Việt Nam đang trong giai đoạn phát triển theo hướng tiếp tục con đường đổi mới, chủ động hội nhập, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Quá trình mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế một mặt giúp chúng ta có cơ hội tranh thủ tiếp cận các thành tựu tiến bộ khoa học công nghệ trên thế giới đã đạt được để thực hiện thắng lợi quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nhưng mặt khác, quá trình này cũng buộc doanh nghiệp Việt Nam phảI đối mặt với thách thức to lớn trước sức ép cạnh tranh quốc tế ngày càng gay gắt. Để hội nhập thành công trong điều kiện năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, của doanh nghiệp và sản phẩm còn nhiều yếu kém, nhà nước ta cần sớm thực hiện những cơ chế, chính sách nhằm thúc đẩy hơn nữa vai trò của công nghệ đối với quá trình phát triển kinh tế và nâng cao năng lực cạnh tranh của quốc gia trong giai đoạn tới. Sở dĩ như vậy là vì đổi mới công nghệ cho phép các doanh nghiệp tăng tỉ trọng phần giá trị gia tăng của sản phẩm, hạ giá thành, cải thiện hiệu quả sản xuất và thúc đẩy tăng trưởng.
Trong những năm đổi mới vừa qua. Đảng và nhà nước ta đã chú ý tới vai trò của khoa học và công nghệ đối với sự nghiệp phát triển thông qua việc ban hành và thực hiện những chính sách thúc đẩy và ứng dụng công nghệ, chuyển giao công nghệ trong sản xuất, dịch vụ, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả sản xuất. Tuy nhiên tồn tại hiện nay của nền kinh tế là đổi mới khoa học và công nghệ chưa trở thành nhu cầu bức thiết để nâng cao năng lực cạnh tranh của nhiều doanh nghiệp. Các doanh nghiệp chưa tự chú ý cải tiến, đổi mới công nghệ cho phù hợp cũng như chưa chú ý đầu tư để phát triển thương hiệu sản phẩm. Điều này dẫn đến thực trạng là trình độ công nghệ của nhiều nghành và doanh nghiệp còn lạc hậu; năng lực công nghệ nhìn chung còn chậm được cải thiện; nhiều sản phẩm kém sức cạnh tranh cả ở thị trường trong nước và ngoài nước.
94 trang |
Chia sẻ: ducpro | Lượt xem: 2085 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Hoàn thiện cơ chế, chính sách nhằm thúc đẩy đầu tư đổi mới công nghệ tại Việt Nam giai đoạn 2006 - 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, không sao chép bất cứ tài liệu nào. Các số liệu và kết quả ngiên cứu trong chuyên đề này là trung thực. Các thông tin trích dẫn trong luận văn đều đã được chỉ rõ nguồn gốc. Những quan điểm trình bày trong chuyên đề là quan điểm của cá nhân người viết.
Tác giả chuyên đề
Bùi Anh Dũng
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CP : Chính phủ
CT : Chỉ thị
QĐ : Quyết định
NQ : Nghị quyết
DN : Doanh nghiệp
DNNN : Doanh nghiệp nhà nước
DNNN : Doanh nghiệp vừa và nhỏ
FDI : Đầu tư trực tiếp nước ngoài
GDP : Tổng sản phẩm quốc nội
CNH : Công nghiệp hoá
HĐH : Hiện đại hoá
HTX : Hợp tác xã
NSNN : Ngân sách nhà nước
VAT : Thuế giá trị gia tăng
KH&ĐT : Kế hoạch và đầu tư
KH&CN : Khoa học và công nghệ
TƯ : Trung ương
CNTT : Công nghệ thông tin
R&D : Nghiên cứu và triển khai
ĐTNN : Đầu tư nước ngoài
NCQLKTTƯ : Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương
DSI : Viện chiến lược phát triển
MPI : Bộ kế hoạch và đầu tư
CIEM : Viện nghiên cứu quản lý trung ương
DANH MỤC CÁC BẢNG TRONG CHUYÊN ĐỀ
Bảng 1: Đầu tư cho hoạt động KH&CN
Bảng 2: Văn bằng độc quyền sáng chế cấp 1981-2005
Bảng 3: So sánh trình độ công nghệ Việt Nam với các nước trong khu vực
Bảng 4: Nguồn ngốc ý tưởng đổi mới công nghệ của các doanh nghiêp
Bảng 5: Phương thức thực hiện đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp
Bảng 6: Năng lực của đội ngũ cán bộ công nhân kỹ thuật trong các DN
LỜI MỞ ĐẦU
Việt Nam đang trong giai đoạn phát triển theo hướng tiếp tục con đường đổi mới, chủ động hội nhập, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Quá trình mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế một mặt giúp chúng ta có cơ hội tranh thủ tiếp cận các thành tựu tiến bộ khoa học công nghệ trên thế giới đã đạt được để thực hiện thắng lợi quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nhưng mặt khác, quá trình này cũng buộc doanh nghiệp Việt Nam phảI đối mặt với thách thức to lớn trước sức ép cạnh tranh quốc tế ngày càng gay gắt. Để hội nhập thành công trong điều kiện năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, của doanh nghiệp và sản phẩm còn nhiều yếu kém, nhà nước ta cần sớm thực hiện những cơ chế, chính sách nhằm thúc đẩy hơn nữa vai trò của công nghệ đối với quá trình phát triển kinh tế và nâng cao năng lực cạnh tranh của quốc gia trong giai đoạn tới. Sở dĩ như vậy là vì đổi mới công nghệ cho phép các doanh nghiệp tăng tỉ trọng phần giá trị gia tăng của sản phẩm, hạ giá thành, cải thiện hiệu quả sản xuất và thúc đẩy tăng trưởng.
Trong những năm đổi mới vừa qua. Đảng và nhà nước ta đã chú ý tới vai trò của khoa học và công nghệ đối với sự nghiệp phát triển thông qua việc ban hành và thực hiện những chính sách thúc đẩy và ứng dụng công nghệ, chuyển giao công nghệ trong sản xuất, dịch vụ, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả sản xuất. Tuy nhiên tồn tại hiện nay của nền kinh tế là đổi mới khoa học và công nghệ chưa trở thành nhu cầu bức thiết để nâng cao năng lực cạnh tranh của nhiều doanh nghiệp. Các doanh nghiệp chưa tự chú ý cải tiến, đổi mới công nghệ cho phù hợp cũng như chưa chú ý đầu tư để phát triển thương hiệu sản phẩm. Điều này dẫn đến thực trạng là trình độ công nghệ của nhiều nghành và doanh nghiệp còn lạc hậu; năng lực công nghệ nhìn chung còn chậm được cải thiện; nhiều sản phẩm kém sức cạnh tranh cả ở thị trường trong nước và ngoài nước.
Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành Trung ương Đảng Khoá IX họp tháng 7/2002 đã đề ra nhiệm vụ cần " thúc đẩy việc ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, đổi mới công nghệ trong các doanh nghiệp...”.Đổi mới công nghệ đang trở thành vấn đề hết sức quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế nước nhà. Hiện đầu tư đổi mới công nghệ là một vấn đề hêt sức nóng bỏng, mới mẻ ma các nhà kinh tế và doanh nghiệp đang hết sức quan tâm. Trên tinh thần đó em đã chọn nghiên cứu đề tài "Hoàn thiện cơ chế, chính sách nhằm thúc đẩy đầu tư đổi mới công nghệ tại Việt Nam giai đoạn 2006-2010".
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là tập trung phân tích thực trạng đầu tư đổi mới công nghệ ở nước ta và các cơ chế chính sách được ban hành và triển khai thực hiện thời gian qua. Trên cơ sở đó, đề tài sẽ nêu bật những tồn tại, nguyên nhân của tình hình, qua đó kiến nghị các cơ chế, chính sách và giải pháp nhằm thúc đẩy các nhà đầu tư tiềm năng cả trong nước và nước ngoài đầu tư đổi mới công nghệ ở nước ta trong thời gian 5 năm tới.
Kết cấu của đề tài gồm 3 chương:
Chương I: Khái quát về đầu tư đổi mới công nghệ
Chương II: Thực trạng cơ chế, chính sách đầu tư đổi mới công nghệ ở Việt Nam
Chương III: Kiến nghị hoàn thiện cơ chế, chính sách thúc đẩy đầu tư đổi mới công nghệ ơ Việt Nam giai đoạn 2006-2010
Em xin chân thành cảm ơn Th.S. Bùi Đức Tuân _ Khoa KH&PT Trường ĐHKTQD và Th.s.Trần Toàn Thắng _ Viện NCQLKTW đã nhiệt tình giúp đỡ em nghiên cứu hoàn thành đề án này. Mặc dù đã hết sức cố gắng trong nghiên cứu, nhưng do trình độ kinh nghiệm còn hạn chế và khuôn khổ thời gian có hạn chưa nghiên cứu sâu sắc vấn đề nên bài viết không tránh khỏi những hạn chế và thiếu sót. Vì vậy, đề tài nghiên cứu rất cần những ý kiến đóng góp, sửa chữa để được hoàn thiện hơn.
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ ĐẦU TƯ ĐỔI MỚI
CÔNG NGHỆ
I. KHÁI NIỆM VÀ PHÂN LOẠI ĐẦU TƯ
1. Khái niệm đầu tư
Xuất phát từ phạm vi phát huy tác dụng của các kết quả đầu tư chúng ta có thể có những cách hiểu khác nhau về đầu tư (còn gọi là hoạt động đầu tư ).
Đầu tư theo nghĩa rộng, nói chung, là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về cho người đầu tư các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó. Nguồn lực đó có thể là tiền, là tài nguyên thiên nhiên, là sức lao động và trí tuệ1.
Những kết quả đó có thể là sự tăng thêm các tài sản tài chính (tiền vốn), tài sản vật chất (nhà máy, đường xá, các của cải vật chất khác...), tài sản trí tuệ (trình độ văn hoá, chuyên môn, khoa học kỹ thuật...) và nguồn nhân lực có đủ điều kiện để làm việc với năng suất lao động cao hơn trong nền sản xuất xã hội.
Trong các kết quả đã đạt được trên đây những kết quả là tài sản vật chất, tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực tăng thêm có vai trò quan trọng trong mọi lúc, mọi nơi, không chỉ đối với người bỏ vốn mà còn đối với cả nền kinh tế. Những kết quả này không chỉ nhà đầu tư mà cả nền kinh tế được thụ hưởng.
Theo nghĩa hẹp, đầu tư chỉ bao gồm những hoạt động sử dụng các nguồn lực hiện tại nhằm đem lại cho nền kinh tế-xã hội những kết quả trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã sử dụng để đạt được các kết quả đó.
Như vậy nếu xem xét trong phạm vi quốc gia thì chỉ có hoạt động sử dụng các hoạt động của các tài sản và nguồn nhân lực sẵn có thuộc phạm trù đầu tư phát triển.
Từ đây ta có thể định nghĩa về đầu tư phát triển như sau: Đầu tư phát triển là hoạt động sử dụng các nguồn lực tài chính, nguồn lực vật chất, nguồn lực lao động và trí tuệ để xây dựng, sửa chữa nhà cửa và cấu trúc hạ tầng, mua sắm trang thiết bị và lắp đặt chúng trên nền bệ, bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân lực, thực hiện chi phí thường xuyên gắn liền với sự hoạt động của các tài sản này nhằm duy trì tiềm lực hoạt động của các cơ sở đang tồn tại và tạo tiềm lực mới cho nền kinh tế xã hội, tạo việc làm và nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội.
2. Phân loại các hoạt động đầu tư
Trong công tác quản lý và kế hoạch hoạt động đầu tư các nhà kinh tế phân loại hoạt động đầu tư theo các tiêu thức khác nhau. Những tiêu thức phân loại đầu tư thường được sử dụng là:
- Theo bản chất của đối tượng đầu tư, hoạt động đầu tư bao gồm đầu tư cho các đối tượng vật chất (đầu tư tài sản vật chất hoặc tài sản thực như nhà xưởng,máy móc, thiết bị...) cho các đối tượng tài chính như mua cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khoán khác...) và đầu tư cho các hoạt động phi vật chất (đầu tư tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực như đào tạo, nghiên cứu khoa học, y tế...).
Trong các loại đầu tư trên đây, đầu tư đối tượng vật chất là điều kiện tiên quyết, cơ bản làm tăng tiềm lực của nền kinh tế, đầu tư tài chính là điều kiện quan trọng để thu hút mọi nguồn vốn từ mọi tầng lớp dân cư cho đầu tư đối tượng vật chất, còn đầu tư tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực là điều kiện tất yếu để đảm bảo cho đầu tư các đối tượng vật chất tiến hành thuận lợi và đạt hiệu quả kinh tế- xã hội cao.
- Theo lĩnh vực hoạt động trong xã hội của các kết quả đầu tư có thể phân chia các hoạt động đầu tư thành đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, đầu tư phát triển khoa học kỹ thuật, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng (kỹ thuật và xã hội). Các hoạt động đầu tư này có quan hệ tương hỗ với nhau. Chẳng hạn đầu tư phát triển khoa học kỹ thuật và cơ sỏ hạ tầng tạo điều kiện cho đầu tư phát triển kinh doanh đến lượt mình lại tạo tiềm lực cho đầu tư phát triển khoa học kỹ thuật, cơ sở hạ tầng và các hoạt động đầu tư khác.
- Theo quan hệ quản lý của chủ đầu tư, hoạt động đầu tư có thể chia thành đầu tư gián tiếp và đầu tư trực tiếp.
+ Đầu tư trực tiếp: trong đó người bỏ vốn trực tiếp tham gia quản ký điều hành quá trình thực hiện và vận hành kết qủa đầu tư đầu tư trực tiếp lại được phân cha thành 2 loại: Đầu tư dịch chuyển và đầu tư phát triển.
Đầu tư dịch chuyển là loại đầu tư trong đó người có tiền mua lại một số cổ phần lớn để nắm quyền chi phối hoạt động của doanh nghiêp. Trong trường hợp này, việc đầu tư không làm gia tăng tài sản của doanh nghiệp, mà chỉ thay đổi quyền sử hữu các cổ phần của doanh ngiệp.
Đầu tư phát triển là loại bỏ vốn đầu tư để tạo nên những năng lực sản xuất phục vụ mới (cả về lượng và chất). Đây là loại đầu tư để tái sản xuất mở rộng, là biện pháp chủ yếu để cung cấp việc làm cho người lao động, là tiền đề để thực hiện đầu tư tài chính và đầu tư chuyển dịch.
+ Đầu tư gián tiếp: Trong đó người bỏ vốn đang trực tiếp tham gia điều hành quá trình thực hiện và phân hành các kết quả đầu tư. Đó là việc các chính phủ thông qua các chương trình tài trợ không hoàn lại, có hoàn lại với lãi suất thấp cho các chính phủ của các nước khác và để phát triển kinh tế -xã hội; là việc các cá nhân, các tổ chức mua các chứng chỉ có giá như cổ phiếu, trái phiếu...để được hưởng tức lợi (gọi là đầu tư tài chính).
Chính sự điều tiết của bản thân thị trường và các chíng sách khuyến khích đầu tư theo định hướng của nhà nước, từ đó tạo nên một cơ cấu hợp lý, có nghĩa là người có vốn sẽ không chỉ đầu tư cho lĩnh vực thương mại mà cả cho lĩnh vực sản xuất, không chỉ đầu tư tài chính, đầu tư chuyển dịch mà cả đầu tư phát triển.
3. Vai trò của đầu tư với việc tăng cường khả năng khoa học và công nghệ của đất nước.
Công nghệ là trung tâm của công nghiệp hoá. Đầu tư là điều kiện tiên quyết của sự phát triển và tăng cường khẳ năng công nghệ của nước ta hiện nay. Theo đánh giá của các chuyên gia công nghệ, trình độ Việt Nam lạc hậu nhiều thế hệ so với thế giới và khu vực. Theo VNIDO, nếu chia quá trình phát triển công nghệ trên thế giới làm 7 giai đoạn thì Việt Nam hiện ở vào giai đoạn 2. Viêt Nam đang là một trong 90 nước kém nhất về công nghệ. Với trình độ công nghệ lạc hậu này, quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam sẽ gặp rất nhiều khó khăn nếu không đề ra được một chiến lược đầu tư phát triển công nghệ nhanh và vững chắc.
Chúng ta đều biết rằng có hai con đường cơ bản để có công nghệ là tự nghiên cứu và phát minh ra công nghệ và nhập công nghệ từ nước ngoài. Dù là nghiên cứu hay nhập từ nước ngoài cần phải có tiền, cần phải có vốn đầu tư mọi phương án đổi mới công nghệ không gắn với nguồn vốn đầu tư sẽ là những phương án không khả thi.
II. CÔNG NGHỆ VÀ VAI TRÒ CỦA CÔNG NGHỆ TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ.
1. Khái niệm và phân loại công nghệ
1.1. Khái niệm công nghệ và các yếu tố cấu thành công nghệ
Công nghệ là một yếu tố tạo ra quá trình sản xuất hàng hoá và cung cấp dịch vụ. Nó liên kết các yếu tố khấc của quá trình sản xuất kinh doanh theo một lô gíc về mặt kỹ thuật. Thiếu yếu tố này, không thể có bất kỳ quá trình sản xuất- kinh doanh nào. Ngay trong các quá trình cung cấp dịch vụ thuộc các lĩnh vực phi vật chất, thậm chí trong các hoat động công cộng, người ta cũng nói tới công nghệ, công nghệ triển khai, cung cấp dịch vụ và tiến hành các hoạt động.
Công nghệ được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau, những cách tiếp cận khác nhau. Theo nghĩa hẹp ban đầu, công nghệ chỉ được dùng trong sản xuất và được hiểu là "phương pháp công nghệ", tức là những phương pháp sản xuất sản phẩm, được mô tả qua những quy trình được hình thành dưới những hình thức bản vẽ, sơ đồ, bảng, biểu. Một khái niệm khác cũng được dùng trong mối quan hệ với công nghệ là khái niệm kỹ thuật-bao gồm toàn bộ các phương tiện kỹ thuật. Về sau, khái niệm công nghệ đã được sử dụng trong cả lĩnh vực cung cấp hàng hoá, dịch vụ và gần đây trong cả quản lý.
Cùng với sự phát triển của quá trình chuyển giao công nghệ, khái niệm công nghệ đã được mở rộng: công nghệ là tập hợp tất cả các phương pháp sản xuất, cung cấp dịch vụ cũng như những phương tiện kỹ thuật cần thiết để thực hiện phương pháp đó. Công nghệ không chỉ bị giới hạn trong quá trình sản xuất, mà bao gồm cả những hoạt động nằm ngoài quá trình sản xuất trực tiếp( trong các quá trình chuẩn bị sản xuất và trong phân phối, lưu thông hàng hoá...). Với định nghĩa này, cả hai khái niệm “công nghệ” và “kỹ thuật” theo nghĩa hẹp đã được liên kết lại với nhau. Người ta xem phương pháp và quy trình công nghệ là yếu tố "phần mềm" của công nghệ còn thiết bị, máy móc và công cụ sản xuất là "phần cứng" của công nghệ.
Tiếp đó sau thập kỷ 90, khái niệm công nghệ được mở rộng hơn. Nó được định nhĩa như tổng thể của các phương pháp, quy trình, máy móc, thiết bị cần dùng để sản xuất sản phẩm và cung cấp dịch vụ, các hiểu biết, kỹ năng, thông tin cũng như phương thức tổ chức mà con người cần áp dụng để sử dụng những phương pháp, phương tiện đó. Theo định nghĩa này, công nghệ được chia thành 4 yếu tố: phần cứng (các phương tiện kỹ thuật như máy móc, thiết bị, công cụ sản xuất...); phần mềm (các phương pháp, quy trình sản xuất và cung cấp sản phẩm-dịch vụ); phần tổ chức (kết cấu hệ thống sản xuất và quản lý sản xuất, cơ chế vận hành của hệ thống đó); và phần con người (kể cả các kỹ năng, kỹ xảo, kiến thức thông tin mà người lao động và các cán bộ quản lý các cấp cần có để sử dụng được công nghệ).
Công nghệ là một khái niệm rộng, thay đổi cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ, điều kiện kinh doanh và yêu cầu của quản lý. Hiện nó đã bao hàm một nội dung rất rộng và sau này có thể tiếp tục được mở rộng.
Công nghệ, với thuật ngữ quốc tế "technology", được coi là phương tiện, công cụ để biến đổi giới tự nhiên thành thế giới do con người tạo ra; là tác nhân chủ chốt trong quá trình biến đổi các tài nguyên thiên nhiên thành các hàng hoá, dịch vụ.
Theo từ điển bách Khoa Việt Nam phát hành 1999 đã tập hợp 5 khái niệm được coi là tiêu biểu về công nghệ như sau:
1, Công nghệ là môn khoa học ứng dụng, nhằm vận dụng các quy luật tự nhiên và nguyên lý khoa học, đáp ứng nhu cầu vật chất và tinh thần của con người.
2, Công nghệ là phương tiện kỹ thuật, là sự thể hiện vật chất hoá các tri thức ứng dụng khoa học.
3, Công nghệ là tập hợp các cách thức, các phương pháp dựa trên cơ sở khoa học và được sử dụng vào sản xuất trong các ngành sản xuất khác nhau để tạo ra các sản phẩm vật chất hay dịch vụ.
4, Công nghệ bao gồm nhiều yếu tố hợp thành như phương tiện, máy móc, thiết bị, các quá trình vận hành, các phương pháp tổ chức, quản lý đảm bảo cho quá trình sản xuất và dịch vụ xã hội.
5, Xét riêng về mặt kinh tế, trong quan hệ với sản xuất, công nghệ được coi là phương tiện để thực hiện quá trình sản xuất, biến đổi các "đầu vào" để các "đầu ra" cho các sản phẩm và dịch vụ mong muốn.
Trong đề tài này công nghệ được hiểu theo nghĩa là sản phẩm trí tuệ, là tập hợp những bí quyết, phương pháp, kỹ năng, quy trình, được thể hiện dưới hai dạng cụ thể là những tri thức hay sáng kiến, sáng tạo được thể hiện trong một sản phẩm. Còn công nghệ về quy trình sản xuất là những bí quyết gắn với quy trình sản xuất ra sản phẩm nói chung2.
1.2. Phân loại công nghệ
Việc phân loại công nghệ là rất cần thiết để có thể quản lý, phát triển, hoàn thiện chúng. Trình độ phát triển kỹ thuật và công nghệ ngày càng cao, càng có nhiều công nghệ được đưa vào khai thác và sử dụng. Thì nhu cầu phân loại công nghệ càng trở nên quan trọng, khó khăn và phức tạp. Việc phân loại công nghệ có thể nhằm những mục tiêu rất khác nhau. Tuy nhiên điều quan trọng hơn cả là cần phân loại công nghệ để có một cái nhìn bao quát, tổng hợp về công nghệ đang tồn tại chưa được quan tâm nghiên cứu đúng mức. Phần lớn các nhà nghiên cứu và quản lý công nghệ đều xem đây như một trong những điểm yếu trong quản lý công nghệ.
Công nghệ có thể được phân loại theo những tiêu thức khác nhau, tuy nhiên, dù theo tiêu thức nào thì mỗi cách phân loại cũng chỉ đề cập đến một hoặc một số khía cạnh, phục vụ mục tiêu quản lý có tính chức năng riêng biệt. Bởi vậy, khi nghiên cứu, quản lý, phát triển công nghệ và năng lực công nghệ, cần chú ý tới cách phân chia toàn diện và phối hợp đúng với nhau. Chúng ta phân loại công nghệ dựa theo các căn cứ sau:
- Căn cứ vào tính chất của công nghệ hoặc lĩnh vực khoa học công nghệ dựa vào đó để thiết kế. Theo đó, công nghệ được chia thành các nhóm ứng với các lĩnh vực khoa học tự nhiên hoặc khoa học xã hội làm nền tảng cho nó.
Ví dụ, người ta phân biệt các công nghệ sinh học, công nghệ cơ khí, công nghệ tin học, công nghệ hoá học... Việc phân chia này có ý nghĩa thực tiễn ở chỗ: Nếu muốn phát triển những công nghệ thuộc nhóm nào thì cần phát triển các ngành khoa học tương ứng.
- Căn cứ vào sản phẩm, dịch vụ chủ yếu,đặc trưng sản xuất nhờ công nghệ được xếp loại. Theo đó, các công nghệ được xếp thành từng nhóm phục vụ cho việc sản xuất hoàn chỉnh những sản phẩm hoặc cung cấp các dịch vụ. Ví dụ, người ta phân loại các công nghệ sản xuất ô tô, công nghệ luyện kim, công nghệ truyền thanh, công nghệ quản lý... Hiện nay người ta đang sử dụng cách phân loại này khá nhiều để so sánh mức độ đầu tư cho các công nghệ thuộc các ngành hàng. Nó cũng có ý nghĩa đối với các nhà nghiên cứu, thiết kế công nghệ bởi theo cách phân chia này, có thể dễ dàng hình dung ra địa chỉ ứng dụng công nghệ.
- Căn cứ vào quá trình tạo ra công nghệ. Theo cách này, các công nghệ được phân chia thành công nghệ do các tổ chức có nhu cầu về công nghệ mới tự thiết kế và công nghệ được chuyển giao. Đây thường là cách phân chia được áp dụng công nghệ cụ thể phục vụ cho việc quản lý công nghệ và đánh giá năng lực công nghệ của doanh nghiệp.
- Căn cứ vào trình độ của các công nghệ trong tương quan với công nghệ cùng loại và có tính "mới" của nó. Căn cứ này, các công nghệ trên cùng một lĩnh vực được phân chia theo các "thế hệ" khác nhau. Thế hệ thứ nhất được xem như thế hệ ban đầu. Những công nghệ thuộc thế hệ này là những công nghệ xuất hiện đầu tiên trên lĩnh vực công nghệ được nghiên cứu, phân loại. Do mỗi lĩnh vực có thể có sự tiến bộ khác nhau mà có những lĩnh vực, công nghệ mới nhất đã được xếp vào thế hệ thứ 5, thứ 6 (trong khi trên lĩnh vực khác, công nghệ mới nhất mới chỉ là thế hệ thứ 5). Những tiến bộ nhờ cải tiến dần dần công nghệ đang được sử dụng có thể dẫn tới sự hình thành công nghệ thuộc thế hệ mới. Mỗi "thế hệ" công nghệ thường có những đặc trưng nhất định, trong đó có những nét mới, tiến bộ hơn về chất so với thế hệ trước nó. Thậm chí công nghệ thế hệ mới trong mỗi lĩnh vực nhất định có thể khác hẳn về nguyên lý so với những công nghệ cùng loại trước đó.
Những cách phân loại công nghệ trên đây thường được kết hợp với nhau, cho phép người ta sắp xếp các công nghệ thành một hệ thống có sự phối hợp và xem xét nhiều chiều. Nhờ đó, mỗi công nghệ có thể được xem xét một cách toàn diện và khái quát. Nó giúp việc nghiên cứu, quản lý công nghệ tránh được sự phiến diện cả tầm vĩ mô và tầm vi mô. Điều này cũng giúp cho các nhà hoạch định chính sách và quản lý khắc phục tình trạng bỏ qua những lĩnh vực công nghệ mà ngay tại thời điểm nghiên cứu, phân tích, đánh giá và hoạ