Ngay khi ra đời, hệ thống ngân hàng đã chứng tỏ vai trò thiết yếu của mình trong guồng máy kinh tế, sự hưng thịnh hay sự suy thoái của ngân hàng luôn tạo những ảnh hưởng mạnh mẽ đối với tình hình phát triển kinh tế một quốc gia. Sau hơn 20 năm tiến hành công cuộc đổi mới đất nước làm thay đổi cơ bản nền kinh tế với những chỉ số kinh tế ngày càng khả quan, hệ thống ngân hàng đã đóng một vai trò quan trọng. Những đổi mới của hệ thống ngân hàng Việt Nam được coi là khâu đột phá, có những đóng góp tích cực cho nền kinh tế trong việc đẩy lùi và kiềm chế lạm phát, từng bước duy trì sự ổn định giá trị đồng tiền và tỉ giá, góp phần cải thiện kinh tế vĩ mô, môi trường đầu tư và sản xuất kinh doanh, góp phần thúc đẩy hoạt động đầu tư. Tín dụng ngân hàng đã đóng góp tích cực cho việc duy trì sự tăng trưởng kinh tế với nhịp độ cao trong nhiều năm liên tục. Với dư nợ cho vay nền kinh tế chiếm khoảng 35-37% GDP, mỗi năm hệ thống ngân hàng đóng góp trên 10% tổng mức tăng trưởng kinh tế của cả nước. Hỗ trợ có hiệu quả trong việc tạo việc làm mới và thu hút lao động, góp phần cải thiện thu nhập và giảm nghèo bền vững.
Hòa mình với nhịp độ phát triển chung, rủi ro trong cho vay của các tổ chức tín dụng còn cao, đặc biệt là dư nợ tín dụng quá hạn trong đó có cả nợ khó đòi hiện đang là vấn đề nổi cộm. Cũng như nền kinh tế nói chung, hoạt động của hệ thống ngân hàng đã đến lúc cần có giải pháp để thực hiện việc chuyển từ giai đoạn phát triển theo chiều rộng sang giai đoạn phát triển theo chiều sâu. Các dự án đầu tư phải thực sự mang lại hiệu quả kinh tế, đem lại lợi nhuận cho chủ đầu tư, cho ngân hàng, tạo nên sự tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội. Muốn đạt được kết quả đó, cần phải hội đủ rất nhiều yếu tố song chủ yếu là chiến lược khách quan hoàn hảo kèm theo cơ chế quản lý có hiệu quả và đặc biệt là phương pháp thẩm định có khoa học.
Sau một thời gian thực tập tại Ngân hàng Công thương Việt Nam – Chi nhánh Ba Đình, em nhận thấy rằng thẩm định dự án đầu tư là một trong những vấn đề có nhiều điều đáng quan tâm, không chỉ riêng Ngân hàng Công thương Việt Nam – Chi nhánh Ba Đình mà của tất cả các Ngân hàng thương mại Việt Nam. Với sự hướng dẫn của thầy giáo Nguyễn Hồng Minh và sự giúp đỡ nhiệt tình của anh Phạm Gia Tú – cán bộ tín dụng Ngân hàng Công thương Việt Nam – Chi nhánh Ba Đình, em quyết định chọn đề tài:
“ Hoàn thiện công tác thẩm định dự án cho vay vốn ngành bao bì tại Ngân hàng Công thương Việt Nam – Chi nhánh Ba Đình”
Chuyên đề kết cấu theo hai chương:
Chương I: Thực trạng công tác thẩm định dự án cho vay vốn ngành bao bì tại Ngân hàng Công thương Việt Nam – Chi nhánh Ba Đình
Chương II: Giải pháp nâng cao chất lượng công tác thẩm định dự án cho vay vốn ngành bao bì tại Ngân hàng Công thương Việt Nam – Chi nhánh Ba Đình
90 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 1991 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Hoàn thiện công tác thẩm định dự án cho vay vốn ngành bao bì tại ngân hàng công thương Việt Nam chi nhánh Ba Đình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Ngay khi ra đời, hệ thống ngân hàng đã chứng tỏ vai trò thiết yếu của mình trong guồng máy kinh tế, sự hưng thịnh hay sự suy thoái của ngân hàng luôn tạo những ảnh hưởng mạnh mẽ đối với tình hình phát triển kinh tế một quốc gia. Sau hơn 20 năm tiến hành công cuộc đổi mới đất nước làm thay đổi cơ bản nền kinh tế với những chỉ số kinh tế ngày càng khả quan, hệ thống ngân hàng đã đóng một vai trò quan trọng. Những đổi mới của hệ thống ngân hàng Việt Nam được coi là khâu đột phá, có những đóng góp tích cực cho nền kinh tế trong việc đẩy lùi và kiềm chế lạm phát, từng bước duy trì sự ổn định giá trị đồng tiền và tỉ giá, góp phần cải thiện kinh tế vĩ mô, môi trường đầu tư và sản xuất kinh doanh, góp phần thúc đẩy hoạt động đầu tư. Tín dụng ngân hàng đã đóng góp tích cực cho việc duy trì sự tăng trưởng kinh tế với nhịp độ cao trong nhiều năm liên tục. Với dư nợ cho vay nền kinh tế chiếm khoảng 35-37% GDP, mỗi năm hệ thống ngân hàng đóng góp trên 10% tổng mức tăng trưởng kinh tế của cả nước. Hỗ trợ có hiệu quả trong việc tạo việc làm mới và thu hút lao động, góp phần cải thiện thu nhập và giảm nghèo bền vững.
Hòa mình với nhịp độ phát triển chung, rủi ro trong cho vay của các tổ chức tín dụng còn cao, đặc biệt là dư nợ tín dụng quá hạn trong đó có cả nợ khó đòi hiện đang là vấn đề nổi cộm. Cũng như nền kinh tế nói chung, hoạt động của hệ thống ngân hàng đã đến lúc cần có giải pháp để thực hiện việc chuyển từ giai đoạn phát triển theo chiều rộng sang giai đoạn phát triển theo chiều sâu. Các dự án đầu tư phải thực sự mang lại hiệu quả kinh tế, đem lại lợi nhuận cho chủ đầu tư, cho ngân hàng, tạo nên sự tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội. Muốn đạt được kết quả đó, cần phải hội đủ rất nhiều yếu tố song chủ yếu là chiến lược khách quan hoàn hảo kèm theo cơ chế quản lý có hiệu quả và đặc biệt là phương pháp thẩm định có khoa học.
Sau một thời gian thực tập tại Ngân hàng Công thương Việt Nam – Chi nhánh Ba Đình, em nhận thấy rằng thẩm định dự án đầu tư là một trong những vấn đề có nhiều điều đáng quan tâm, không chỉ riêng Ngân hàng Công thương Việt Nam – Chi nhánh Ba Đình mà của tất cả các Ngân hàng thương mại Việt Nam. Với sự hướng dẫn của thầy giáo Nguyễn Hồng Minh và sự giúp đỡ nhiệt tình của anh Phạm Gia Tú – cán bộ tín dụng Ngân hàng Công thương Việt Nam – Chi nhánh Ba Đình, em quyết định chọn đề tài:
“ Hoàn thiện công tác thẩm định dự án cho vay vốn ngành bao bì tại Ngân hàng Công thương Việt Nam – Chi nhánh Ba Đình”
Chuyên đề kết cấu theo hai chương:
Chương I: Thực trạng công tác thẩm định dự án cho vay vốn ngành bao bì tại Ngân hàng Công thương Việt Nam – Chi nhánh Ba Đình
Chương II: Giải pháp nâng cao chất lượng công tác thẩm định dự án cho vay vốn ngành bao bì tại Ngân hàng Công thương Việt Nam – Chi nhánh Ba Đình
Do giới hạn về thời gian nghiên cứu cũng như kinh nghiệm thực tế chưa có, chuyên đề sẽ khó tránh khỏi những thiếu sót. Mặc dù vậy, em hy vọng rằng đề tài này sẽ một lần nữa khẳng định được vai trò của công tác thẩm định và góp phần nâng cao hơn nữa chất lượng thẩm định dự án đầu tư ở Ngân hàng Công thương Việt Nam – Chi nhánh Ba Đình cũng như các Ngân hàng thương mại Việt Nam nói chung.
CHƯƠNG I
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH DỰ ÁN CHO VAY VỐN NGÀNH BAO BÌ TẠI NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG VIỆT NAM – CHI NHÁNH BA ĐÌNH
Khái quát về Ngân hàng Công thương Việt Nam – Chi nhánh Ba Đình
Tổng quan về Ngân hàng Công thương Việt Nam
Ngân Hàng Công Thương Việt Nam (VietinBank) được thành lập từ năm 1988 sau khi tách ra từ Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và là Ngân hàng thương mại lớn, giữ vai trò quan trọng, trụ cột của ngành Ngân hàng Việt Nam.
Có hệ thống mạng lưới trải rộng toàn quốc với 3 Sở Giao dịch, 141 chi nhánh và trên 700 điểm/phòng giao dịch. Có 4 Công ty hạch toán độc lập là Công ty Cho thuê Tài chính, Công ty TNHH Chứng khoán, Công ty Quản lý Nợ và Khai thác Tài sản, Công ty TNHH Bảo hiểm và 3 đơn vị sự nghiệp là Trung tâm Công nghệ Thông tin và Trung tâm Thẻ, Trường Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực.
Là sáng lập viên và đối tác liên doanh của Ngân hàng INDOVINA.
Có quan hệ đại lý với trên 850 ngân hàng lớn trên toàn thế giới.
Ngân Hàng Công Thương Việt Nam là một Ngân hàng đầu tiên của Việt Nam được cấp chứng chỉ ISO 9001:2000.
Là thành viên của Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam, Hiệp hội các ngân hàng Châu Á, Hiệp hội Tài chính viễn thông Liên ngân hàng toàn cầu(SWIFT), Tổ chức Phát hành và Thanh toán thẻ VISA, MASTER quốc tế.
Là ngân hàng tiên phong trong việc ứng dụng công nghệ hiện đại và thương mại điện tử tại Việt Nam. Không ngừng nghiên cứu, cải tiến các sản phẩm, dịch vụ hiện có và phát triển các sản phẩm mới nhằm đáp ứng cao nhất nhu cầu của khách hàng.
Quá trình hình thành và phát triển của Ngân hàng Công thương Việt
Nam - Chi nhánh Ba Đình
Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam - Chi nhánh Ba Đình (hay gọi tắt là NHCT Ba Đình) được thành lập từ những năm 1959, với tên gọi là Chi điếm Ngân hàng Ba Đình trực thuộc Ngân hàng Hà Nội, với nhiệm vụ vừa xây dựng cơ sở vật chất, củng cố tổ chức và hoạt động Ngân hàng. Chi nhánh đặt trụ sở tại phố Đội Cấn – Hà Nội (và nay là 142 phố Đội Cấn, quận Ba Đình, TP Hà Nội). Ra đời khi trong bối cảnh đất nước còn gặp nhiều khó khăn nên hoạt động của chi nhánh chỉ mang tính bao cấp, phục vụ không lấy lợi nhuận làm mục tiêu và hoạt động theo mô hình quản lý một cấp. Mô hình này đuợc duy trì cho đến tháng 07 năm 1988 thì kết thúc.
Ngày 01/07/1988 thực hiện nghị định 53 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) ngành Ngân hàng đã chuyển hoạt động từ cơ chế quản lý hành chính kế hoạch hoá sang hạch toán kinh tế kinh doanh theo mô hình quản lý hai cấp (Ngân hàng Nhà nước – Ngân hàng thương mại), và các NHTM quốc doanh lần lượt ra đời với các chức năng chuyên môn NHCT – NHNT – NHĐT&PT – NHNN&PTNT. Đồng thời, Ngân hàng công thương Ba Đình cũng được chuyển đổi thành một chi nhánh NHTM quốc doanh với tên gọi là chi nhánh Ngân hàng Công thương quận Ba Đình trực thuộc Ngân hàng Công thương Hà Nội, và hoạt động theo mô hình quản lý 3 cấp (trung ương – thành phố - quận). Với mô hình quản lý này, trong những năm (7/88 – 3/93) hoạt động kinh doanh Ngân hàng công thương Ba Đình kém hiệu quả, không phát huy được thế mạnh và ưu thế của một ngân hàng thương mại trên địa bàn thủ đô, do hoạt động kinh doanh phụ thuộc hoàn toàn vào NHCT thành phố Hà Nội, cùng với những khó khăn và thử thách mà Ngân hàng gặp phải vào những năm đầu chuyển đổi mô hình kinh tế theo đường lối mới của Đảng.
Trước những thực tế đó, theo quyết định số 93/NHCT – TCCB của Tổng giám đốc NHCT Việt Nam bắt đầu tư ngày 01/04/1993, Ngân hàng Công thương Việt Nam thực hiện thí điểm mô hình tổ chức NHCT hai cấp (trung ương - quận), xoá bỏ cấp trung gian là NHCT thành phố Hà Nội. Do vậy, ngay sau khi nâng cấp quản lý cùng với việc đổi mới cơ chế hoạt động, tăng cường công tác quản lý cán bộ và đội ngũ trẻ có năng lực thì hoạt động kinh doanh của Ngân hàng đã có nhiều sức bật mới, đa năng, có đầy đủ năng lực, uy tín tham gia cạnh tranh tích cực trên thị trường, và không ngừng tự đổi mới, hoàn thiện mình để thích nghi với môi trường kinh doanh trong cơ chế thị trường.
Cho đến nay hoạt động của chi nhánh Ngân hàng Công thương khu vực Ba Đình được ổn định và phát triển theo 4 định hướng lớn của ngành “ổn định – an toàn - hiệu quả và phát triển” cả về quy mô, tốc độ tăng trưởng, địa bàn hoạt động cũng như về cơ cấu mạng lưới tổ chức bộ máy.
Từ năm 1995 đến nay, với những kết quả kinh doanh đã đạt được, cùng với tốc độ tăng trưởng và hoàn thành xuất sắc mọi chỉ tiêu kế hoạch được giao, Chi nhánh Ngân hàng công thương Ba Đình liên tục được Ngân hàng Công thương Việt Nam công nhận là một trong những chi nhánh xuất sắc nhất trong hệ thống NHCT Việt Nam: năm 1998 được Thủ tướng chính phủ tặng bằng khen; năm 1999 dược chủ tịch nước tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Ba; liên tục trong các năm 2000 – 2004 được nhiều cấp khen thưởng: Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội tặng bằng khen, thống đốc Ngân hàng nhà nước tặng bằng khen, được HĐQT – KT Ngành ngân hàng đề nghị thủ tướng chính phủ tặng bằng khen; năm 2007 được đón nhận Huân Chương Lao Động Hạng nhì của Chủ tịch nước. Và năm 2008, chi nhánh đang đề nghị Thủ Tướng Chính phủ tặng cờ thi đua.
Sơ đồ cơ cấu tổ chức, chức năng và nhiệm vụ của Ngân hàng Công
thương Việt Nam – Chi nhánh Ba Đình
Sơ đồ cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Công thương Việt Nam – Chi nhánh Ba Đình
Theo quyết định số 151 và 068/QĐ-CNBĐ-TCHC của HĐQT của Ngân hàng Công thương Việt Nam về việc chuyển đổi mô hình tổ chức của chi nhánh NHCT theo dự án hiện đại hoá ngân hàng, cơ cấu tổ chức của chi nhánh Ngân hàng công thương Ba Đình như sau:
(Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh của chi nhánh NHCT Ba Đình)
Chức năng và nhiệm vụ của Ngân hàng Công thương Việt Nam – Chi
nhánh Ba Đình
Chức năng:
NHCT Ba Đình là một chi nhánh lớn của Ngân hàng Công thương Việt Nam tại Hà Nội, hoạt động kinh doanh theo mô hình 1 NHTM đa năng, mang tính kinh doanh thực sự, với phong cách giao tiếp và phục vụ hiện đại, lấy lợi nhuận làm mục tiêu kinh doanh.
Với bộ máy hoạt động gần 300 cán bộ - nhân viên, hoạt động của chi nhánh đã phát triển rộng khắp trên địa bàn gồm các quận: Ba Đình – Hoàn Kiếm – Tây Hồ. Không những thế ngân hàng Công thương Ba Đình luôn luôn đảm bảo chức năng hoạt động của một chi nhánh NHCT trên địa bàn thủ đô. Và thực tế đã chững minh, từ năm 1995 đến nay, chi nhánh NHCT Ba Đình liên tục được NHCT Việt Nam công nhận là một trong những chi nhánh xuất sắc nhất trong hệ thống NHCT Việt Nam.
Nhiệm vụ:
Chi nhánh NHCT khu vực Ba Đình có một số nhiệm vụ sau:
Tiến hành các nghiệp vụ giao dịch với khách hàng gồm các doanh nghiệp lớn, các doanh nghiệp vừa và nhỏ, và các cá nhân, đồng thời tư vấn cho khách hàng về các sản phẩm của Ngân hàng.
Thực hiện các nghiệp vụ liên quan đến tín dụng và quản lý các sản phẩm tín dụng phù hợp với chế độ, thể chế hiện hành và hướng dẫn của NHCT Việt Nam.
Quản lý, giám sát thực hiện danh mục cho vay tại chi nhánh, thẩm đinh và tái thẩm định khách hàng của chi nhánh theo chỉ đạo của NHCT Việt Nam.
Tổ chức thực hiện các nghiệp vụ về thanh toán XNK, kinh doanh ngoại tệ theo quy định của NHCT Việt Nam.
Thực hiện quản lý quỹ tiền mặt, quản lý an toàn kho quỹ theo quy định của NHVN và NHCT Việt Nam.
Thực hiện công tác tổ chức, đào tạo cán bộ tại chi nhánh theo đúng chủ trương chính sách của Nhà nước và quy định của NHCT Việt Nam. Thực hiện công tác quản trị, văn phòng phục vụ hoạt động kinh doanh tại chi nhánh, thực hiện công tác bảo vệ, an ninh, an toàn chi nhánh.
Thực hiện công tác quản lý, duy trì hệ thống thông tin điện toán tại chi nhánh. Đồng thời bảo trì, bảo dưỡng máy tính đảm bảo thông suốt hoạt động của hệ thống mạng, máy tính của chi nhánh.
Ngoài ra, chi nhánh còn có nhiệm vụ dự kiến kế hoạch kinh doanh, tổng hợp, phân tích, đánh giá tình hình hoạt động kinh doanh, thực hiện báo cáo hoạt động hàng năm của mình.
Tình hình hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Công thương Việt Nam – Chi nhánh Ba Đình những năm gần đây
Năm 2006, hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại diễn ra rất sôi động với nhiều chi nhánh, điểm giao dịch mở ra, nhiều ngân hàng tăng vốn điều lệ, giá cổ phiếu trên thị trường chứng khoán liên tục tăng. Tuy nhiên, do lãi suất trên thị trường thế giới có nhiều biến động, đặc biêt là đồng USD tác động trực tiếp đến quan hệ tỷ giá và lãi suất đồng VNĐ. Mặt khác, do quan hệ cung cầu vốn trên thị trường, sự biến động giá cả, lãi suất huy động của các NHTMCP đều áp dụng vượt các mức lãi suất đã thỏa thuận của Hiệp hội Ngân hàng. Một số doanh nghiệp có nguồn tiền gửi lớn đang gửi vốn tại Chi nhánh là nhà cổ đông chiến lược của một số NHTMCP tạo ra sự cạnh tranh, dịch chuyển vốn từ ngân hàng này sang ngân hàng khác, làm cho lãi suất huy động vốn VNĐ luôn không ổn định, cạnh tranh giữa các ngân hàng trở nên gay gắt. Trong đầu tư tín dụng, với định hướng tăng trưởng đi đôi với chất lượng, tìm kiếm khách hàng, phương án cho vay tốt và áp dụng chuẩn mực phân loại nợ hàng tháng nên nợ xấu thường xuyên được kiểm soát và khắc phục.
Năm 2007, với nhiều diễn biến bất lợi như giá dầu mỏ, giá vàng tăng cao đạt mức kỷ lục làm cho chỉ số giá tiêu dùng tăng cao, ảnh hưởng lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và đời sống nhân dân. Sự xuất hiện thêm các tổ chức định chế tài chính, tín dụng trong nước, thị trường nhà đất sốt giá trở lại làm gia tăng áp lực cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng. Một vài doanh nghiệp có quan hệ tín dụng tại Chi nhánh có dư nợ lớn, sản xuất kinh doanh gặp khó khăn đã ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả kinh doanh chung của Chi nhánh.
Đến năm 2008, do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu đã làm lạm phát tăng cao do chi phí đấy trong những tháng đầu năm nhưng cuối năm lại rơi vào tình trạng giảm phát, nhập siêu tăng và đầu tư gián tiếp nước ngoài giảm, diễn biến cung cầu vốn ngoại tệ bất thường. Hoạt động tài chính ngân hàng bị ảnh hưởng rất lớn, đầu năm là cuộc chạy đua lãi suất huy động giữa các ngân hàng nhưng đến cuối năm, khi ngân hàng NN VN thực hiện đồng bộ các giải pháp: hạ lãi suất cơ bản, tăng lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc cho phép các NHTM rút về tín phiếu bắt buộc, giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc dẫn đến tình hình thanh khoản tốt hơn, lãi suất cho vay liên tục điều chỉnh giảm.
Có thể nói, trong bối cảnh khó khăn của nền kinh tế, ngành ngân hàng đã thực thi rất tốt vai trò nòng cốt của mình trong việc tham mưu và tổ chức thực hiện chính sách tiền tệ một cách hiệu quả, đúng đắn, phù hợp với điều kiện thực tiễn ở Việt Nam.
1.1.4.1. Hoạt động huy động vốn
Khi nói đến hiệu quả kinh doanh của một ngân hàng không thể chỉ nên nhìn kết quả của công tác tín dụng chỉ vì nó là hoạt động sinh lời chủ yếu của ngân hàng mà còn phải xem xét đến chất lượng, quy mô của công tác huy động vốn. Với nguyên tắc hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại là “ Đi vay để cho vay”, việc huy động vốn có ảnh hưởng quyết định đến hoạt động tín dụng nói chung và công tác thẩm định nói riêng
Năm
Tổng nguồn vốn huy động bình quân
Tổng nguồn vốn huy động đến cuối năm
Tiền gửi VNĐ
Tiền gửi ngoại tệ quy VNĐ
2006
4.400
3.497
853
2007
4.947
4.040
1.101
2008
4.493
3.410
1.082
(Nguồn: báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh năm 2006 – 2008)
Năm 2006, so với kế hoạch vốn huy động đạt 96%, trong đó, VNĐ đạt 95,8%, ngoại tệ quy VNĐ đạt 99%. Nguyên nhân chính là một số doanh nghiệp có tiền gửi thường xuyên lớn, phải cấp vốn cho các đơn vị thành viên hoặc chuyển vốn về Tổng công ty theo quy chế nội bộ. Mặt khác, chỉ số giá cổ phiếu trên thị trường tăng nhanh có sức hấp dẫn, gia tăng thêm người tham gia kinh doanh cổ phiếu nên trong những tháng cuối năm tiền gửi ở khu vực dân cư giảm nhiều.
So với kế hoạch, năm 2007, tống nguồn vốn huy động đạt 98,86%, trong đó VNĐ đạt 94,72%, ngoại tệ quy VNĐ đạt 117,15%
Năm 2008, tổng nguồn vốn huy động đạt 105,7% trong đó VNĐ đạt 111,8%, ngoại tệ quy VNĐ đạt 90,2% so với kế hoạch.
* Về cơ cấu nguồn vốn huy động
Năm
Tiền gửi của các tổ chức kinh tế
Tiền gửi dân cư
2006
1962
2388
2007
2817
2324
2008
2188
23305
(Nguồn: báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh năm 2006 – 2008)
Năm 2006, số dư tiền gửi dân cư tăng 13,17% so với cùng kỳ năm trước do một số nguyên nhân:
Chi nhánh có những chính sách khuyến mãi hấp dẫn thu hút khách hàng với lượng tiền gửi lớn, triển khai thực hiện tốt các đợt huy động vốn phát hành kỳ phiếu dự thưởng, chứng chỉ tiền gửi ngoại tệ…
Khai thác tiền đền bù cho dân từ các dự án xây dựng đường giao thông
Các dự án có nguồn vốn tài trợ ODA, WB… do Chi nhánh khai thác vẫn tiếp tục tăng.
Năm 2007 có mức tiền gửi của các tổ chức kinh tế tăng đột biến do huy động vốn từ các doanh nghiệp có nhiều tiềm năng được quan tâm chú trọng cùng với những chính sách khuyến mãi thích hợp đối với từng doanh nghiệp nên nhiều doanh nghiệp có vốn lớn duy trì mức tiền gửi khá ổn định hoặc chuyển thêm vốn về gửi tăng lên tại Chi nhánh. Bên cạnh đó, do tác động cạnh tranh của các tổ chức tín dụng và định chế tài chính, giá thị trường nhà đất hồi phục tăng cao trở lại, đặc biệt giá vàng, giá tiêu dùng liên tục tăng vào cuối năm nên vốn huy động tiền gửi dân cư bị sụt giảm.
Năm 2008 do có nhiều biến động về lãi suất huy động, sự cạnh tranh gay gắt của các ngân hàng làm cho nguồn vốn huy động giảm sút so với năm 2007. Trong khu vực tiền gửi tiết kiệm dân cư, Chi nhánh đã tích cực triển khai các chương trình huy động vốn đồng thời chỉnh sửa khang trang các quỹ tiết kiệm, điểm giao dịch
1.1.4.2. Hoạt động tín dụng
A, Thực hiện chỉ tiêu dư nợ
Năm
Dư nợ bình quân
Dư nợ tính đến cuối năm
Dư nợ cho vay VNĐ
Dư nợ cho vay ngoại tệ quy VNĐ
2006
2.383
1.710
650
2007
2.373
1.844
799
2008
3.722
2.213
988
(Nguồn: báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh năm 2006 – 2008)
* Về dư nợ theo thời gian:
- Dư nợ cho vay ngắn hạn năm 2007 đạt 2195 tỷ, so với năm trước tăng 17,9%. Đến năm 2008 đạt 2087 tỷ đồng, giảm 108 tỷ đồng tương đương 4,9% so với cuối năm 2007, tổng dư nợ giảm 17,8%.
- Dư nợ cho vay trung, dài hạn đạt 448 tỷ năm 2007, bằng 89,8% so với cuối năm trước. Đến năm 2008 đạt 1114 tỷ đồng, tương đương 148,7% so với cuối năm 2007, chiếm 34,8% tổng dư nợ tăng 17,8%.
* Về cơ cấu dư nợ:
- Tỷ lệ cho vay doanh nghiệp nhà nước: Năm 2007 đạt 42,4%, so với kế hoạch giảm 2,6%, so với cuối năm 2006 tăng 0,62%; Năm 2008 đạt 54%, so với kế hoạch tăng 15%, so với cùng kì năm 2007 tăng 11,6%.
- Tỷ lệ cho vay không có đảm bảo bằng tài sản: Năm 2007 đạt 59,6%, so với kế hoạch tăng 18,6%, so với cuối năm 2006 tăng 15,3%; Năm 2008 đạt 44%, giảm 145,6 % so với cuối năm 2007, so với kế hoạch giảm 1%.
B, Trích lập dự phòng rủi ro
* Số phải trích đến cuối năm 2007 là 61138 triệu đồng, năm 2008 là 121.000 triệu đồng
* Số trích dự phòng rủi ro đến cuối năm 2007 là 100.866 triệu đồng, năm 2008 là 54.181 triệu đồng.
C, Thu hồi nợ đã xử lý ngoại bảng
* Năm 2006:
- Từ nguồn xử lý rủi ro: 20.004 tỷ đồng, đạt 53,06% so với kế hoạch.
- Từ nguồn Chính phủ cấp: kế hoạch thu 3 tỷ, thực hiện 193 triệu đồng, trong đó có món nợ nhiều năm có vướng mắc với cơ quan thi hành án không thực hiện được, doanh nghiệp có biểu hiện thiếu thiện chí trả nợ.
* Năm 2007, với những biện pháp thực hiện quyết liệt như bám sát nguồn thu, thỏa thuận khách hàng trả từng tháng đối với từng khách hàng nên kết quả thu nợ ngoại bảng có chuyển biến rõ rệt.
- Thu nợ từ nguồn xử lý rủi ro 17.655 triệu đồng, đạt 51,4% so với kế hoạch
- Thu nợ từ nguồn Chính phủ được 370 triệu đồng.
* Năm 2008, dù có nhiều biện pháp đưa ra để thu hồi nợ nhưng do các doanh nghiệp gặp khó khăn về tài chính không có nguồn trả nợ, một số khoản nợ có bổ sung tài sản đảm bảo nhưng là các thiết bị công trình đã cũ, lạc hậu , khó bán, nhà xưởng sản xuất, giấy tờ pháp lý không đầy đủ nên khó xử lý… khiến cho quá trình thu nợ ngoại bảng đạt kết quả thấp.
- Thu nợ từ nguồn xử lý rủi ro: 4.495 triệu đồng, bằng 10,7% kế hoạch.
- Thu nợ từ nguồn Chính phủ: 249 triệu đồng, đạt 44,5 % kế hoạch.
1.1.4.3. Hoạt động tài trợ thương mại
A, Kinh doanh ngoại tệ
Ngoài thu đổi, mua bán ngoại tề của các đại lý qua thị trường tự do và thị trường liên ngân hàng, Chi nhánh còn khai thác, thu mua từ các doanh nghiệp xuất khấu, đơn vị có nguồn ngoại tệ lớn,đồng thời theo dõi sát sao chặt chẽ luồng tiền đi- đến, tỷ giá, điều chuyển vốn… Do vậy không có rủi ro, trạng thái ngoại tệ được khắc phục, tuân thủ đúng quy định NHCTVN
Năm 2006, tổng doanh thu ngoại tệ đạt 878,730 triệu USD, tăng 78% so với năm trước. Kết quả lãi gộp thu được 3.122 triệu đồng.
Năm 2007, doanh số mua bán ngoại tệ đạt 833,37 triệu USD, giảm 45,36 triệu USD so với cuối năm 2006. Thu kinh doanh ngoại tệ 3,23 tỷ đồng, bằng 103,5% so với năm trước.
Đến năm 2008, cùng với khủng hoảng kinh tế là tì