bệnh thuộc loại gì. Phương pháp RT- PCR không dừng lại ở đó, chúng còn có 
thể phân biệt được sự khác biệt biến chủng có trong bệnh phẩm đã xác định có cùng một 
type huyết thanh, thông qua việc định chuỗi các sản phẩm PCR và so sánh trình tự đoạn 
DNA với các trình tự DNA khác của virus lở mồm long móng được chứa sẵn trong ngân 
hàng dữ liệu gen. 
9 Ưu điểm của RT-PCR 
Những mẫu huyết thanh dương tính từ mẫu máu thu nhận có biểu hiện lâm sàn đối với 
virus thì không đủ cơ sở cho việc chẩn đoán virus. Có thể đó chính là sự hiện diện của 
kháng thể mẹ truyền cho con. Vì thế việc dùng kỹ thuật PCR để xác định chính xác sự 
hiện diện của FMDV. Dùng kỹ thuật PCR không cần phân lập virus trong môi trường 
nuôi cấy tế bào. Vì thế PCR sẽ tốn ít thời gian để phát hiện hơn so với phương pháp nuôi 
cấy tế bào. PCR còn được coi là phương pháp có độ nhạy và độ đặc hiệu cao. 
Thông thường thời gian chẩn đoán bệnh phải mất trên 10 giờ đồng hồ đối với kỹ thuật soi 
bằng mắt, 5- 6 giờ đối với kỹ thuật ELISA (kỹ thuật này độ nhạy còn kém và chi phí khá 
cao). Áp dụng kỹ thuật RT- PCR vào chẩn đoán thời gian đã được rút ngắn xuống còn 4- 
5 giờ với độ chính xác cao, an toàn. TS Tô Long Thành cho biết: "Bình thường để biết 
con vật có mắc bệnh hay không, chúng ta phải đợi đến khi chúng phát bệnh ra ngoài với 
các hiện tượng chảy nước bọt ở mồm, mũi hay nứt toác móng chân. Kỹ thuật RT- PCR 
cho phép phát hiện bệnh ngay trong giai đoạn đầu tiên". 
Chẩn đoán bệnh lở mồm long móng (FMD) 
Nguyễn Thúy Kiều |   16 
Oct. 30 
Sở dĩ RT- PCR nhận biết được bệnh nhanh như vậy vì nhờ việc kết hợp PCR với cặp mồi 
1F/1R khả năng xác định các type O, A, C và ASIA- 1 gây bệnh của virus lở mồm long 
móng diễn ra rất nhanh. Theo TS. Tô Long Thành, khi tiến hành dùng RT- PCR nhất thiết 
phải làm trên 14 m