Lãi suất là một yếu tố rất nhạy cảm đối với nền kinh tế của các nước. Ở Việt Nam Ngân hàng
Nhà nước đã rất linh hoạt trong việc sử dụng công cụ lãi suất nhắm tác động tích cực đến nền
kinh tế trong quá trình chuyển đổi. Sau những thất bại kinh tế giai đoạn từ năm 1998 đến
trước năm 2004, việc hạ lãi suất để kíc h thích đầu tư cũng hầu như không có hiệu quả. Cho
đến năm 2004, sau những nỗ lực vực dậy nền kinh tế Việt Nam đã bắt đầu có những bước
phục hồi tạo cơ sở cho việc tiếp tục phát triển, đổi mới hệ thống tài chính, cải cách chính sách
lãi suất.
Hiện nay, chúng ta đã nhận thức rõ tầm quan trpjng của công cụ lãi suất trong nền kinh tế, tác
động và ảnh hưởng của nó đến sự phát triển kinh tế trong bối cảnh đất nước đang tham gia
ngày càng xâu rộng hơn và liên kết khu vực và hội nhập quốc tế. Với đề tài “Chính sách lãi
suất và tác động của chính sách lãi suất đến nền kinh tế thị trường giai đoạn từ năm 2000
đến nay tại Việt Nam” nhằm nghiên cứu sâu hơn về lãi suất và chiều hướng diễn biến của nó.
Những thực trạng và tác động của nó đến nền kinh tế, để từ đó cố gắng đưa ra những giải
pháp và những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong công cuộc phát triển hệ thống tài
chính nói chung và cải cách chính sách lãi suất nói riêng.
Nội dung đề tài gồm ba phần:
Chương I: Những vấn đề cơ bản về lãi suất và chính sách lãi suất.
Chương II: Sự ảnh hưởng của chính sách lãi suất đến nền kinh tế thị trường tại Việt Nam giai
đoạn từ năm 2000 đến nay.
Chương III: Giải pháp để hoàn thiện chính sách lãi suất trong thời gian sắp tới.
31 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 5136 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chính sách lãi suất và tác động của chính sách lãi suất đến nền kinh tế thị trường giai đoạn từ năm 2000 đến nay tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Chính sách lãi suất và tác động của
chính sách lãi suất đến nền kinh tế
thị trường giai đoạn từ năm 2000
đến nay tại Việt Nam
LỜI MỞ ĐẦU
Lãi suất là một yếu tố rất nhạy cảm đối với nền kinh tế của các nước. Ở Việt Nam Ngân hàng
Nhà nước đã rất linh hoạt trong việc sử dụng công cụ lãi suất nhắm tác động tích cực đến nền
kinh tế trong quá trình chuyển đổi. Sau những thất bại kinh tế giai đoạn từ năm 1998 đến
trước năm 2004, việc hạ lãi suất để kích thích đầu tư cũng hầu như không có hiệu quả. Cho
đến năm 2004, sau những nỗ lực vực dậy nền kinh tế Việt Nam đã bắt đầu có những bước
phục hồi tạo cơ sở cho việc tiếp tục phát triển, đổi mới hệ thống tài chính, cải cách chính sách
lãi suất.
Hiện nay, chúng ta đã nhận thức rõ tầm quan trpjng của công cụ lãi suất trong nền kinh tế, tác
động và ảnh hưởng của nó đến sự phát triển kinh tế trong bối cảnh đất nước đang tham gia
ngày càng xâu rộng hơn và liên kết khu vực và hội nhập quốc tế. Với đề tài “Chính sách lãi
suất và tác động của chính sách lãi suất đến nền kinh tế thị trường giai đoạn từ năm 2000
đến nay tại Việt Nam” nhằm nghiên cứu sâu hơn về lãi suất và chiều hướng diễn biến của nó.
Những thực trạng và tác động của nó đến nền kinh tế, để từ đó cố gắng đưa ra những giải
pháp và những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong công cuộc phát triển hệ thống tài
chính nói chung và cải cách chính sách lãi suất nói riêng.
Nội dung đề tài gồm ba phần:
Chương I: Những vấn đề cơ bản về lãi suất và chính sách lãi suất.
Chương II: Sự ảnh hưởng của chính sách lãi suất đến nền kinh tế thị trường tại Việt Nam giai
đoạn từ năm 2000 đến nay.
Chương III: Giải pháp để hoàn thiện chính sách lãi suất trong thời gian sắp tới.
CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT VÀ TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT ĐẾN
NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
GIAI ĐOẠN TỪ NĂM 2000 ĐẾN NAY TẠI VIỆT NAM
CHƯƠNG I.
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LÃI SUẤT VÀ CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT
I. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA LÃI SUẤT
1. Khái niệm:
Lãi suất bắt đầu suất hiện từ khi quan hệ mua bán, trao đổi hàng hoá bắt đầu hình thành. Lãi
suất là một trong những biến số được theo dõi một cách chặt chẽ nhất trong nền kinh tế. Diễn
biến của nó được đưa tin hầu như hàng ngày trên báo chí, vì trực tiếp ảnh hướng đến đới sống
hàng ngày của mỗi người chúng ta. Lãi suất (hay lãi suất tín dụng) là một công cụ kinh tế cực
kỳ quan trọng và nhạy cảm đối với mọi nền kinh tế, nó đóng vai trò quan trọng đặc biệt khi
nền kinh tế ngày càng phát triển, đó là vai trò ổn định và góp phần hoàn thiện chính sách tiền
tệ tạo ra sự kích thích cần thiết để phát triển nền kinh tế mỗi quốc gia và toàn thế giới.
Đã có rất nhiều quan điểm khác nhau khi đưa ra khái niệm về lãi suất. Lãi suất được hiểu theo
một nghĩa chung nhất là giá cả của tín dụng – giá cả của quan hệ vay mượn hoặc cho thuê
những dịch vụ về vốn dưới hình thức tiền tệ hoặc các dạng thức tài sản khác nhau. Khi đến
hạn, người đi vay sẽ phải trả cho người cho vay một khản tiền dôi ra ngoài số tiền vốn gọi là
tiền lãi. Tỷ lệ phần trăm của số tiền lãi trên số tiền vốn gọi là lãi suất. Theo Sammuelson:
“Lãi suất là giá của người đi vay phải trả cho người cho vay để sử dụng một khoản tiền
trong một khoản thời gian xác định”.
2. Đặc điểm:
Tính cạnh tranh: Lãi suất huy động vốn hình thành trên cơ sở cạnh tranh giữa các Ngân
hàng thương mại(NHTM), Tổ chức tín dụng(TCTD)… Tính cạnh tranh của lãi suất càng được
thể hiện rõ khi hệ thống các tổ chức tham gia và cung cấp tín dụng ngày càng nhiều. Mức lãi
suất phải hấp dẫn thì mới thu hút được khách hàng tham gia. Do vậy, mỗi NHTM, TCTD
muốn phát triển được hệ thống của mình đều phải đưa ra được một mức lãi suất có khả năng
cạnh tranh đối với các NHTM, TCTD khác nhằm lôi kéo khách hàng về phía mình.
Tính linh hoạt: Lãi suất tín dụng hình thành một cách linh hoạt, nhạy bén, thích ứng với mọi
hoàn cảnh, đối tượng. Sự thay đổi thường xuyên của chính sách tín dụng phù hợp với sự biến
đổi của cung, cầu về vốn vay, tỷ lệ lạm phát, thu chi Ngân sách Nhà nước, yếu tố tâm lý của
người đi vay và người cho vay trên thị trường tài chính.
II. CÁC LOẠI HÌNH LÃI SUẤT VÀ CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT
1. Các loại hình lãi suất:
Lãi suất có thể có nhiều cách phân chia khác nhau như phân loại theo nội tệ và ngoại tệ, phân
theo nghiệp vụ kinh doanh của các TCTD, phân loại theo thời gian hay phân loại theo nội
dung kinh tế...Ở đây, ta chia lãi suất trên thị trường theo các nhân tố tác động thành 2 nhóm:
Lãi suất thị trường tự do, thay đổi do ảnh hưởng của quan hệ cung - cầu trên thị
trường: Bao gồm lãi suất các loại tín phiếu kho bạc, tiền gửi, chứng chỉ tiển gửi (L/C), lãi
suất trên thị trường liên Ngân hàng, lãi suất của các khoản tín dụng ngắn hạn của các NHTM
cho các doanh nghiệp vay, là mức lãi suất cao nhất trên thị trường tiền tệ, lãi suất của các
NHTM lớn áp dụng cho các doanh nghiệp có uy tín là mức lãi suất thấp nhất trên thị trường
này và thường gọi là lãi suất cho vay cơ bản(Prime Rate Bank Loans).
Lãi suất do Ngân hàng Nhà nước công bố: Được xác định dựa trên quan hệ cung cầu vốn
trên thị trường tiền tệ do Ngân hàng Nhà nước xác định tuỳ thuộc vào mục tiêu chính sách
tiền tệ, chính sách kinh tế vĩ mô… Bao gồm: lãi suất chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất
cho vay qua đêm, lãi suất định hướng trên thị trường liên Ngân hàng, lãi suất nghiệp vụ thị
trường mở…
2. Các loại chính sách lãi suất:
Chính sách lãi suất trần: Chính sách lãi suất trần là chính sách chỉ ấn định lãi suất cho vay
tối đa. Chính sách này khuyến khích việc huy động vốn và tăng khả năng kiểm soát của chính
phủ. Chính phủ đưa ra một mức lãi suất nhất định và áp đặt chung cho toàn bộ hệ thống Ngân
hàng và cho toàn bộ nền kinh tế.
Chính sách lãi suất cố định: Lãi suất cố định là lãi suất mà Ngân hàng Nhà nước khống chế
NHTM cả về lãi suất huy động và lãi suất cho vay. Theo chính sách này thì sẽ không có sự
cạnh tranh về lãi suất trên thị trường tài chính tín dụng và do đó không thúc đẩy sự phát triển
kinh tế.
Chính sách lãi suất tự do: Chính sách tự do hóa lãi suất là chính sách mà chính phủ sẽ can
thiệp khi mức lãi suất vượt quá mức lãi suất chung.Lãi suất tăng giảm hoàn toàn do những
biến đổi trong cung và cầu về vốn vay trên thị trường.Tuy nhiên, nó chỉ thực hiện được trong
môi trường cạnh tranh hoàn hảo. Như Việt Nam thì hiện tại chúng ta đang sử dụng chính sách
lãi suất thoả thuận.
Các TCTD được sử dụng cơ chế lãi suất thoả thuận trong hoạt động thương mại, thay thế cơ
chế điều hành lãi suất cơ bản bằng VNĐ. Về dài hạn thì việc xoá bỏ “trần” lãi suất cho vay
khiến các TCTD có thể mở rộng phương thức huy động vốn, cho vay và huy động với mức lãi
suất phù hợp với cung cầu trên thị trường tín dụng. Điều này đặc biệt có lợi đối với các tổ
chức kinh tế và người sản xuất ở khu vực nông thôn, nhất là trong bối cảnh tăng trưởng tín
dụng đang nhanh hơn nhiều so với tăng trưởng huy động vốn. Theo như NHNN, cơ chế lãi
suất này sẽ tạo ra điều kiện thuận lợi cho công cuộc cải cách hệ thống Ngân hàng theo định
hướng thị trường. Theo đó sẽ xoá bỏ những “dị biệt” trong hệ thống Ngân hàng Việt Nam để
dần tiến tới hội nhập thị trường tín dụng Quốc tế.
Chính sách lãi suất ưu đãi: Chính sách lãi suất ưu đãi là chính sách dành cho một số đối
tượng đặc biệt như người nghèo, gia đình chính sách...với lãi suất thấp. Việc thực hiện chính
sách này làm người đi vay không hoặc ít chú ý đến hiệu quả dẫn đến việc dùng vốn đổ vào
những dự án không mấy hiệu quả.Điều đó không giúp tăng trưởng vốn và phần lớn chính sách
này lấy từ Ngân sách nhà nước.Các đối tượng được vay vốn với lãi suất ưu đãi thường là
những hộ nghèo,các khu vực ở vùng sâu vùng xa, hải đảo, miền núi... Việc vay vốn với lãi
suất ưu đãi tuy tạo điều kiện cho người vay, nhưng lại hạn chế phát triển thị trường vốn vay.
III. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI LÃI SUẤT
Trong các nền kinh tế thị trường, nhà nhà nước chỉ đóng vai trò là người điều tiết vĩ mô, thị
trường tài chính và các tổ chức tài chính trung gian. Các nước có nền kinh tế thị trường chủ
yếu theo đuổi chính sách tự do hoá tài chính, do vậy cơ chế hình thành lãi suất chủ yếu dựa
trên cơ chế thị trường. Đó là sự thay đổi về cung-cầu của vốn vay ảnh hưởng tới sự hình thành
và biến đổi lãi suất trên thị trường.
Cung về vốn vay bắt nguồn từ những người có thu nhập dôi ra mà họ muốn tiết kiệm và cho
vay kiếm lời, qua đó cho thấy rằng tiết kiệm là nguồn cung về vốn vay. Còn cầu về vốn vay
bắt nguồn từ các hộ gia đình và các doanh nghiệp muốn vay tiền để đầu tư, mua nhà đất hay
xây dựng nhà máy...Như vậy, đầu tư là nguồn gốc làm phát sinh nhu cầu về vốn vay.
Trên thị trường có rất nhiều tác nhân ảnh hưởng đến sự thay đổi về cung và cầu vốn vay, dưới
dây ta chỉ phân tích những tác nhân có ảnh hưởng quan trọng đến đường cung và đường cầu
về vốn vay, qua đó tác động đến lãi suất.
1. Mức lạm phát kỳ vọng
Khi mức lạm phát được dự đoán sẽ tăng lên trong một thời kỳ nào đó, lãi suất sẽ có xu hướng
tăng.
Ta thấy rằng : Lãi suất danh nghĩa = Lãi suất thực tế + Tỷ lệ lạm phát
Do đó, để duy trì lãi suất thực tế không giảm, khi tỷ lệ lạm phát tăng thì lãi suất danh nghĩa
cũng phải tăng lên tương ứng.
Bên cạnh đó, khi lạm phát tăng, công chúng sẽ chuyển phần tiết kiệm của mình sang dự trữ
hàng hóa hoặc các dạnh thức tài sản phi tài chính khác như vàng, ngoại tệ mạnh hơn là cho
vay. Điều đó làm giảm cung về vốn vay, qua đó làm dịch chuyển đường cung sang trái và làm
lãi suất tăng lên.
Ngược lại, ta thấy rằng, nếu lạm phát dự tính có xu hướng giảm thì sẽ làm cho lãi suất giảm
xuống.
2. Đầu tư
Đầu tư là nhân tố tác động trực tiếp đến lượng cầu về vốn vay. Khi Nhà nước có các chính
sách khuyến khích về đầu tư, ví dụ như nhà nước giảm thuế lợi tức công ty, nó có khuyến
khích doanh nghiệp vay tiền và đầu tư nhiều hơn vào tư bản mới. Qua đó làm thay đổi đầu tư
tại mọi mức lãi suất và làm thay đổi đến cầu về vốn vay. Nhu cầu vay vốn tăng lên, đường cầu
về vốn vay dịch chuyển sang bên phải và làm cho lãi suất tăng lên. Ngược lại, các chính sách
của chính phủ làm kìm hãm đầu tư sẽ là nhân tố làm giảm lãi suất.
3. Thuế thu nhập
Thuế thu nhập luôn tác động đến lãi suất giống như khi thuế tác động đến giá cả hàng hóa.
Thông thường người ta quan tâm nhiều đến lợi nhuận sau thuế hơn là thu nhập danh nghĩa.
Nên khi thuế thu nhập tăng lên, nó làm giảm đi một phần thu nhập của những cá nhân và tổ
chức cung cấp dịch vụ tín dụng hay những người tham gia chứng khoán. Nghĩa là khi thuế thu
nhập tăng, phần tiết kiệm của các cá nhân và tổ chức sẽ giảm đi, do đó lượng tiền cho vay trên
thị trường sẽ giảm đi. Qua đó làm giảm cung về vốn vay, đường cung vốn vay dịch chuyển
sang trái, lãi suất tăng lên. Ngược lại, khi thuế thu nhập giảm đi sẽ là nhân tố làm giảm lãi
suất.
4. Ngân sách của chính phủ
Ta biết rằng :
Tiết kiệm quốc dân = Tiết kiệm tư nhân + Tiết kiệm Chính phủ.
Khi Chính phủ chi tiêu nhiều hơn thu nhập từ thuế, tình trạng thâm hụt ngân sách làm giảm
tiết kiệm quốc dân, cung về vốn vay giảm, đường cung vốn vay dịch chuyển sang trái và làm
tăng lãi suất cân bằng. Bên cạnh đó, Chính phủ bội chi ngân sách như vậy sẽ tác động đến tâm
lý dân chúng về sự gia tăng của lạm phát và nó sẽ gây sức ép làm tăng lãi suất.
5. Các yếu tó khác của đời sống xã hội
Ngoài những yếu tố trên, sự thay đổi của lãi suất trên thị trường còn chịu ảnh hưởng của nhiều
yếu tố về đời sống xã hội khác như: sự đa dạng của các công cụ tài chính, sự thay đổi trong cơ
cấu chứng khoán, sự phát triển của các thể chế tài chính trung gian, hiệu suất sử dụng vốn
trong các thời kỳ khác nhau do những thay đổi trong công nghệ và sự phát triển mang tính chu
kỳ của nền kinh tế, và cả các biến động về kinh tế, chính trị,... cũng ít nhiều ảnh hưởng đến lãi
suất.
IV. VAI TRÒ CỦA LÃI SUẤT ĐỐI VỚI NÊN KINH TẾ
Lãi suất là một trong những biến số được quan tâm chặt chẽ nhất trong nền kinh tế,bởi lãi suất
không chỉ ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống của mỗi chúng ta mà còn là một chỉ số đo lường
sức khỏe của nền kinh tế. Có thể khái quát vai trò của lãi suất qua 2 nội dung là vai trò vĩ mô
và vai trò vi mô:
1. Vai trò Vĩ mô:
Đối với Ngân hàng Nhà nước thì lãi suất là công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô. Sự biến động của
lãi suất trong quá trình điều chỉnh của Ngân hàng Nhà nước tác động đến nhiều mặt của nền
kinh tế như đầu tư,tiêu dùng ,tiết kiệm,tỷ giá…qua đó ảnh hưởng trực tiếp đến các mục tiêu
kinh tế vĩ mô của đất nước.
Trong nền kinh tế thị trường, người tiêu dùng và các doanh nghiệp có thể tiến hành bất cứ
việc gì nếu họ muốn trong khuôn khổ pháp luật,miễn là họ có phương tiện thanh toán.Vì vậy
bằng cách kiểm soát giá bán và mua quyền sử dụng tiền tức lãi suất, Ngân hàng Nhà nước ở
bất kì quốc gia nào cũng có thể chi phối dược sự tăng trưởng nền kinh tế. Bằng cách tăng lãi
suất, Ngân hàng Nhà nước có thể làm yếu đi khả năng cho vay của các Ngân hàng thương mại
và do đó thực hiện chính sách tiền tệ, giảm bớt khối lượng tiền cần thiết cho việc mở rộng sản
xuất kinh doanh và chi tiêu của người tiêu dùng. Cũng như vậy, bằng cách sử dụng lãi suất,
Ngân hàng Nhà nước có thể tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển. Hoặc muốn kìm hãm tốc
độ phát triển hay đẩy mạnh phát triển một ngành nào đó,Ngân hàng Nhà nước có thể tăng
hoặc giảm lãi suất cho vay để thu hẹp hay mở rộng đầu tư ở ngành này.
Bên cạnh vai trò hướng dẫn điều hành nền kinh tế, lãi suất tín dụng còn đóng vai trò tích cực
trong kìm chế lạm phát. Tháng 3 năm 1989, Việt Nam chủ trương áp dụng chế độ siêu lãi suất
tiền gửi đã nhanh chóng đem lại kết quả là chặn đứng lạm phát: từ 7% trong tháng 1; 9,2%
trong tháng 2 đã giảm xuống 4,5% trong tháng 3; 3,5% trong tháng 4 và tiếp tục giảm trong
những tháng sau. Điều này khẳng định sức mạnh của công cụ lãi suất trong điều tiết nền kinh
tế ở tầm vĩ mô dù có gây nên hiệu ứng tiêu cực đến hoạt động kinh tế. Từ năm 1989 đến nay,
chính sách lãi suất luôn được sử dụng để điều chỉnh nền kinh tế ở Việt Nam. Sau khi đã kiềm
chế và giữ được lạm phát ở mức độ ổn định, Ngân hàng Nhà nước đang thực hiện hạ thấp dần
khung lãi suất để khuyến khích hoạt động đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh,khôi phục kinh
tế.
Có thể nói chính sách lãi suất là một bộ phận của chính sách tiền tệ của nhà nước nhằm điều
hòa lưu thông tiền tệ, kích thích, điều tiết và hướng dẫn sản suất kinh doanh của các đơn vị
kinh tế. Lãi suất cho vay được sử dụng để mở rộng cung ứng tiền tệ, thu hẹp đầu tư và kiềm
chế lạm phát.
Thực hiện vai trò đòn bẩy kinh tế, lãi suất sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với mục tiêu kinh
tế ở những giai đoạn khác nhau. Những ưu đãi về lãi suất, về điều kiện cung ứng tín dụng và
thanh toán là công cụ của nhà nước nhằm khuyến khích các doanh nghiệp vào các loại sản
phẩm cần ưu tiên trong chiến lược phát triển kinh tế. Điều này có ý nghĩa quan trọng đối với
các nước chậm phát triển muốn có những bước nhảy vọt để đi ngay vào công nghệ hiện đại
trong thời đại hiện nay. Như vậy, có thể coi lãi suất là công cụ trực tiếp của chính sác tiền tệ.
Nó ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến khối lượng tiền cung ứng trong lưu thông, từ đó đạt
được các mục tiêu của chính sách tiền tệ. Một sự điều chỉnh trong cơ chế điều hành lãi suất sẽ
tác động đến lượng tiền trong lưu thông, đặc biệt là lượng tiền cung ứng của các ngân hàng
vào lưu thông vì lãi suất ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận kinh doanh của các ngân
hàng.Việc mở rộng khung lãi suất, hoặc tăng trần lãi suất đối với cơ chế điều hành lãi suất cũ
hoặc tăng lãi suất cơ bản trong cơ chế điều hành lãi suất mới đều có tác dụng làm tăng lượng
tiền trong lưu thông và ngược lại.
Một tác động khác của lãi suất đó là ảnh hưởng của nó tới đầu tư,tiết kiệm. Có nhiều ý kiến
khác nhau về tác động của lãi suất đến sự hình thành tiết kiệm, nhưng hầu hết các nhà kinh tế
đều cho rằng mức lãi suất có tác động đến quy mô tiết kiệm của nhân dân. Nếu lãi suất thực tế
càng cao thì số tiền gửi vào ngân hàng càng lớn.Việc này sẽ tác động đến quy mô mua sắm tài
sản của nhân dân. Khi lãi suất dương,nó sẽ kích thích người dân gửi tiết kiệm tại ngân hàng vì
nó có khả năng sinh lời cao và an toàn hơn việc tích trữ tài sản, nhờ đó nguồn vốn nói chung
của ngân hàng tăng lên và khối lượng tiền tệ phục vụ cho nền kinh tế quốc dân cũng tăng lên,
ảnh hưởng của lãi suất thực tế dương đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiết kiệm tài chính.
Tóm lại, lãi suất tác có tác động đến nhiều mặt đến nền kinh tế, đến sự phát triển và tăng
trưởng kinh tế. Một chính sách lãi suất hợp lý sẽ vừa là điều kiện thu hút các khoản vốn nhàn
rỗi, vừa để thúc đẩy đầu tư trong nền kinh tế, giúp cho nền kinh tế tăng trưởng ổn định.
2. Vai trò vi mô
Lãi suất là yếu tố thúc đẩy kinh doanh có hiệu quả của các doanh nghiệp, bù đắp chi phí và
đem lại lợi nhuận cho Ngân hàng: Doanh nghiệp vay vốn của ngân hàng phải hoàn trả đúng kì
hạn cả vốn lẫn lãi.Vì vậy, muốn đảm bảo có nguồn vốn trả nợ, doanh nghiệp phải quan tâm
thực sự đến kết quả sản xuất kinh doanh của mình. Nếu hoàn trả nợ không đúng kì hạn, lãi
suất quá hạn cao hơn lãi suất đúng hạn (bằng 1,5 lần lãi suất đúng hạn) điều này thúc đẩy các
doanh nghiệp phải cố gắng kinh doanh tốt, đảm bảo khả năng trả nợ đúng hạn. Hoạt động tài
chính của ngân hàng kinh doanh và TCTD là huy động vốn để cho vay. Khi huy động vốn,
ngân hàng phải trả lãi cho người gửi, khi cho vay sẽ thu lãi của người vay. Ngân hàng phải
tính toán mức lãi suất cho vay và đi vay hợp lý để bù đắp các khoản chi phí nghiệp vụ và có
lợi nhuận cho mình.
Mặt khác, lãi suất chính là công cụ để cạnh tranh giữa các TCTD.Thời gian gần đây, Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam chỉ khống chế “trần” tối đa về lãi suất cho vay và mức độ chênh
lệch giữa lãi suất tiền gửi và lãi suất tiền vay nhằm đảm bảo các lợi ích cho người gửi, người
vay và ngân hàng kinh doanh có khả năng bù đắp chi phí và một phần rủi ro nếu có. Trong
kinh tế thị trường, do yêu cầu của quy luật cạnh tranh, mọi thành phần kinh tế đều có sự cạnh
tranh quyết liệt vì sản phẩm tiêu thụ, giá bán, phương thức phục vụ, dịch vụ bán hàng….
Đứng vững được trong quá trình cạnh tranh đó là điều khồng đơn giản. Với phương châm “đi
vay để cho vay”, hoạt động huy động và sử dụng vốn của ngân hàng có liên quan chặt chẽ với
nhau. Vì vậy, các ngân hàng thương mại đều phải đổi mới phương thức phục vụ và huy động
vốn để huy động được vốn tối đa đồng thời cũng phải đẩy mạnh cho vay. Ngoài ra, các TCTD
khác cũng cần phấn đấu hạ thấp chi phí, tạo cơ sở hạ thấp lãi suất”đầu ra” để thu hut được
nhiều khách hàng đến mở tài khoản và vay vốn.
CHƯƠNG II.
SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT TỚI NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
VIỆT NAM
1. THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT VÀ DIỄN BIẾN LÃI SUẤT TẠI VIỆT
NAM THỜI KỲ TỪ NĂM 2000 ĐẾN NAY
Trước đây NHNN ấn định một trần lãi suất cho vay, ví dụ như trần 0.85%/tháng vào thời
điểm trước tháng 8/2000. Thực tế là trong năm 1999, các NHTM đã không theo kịp đợt hạ
trần lãi suất của NHNN , và kết quả là lãi suất cho vay ngắn hạn bình quân vượt trên trần.
Tháng 8/2000, NHNN thay thế cơ chế lãi suất trần bằng một cơ chế lãi suất mới, đó là áp
dụng cơ chế lãi suất cơ bản, nhìn chung cũng gần giống với cơ chế lãi suất trần trước đây. Tuy
nhiên thì lãi suất cơ bản cộng biên độ cao hơn lãi suất trần trước đây rất nhiều, đây là cơ sở để
các Ngân hàng thoả thuận lãi suất với khách hàng. Có nghĩa là các Ngân hàng bắt đầu xây
dựng lãi suất dựa trên sự thoả thuận với khách hàng. Theo cơ chế lãi suất này, lãi suất cho vay
của đồng nội tệ của Ngân hàng được điều chỉnh theo lãi suất cơ bản do NHNN công bố. Các
Ngân hàng không được tính lãi suất cho vay vượt quá lãi suất cơ bản cộng biên độ 0.3%/tháng
đối với vốn ngắn hạn và 0.5%/tháng đối với vốn trung, dài hạn.
Lãi suất cho vay của các Ngân hàng luôn cao hơn mức lãi suất cơ bản nhưn