Lĩnh vực ngân hàng được coi là lĩnh vực quan trọng, là chìa khoá cho sự phát triển của nền kinh tế. Tuy nhiên, lĩnh vực ngân hàng lại là lĩnh vực nhạy cảm và phức tạp, hoạt động ngân hàng đòi hỏi người tham gia phải có hiểu biết về chuyên môn và có những kinh nghiệm nhất định.
Để trở thành một cử nhân kinh tế, mỗi sinh viên không chỉ cần có kiến thức về lý thuyết mà còn cần những hiểu biết về thực tế. Những kiến thức được học tập, nghiên cứu tại nhà trường là lý luận căn bản giúp sinh viên có thể nắm bắt, đáp ứng được các đòi hỏi của công việc. Nhưng thực hiện như thế nào, quy trình cụ thể thế nào thì chỉ có những hoạt động trong thực tiễn mới có câu trả lời chính xác nhất.
Là một sinh viên của khoa Ngân hàng - Tài chính, trường Học Viện Ngân Hàng hệ cao đẳng, đối với em, thời gian thực tập cuối khoá học là dịp để tìm hiểu về thực tế, làm quen với quy trình công việc, bổ sung những kinh nghiệm mà mình còn thiếu. Trong thời gian này, em thực tập ở chi nhánh NHNO&PTNT Đống Đa. Tại đây em đã được tiếp xúc với nhiều vấn đề thực tế, em thấy rằng cho vay tiêu dùng là lĩnh vực đang ngày càng được mở rộng, nó sẽ là tiêu điểm cạnh tranh giữa các tổ chức tài chính trong tương lai và hứa hẹn mang lại nhiều lợi nhuận cho ngân hàng.
Thế nhưng lĩnh vực cho vay tiêu dùng lại là một lĩnh vực phức tạp, có nhiều đặc thù như là: các món vay nhỏ lẻ, phải dàn trải chi phí cho nhiều khoản vay, có mức độ rủi ro cao để có thể mở rộng cho vay tiêu dùng thật không đơn giản. Chính vì thế mà sau thời gian thực tập ở chi nhánh Đống Đa, em đã quyết định chọn đề tài chuyên đề thực tập là:
”Mở rộng cho vay tiêu dùng tại chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Đống Đa”.
Được sự giúp đỡ của các anh chị đang công tác tại chi nhánh NHNO&PTNT Đống Đa, em xin trình bày chuyên đề thực tập của mình gồm ba phần chính:
Chương 1: Cơ sở cho vay tiêu dùng tại NHTM.
Chương 2: Thực trạng cho vay tiêu dùng tại chi nhánh NHNO&PTNT Đống Đa
Chương 3: Giải pháp mở rộng cho vay tiêu dùng tại chi nhánh NHNO&PTNT Đống Đa
69 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 3509 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Mở rộng cho vay tiêu dùng tại chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Đống Đa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
Lời nói đầu 1
Chương 1: Cơ sở lý thuyết về cho vay tiêu dùng tại NHTM 2
1.1 Hoạt động cơ bản của NHTM 2
1.1.1 Khái niệm về NHTM 2
1.1.2 Các hoạt động cơ bản của NHTM 2
1.2 Hoạt động cho vay tiêu dùng tại NHTM. 5
1.2.1 Khái niệm về cho vay tiêu dùng. 5
1.2.2Đặc điểm cho vay tiêu dùng. 6
1.2.3 Những loại hình cho vay tiêu dùng. 6
1.2.4 Lãi suất và phương thức cho vay áp dụng cho các khoản cho vay tiêu dùng. 9
1.2.5 Quy trình nghiệp vụ cho vay tiêu dùng. 10
1.3 Các yếu tố ảnh hưởng tới việc mở rộng cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại. 16
1.3.1Các nhân tố thuộc về bản thân ngân hàng. 16
1.3.2 Nhóm các nhân tố thuộc về môi trường hoạt động của ngân hàng. 18
Chương 2: Thực trạng cho vay tiêu dùng tại chi nhánh NHNO&PTNT Đống Đa 20
2.1 Khái quát về chi nhánh NHNO&PTNT Đống Đa 20
2.1.1 Quá trình phát triển của chi nhánh Đống Đa 20
2.1.2 Cơ cấu tổ chức của chi nhánh Đống Đa 20
2.2 Thực trạng cho vay tiêu dùng tại chi nhánh NHNO&PTNT Đống Đa 26
2.2.1 Tình hình về hoạt động cho vay tiêu dùng tại Việt Nam. 26
2.2.2 Các văn bản pháp quy điều chỉnh hoạt động cho vay tiêu dùng tại chi nhánh Đống Đa 29
2.2.3 Các hình thức cho vay tiêu dùng đang áp dụng tại chi nhánh Đống Đa. .32
2.2.4 Phạm vi áp dụng và đối tượng cho vay 32
2.2.5Quy trình cho vay tiêu dùng tại chi nhánh Đống Đa 36
2.2.6 Phân tích tín dụng tiêu dùng. 37
2.2.7 Hợp đồng tín dụng. 42
2.2.8 Lãi suất và phương thức cho vay tiêu dùng. 42
2.3 Đánh giá về hoạt động cho vay tiêu dùng tại chi nhánh Đống Đa 43
2.3.1 Thành công 43
2.3.2 Những mặt còn hạn chế và nguyên nhân. 47
Chương 3: Giải pháp mở rộng cho vay tiêu dùng tại chi nhánh NHNO&PTNT Đống Đa. 51
3.1 Phương hướng cho vay của chi nhánh. 51
3.2 Giải pháp mở rộng cho vay tiêu dùng tại chi nhánh Đống Đa 51
3.2.1 Thiết lập một chính sách cụ thể về cho vay tiêu dùng. 51
3.2.2 Nâng cao chất lượng tín dụng tiêu dùng. 51
3.2.3 Tăng cường áp dụng sản phẩm mới. 52
3.2.4 Tiến hành công tác Marketing đối với hoạt động cho vay tiêu dùng. 52
3.2.5 Nâng cao hơn nữa trình độ cán bộ công nhân viên. 53
3.2.6 Các biện pháp tín chấp. 54
3.2.7 Mở rộng mạng lưới chi nhánh, phòng giao dịch đến các điểm tiêu dùng mạnh. 54
3.2.8 Hoàn thiện hệ thống dịch vụ tại chi nhánh Đống Đa. 55
3.3 Những đề xuất, kiến nghị. 56
3.3.1. Kiến nghị với Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước: 56
3.3.2. Kiến nghị đối với NHN0 & PTNT Việt Nam: 58
Kết Luận. 60
Lời nói đầu
Lĩnh vực ngân hàng được coi là lĩnh vực quan trọng, là chìa khoá cho sự phát triển của nền kinh tế. Tuy nhiên, lĩnh vực ngân hàng lại là lĩnh vực nhạy cảm và phức tạp, hoạt động ngân hàng đòi hỏi người tham gia phải có hiểu biết về chuyên môn và có những kinh nghiệm nhất định.
Để trở thành một cử nhân kinh tế, mỗi sinh viên không chỉ cần có kiến thức về lý thuyết mà còn cần những hiểu biết về thực tế. Những kiến thức được học tập, nghiên cứu tại nhà trường là lý luận căn bản giúp sinh viên có thể nắm bắt, đáp ứng được các đòi hỏi của công việc. Nhưng thực hiện như thế nào, quy trình cụ thể thế nào thì chỉ có những hoạt động trong thực tiễn mới có câu trả lời chính xác nhất.
Là một sinh viên của khoa Ngân hàng - Tài chính, trường Học Viện Ngân Hàng hệ cao đẳng, đối với em, thời gian thực tập cuối khoá học là dịp để tìm hiểu về thực tế, làm quen với quy trình công việc, bổ sung những kinh nghiệm mà mình còn thiếu. Trong thời gian này, em thực tập ở chi nhánh NHNO&PTNT Đống Đa. Tại đây em đã được tiếp xúc với nhiều vấn đề thực tế, em thấy rằng cho vay tiêu dùng là lĩnh vực đang ngày càng được mở rộng, nó sẽ là tiêu điểm cạnh tranh giữa các tổ chức tài chính trong tương lai và hứa hẹn mang lại nhiều lợi nhuận cho ngân hàng.
Thế nhưng lĩnh vực cho vay tiêu dùng lại là một lĩnh vực phức tạp, có nhiều đặc thù như là: các món vay nhỏ lẻ, phải dàn trải chi phí cho nhiều khoản vay, có mức độ rủi ro cao… để có thể mở rộng cho vay tiêu dùng thật không đơn giản. Chính vì thế mà sau thời gian thực tập ở chi nhánh Đống Đa, em đã quyết định chọn đề tài chuyên đề thực tập là:
”Mở rộng cho vay tiêu dùng tại chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Đống Đa”.
Được sự giúp đỡ của các anh chị đang công tác tại chi nhánh NHNO&PTNT Đống Đa, em xin trình bày chuyên đề thực tập của mình gồm ba phần chính:
Chương 1: Cơ sở cho vay tiêu dùng tại NHTM.
Chương 2: Thực trạng cho vay tiêu dùng tại chi nhánh NHNO&PTNT Đống Đa
Chương 3: Giải pháp mở rộng cho vay tiêu dùng tại chi nhánh NHNO&PTNT Đống Đa
Do điều kiện còn hạn chế nên một số công tác tại chi nhánh em không có điều kiện tìm hiểu sâu. Mặc dù có nhiều cố gắng song trong chuyên đề không thể tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong có sự góp ý của thầy, cô để bài viết trở lên hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cám ơn.
Sinh viên: Trần Trọng Nguyên
Chương 1: Cơ sở lý thuyết về cho vay tiêu dùng tại NHTM
1.1 Hoạt động cơ bản của NHTM
1.1.1 Khái niệm về NHTM
NHTM là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế. Ngân hàng bao gồm nhiều loại tuỳ thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế nói chung và hệ thống tài chính nói riêng, trong đó NHTM thường chiếm tỷ trọng lớn nhất về qui mô tài sản, thị phần và số lượng các ngân hàng. Hàng triệu cá nhân, hộ gia đình và các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế - xã hội đều gửi tiền tại ngân hàng. Ngân hàng đóng vai trò người thủ quỹ cho toàn xã hội. Thu nhập từ ngân hàng là thu nhập quan trọng của nhiều hộ gia đình. Ngân hàng còn là tổ chức cho vay chủ yếu đối với các doanh nghiệp, cá nhân, hộ gia đình và một phần đối với nhà nước.
Chính vì tầm quan trọng của ngân hàng mà hầu hết mọi người đều muốn hiểu về ngân hàng trước hết là một khái niệm đầy đủ, các ngân hàng có thể được định nghĩa qua chức năng, các dịch vụ hoặc vai trò mà chúng thực hiện trong nền kinh tế, vấn đề là các yếu tố trên đang không ngừng thay đổi. Thực tế, rất nhiều tổ chức tài chính, bao gồm cả các công ty kinh doanh chức khoán, quỹ tương hỗ và công ty bảo hiểm hàng đầu đều đang cố gắng cung cấp các dịch vụ của ngân hàng và ngược lại, ngân hàng cũng đang mở rộng phạm vi cung cấp dịch vụ về bất động sản và môi giới chứng khoán, tham gia hoạt động bảo hiểm, đầu tư vào quỹ tương hỗ và thực hiện nhiều dịch vụ môi giới khác. Các tiếp cận thận trọng nhất là có thể xem xét các tổ chức này trên phương diện những loại hình mà chúng cung cấp:”Ngân hàng là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiêm và dịch vụ thanh toán – và thực hiện nhiều dịch vụ tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế”. Một số định nghĩa dựa trên các hoạt động chủ yếu. Ví dụ, luật các tổ chức tín dụng của nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ghi: “Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung cấp các dịch vụ thanh toán”.
1.1.2 Các hoạt động cơ bản của NHTM
Ngân hàng là một doanh nghiệp cung cấp dịch vụ cho công chúng và doanh nghiệp. Thành công của ngân hàng phụ thuộc vào năng lực xác định các dịch vụ tài chính mà xã hội có nhu cầu, thực hiện các dịch vụ đó một cách có hiệu quả, đặc biệt là trong điều kiện danh mục dịch vụ của ngân hàng đang ngày càng mở rộng đến mức đôi khi ngân hàng còn được gọi là bách hoá tài chính.
1.1.2.1 Mua bán ngoại tệ.
Đây có thể coi là một trong những loại hình dịch vụ mà ngân hàng thực hiện đầu tiên ngay từ khi nó được hình thành trong lịch sử. Các ngân hàng mua, bán một loại tiền này lấy một loại tiền khác và hưởng phí dịch vụ.
1.1.2.2 Nhận tiền gửi.
Các ngân hàng không chỉ hoạt động dựa vào vốn tự có của mình mà các ngân hàng còn tìm mọi cách để huy động được tiền. Một trong những nguồn quan trọng là các khoản tiền gửi thanh toán và tiết kiệm của khách hàng. Ngân hàng mở dịch vụ nhận tiền gửi để bảo quản hộ người có tiền với cam kết hoàn trả đúng hạn. Trong cuộc cạnh tranh để tìm và giành được các khoản tiền gửi, các ngân hàng đã trả lãi cho tiền gửi như là phần thưởng cho khách hàng cho việc sẵn sàng hy sinh nhu cầu tiêu dùng trước mắt và cho phép ngân hàng sử dụng tạm thời để kinh doanh.
1.1.2.3 Cho vay
( Cho vay thương mại
Ngay ở thời kỳ đầu, các ngân hàng đã chiết khấu thương phiếu mà thực tế là cho vay với những người bán (người bán chuyển các khoản phải thu cho ngân hàng để lấy tiền trước). Sau đó ngân hàng cho vay trực tiếp đối với các khách hàng (là người mua), giúp họ có vốn để mua hàng dự trữ nhằm mở rộng sản suất kinh doanh.
(Cho vay tiêu dùng
Trong giai đoạn đầu hầu hết các ngân hàng không tích cực cho vay đối với cá nhân và hộ gia đình bởi vì họ tin rằng các khoản cho vay tiêu dùng có rủi ro vỡ nợ tương đối cao. Sự gia tăng thu nhập của người tiêu dùng và sự cạnh tranh trong cho vay đã hướng các ngân hàng tới người tiêu dùng như là một khách hàng tiềm năng. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, tín dụng tiêu dùng đã trở thành một trong những loại hình tín dụng tang trưởng nhanh nhất ở các nước có nền kinh tế phát triển.
(Tài trợ cho dự án
Bên cạnh cho vay truyền thống là cho vay ngắn hạn, các ngân hàng ngày càng trở nên năng động trong việc tài trợ trung, dài hạn: Tài trợ xây dựng nhà máy, phát triển ngành công nghệ kỹ thuật cao. Một số ngân hàng còn cho vay để đầu tư vào đất,
1.1.2.4 Bảo quản tài sản hộ
Các ngân hàng thực hiện việc lưu giữ vàng, các giấy tờ có giá và các tài sản khác cho khách hàng trong két (vì vậy còn gọi là dịch vụ cho thuê két). Ngân hàng thường giữ hộ những tài sản tài chính, giấy tờ cầm cố hoặc những giấy tờ quan trọng khác của khách hàng với nguyên tắc an toàn, bí mật, thuận tiện. Dịch vụ này phát triển cùng với nhiều dịch vụ khác như mua bán hộ các giấy tờ có giá cho khách, thanh toán lãi hoặc cổ tức hộ.
1.1.2.5 Cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán.
Khi khách hàng gửi tiền vào ngân hàng, ngân hàng không chỉ thực hiện bảo quản mà còn thực hiện các lệnh chi trả cho khách hàng. Thanh toán qua ngân hàng đã mở đầu cho thanh toán không dùng tiền mặt, tức là người gửi tiền không cần đến ngân hàng để lấy tiền mặt mà chỉ cần viết giấy chi trả cho khách, khách hàng mang giấy đến ngân hàng sẽ nhận được tiền. Các tiện ích của thanh toán không dùng tiền mặt (an toàn, nhanh chóng, chính xác, tiết kiệm chi phí) đã góp phần rút ngắn thời gian kinh doanh và nâng cao thu nhập cho khách hàng. Khi ngân hàng mở chi nhánh, phạm vi thanh toán qua ngân hàng được mở rộng, càng tạo nhiều tiện ích hơn. Điều này đã khuyến khích khách hàng gửi tiền vào để nhờ ngân hàng thanh toán hộ. Cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin, bên cạnh các thể thức thanh toán như séc, uỷ nhiệm chi, nhờ thu, L/C, đã phát triển các hình thức thanh toán mới bằng điện, thẻ…
1.1.2.6 Quản lý ngân quỹ
Các ngân hàng mở tài khoản và giữ tiền của phần lớn các doanh nghiệp, cá nhân. Nhờ đó, ngân hàng thường có mỗi liên hệ chặt chẽ với nhiều khách hàng. Do có nhiều kinh nghiệm trong quản lý ngân quỹ và khả năng trong việc thu ngân, nhiều ngân hàng đã cho khách hàng dịch vụ quản lý ngân quỹ, trong đó ngân hàng đồng ý quản lý thu chi cho một công ty kinh doanh và tiến hành đầu tư phần thặng dư tiền mặt tạm thời vào các chứng khoán sinh lợi và tín dụng ngắn hạn cho đến khi khách hàng cần tiền mặt để thanh toán.
1.1.2.7 Tài trợ các hoạt động của Chính phủ.
Khả năng huy động và cho vay với khối lượng lớn của ngân hàng đã trở thành trọng tâm chú ý của Chính phủ. Do nhu cầu chi tiêu lớn và thường là cấp bách trong khi thu không đủ, Chính phủ các nước đều muốn tiếp cận với các khoản cho vay của ngân hàng. Ngày nay, Chính phủ giành quyền cấp phép hoạt động và kiểm soát các ngân hàng. Các ngân hàng được cấp giấy phép thành lập với điều kiện là họ phải cam kết thực hiện với mức độ nào đó các chính sách của Chính phủ và tài trợ cho Chính phủ. Các ngân hàng thường mua trái phiếu Chinh phủ theo một tỷ lệ nhất định trên tổng lượng tiền gửi mà ngân hàng huy động được.
1.1.2.8 Bảo lãnh
Do khả năng thanh toán của ngân hàng cho một khách hàng rất lớn và do ngân hàng nắm giữ tiền gửi của khách hàng, nên ngân hàng có uy tín trong bảo lãnh cho khách hàng. Trong những năm gần đây, nghiệp vụ bảo lãnh ngày càng đa dạng và phát triển mạnh. Ngân hàng thường bảo lãnh cho khách hàng của mình mua chịu hàng hoá và trang thiết bị, phát hành chứng khoán, vay vốn của tổ chức tín dụng khác…
1.1.2.9 Cho thuê thiết bị trung và dài hạn(Leasing)
Nhằm để bán được các thiết bị, đặc biệt là các thiết bị có giá trị lớn, nhiều hãng sản suất và thương mại đã cho thuê. Cuối hợp đồng thuê, khách hàng có thể mua (do vậy còn gọi là hợp đồng thuê mua). Rất nhiều ngân hàng tích cực cho khách hàng quyền lựa chọn thuê các thiết bị, máy móc cần thiết, thông qua hợp đồng thuê mua, trong đó các ngân hàng mua thiết bị và cho khách hàng thuê với điều kiện khách hàng phải trả tới hơn 70% hoặc 100% giá trị của tài sản cho thuê. Do vậy cho thuê của ngân hàng cũng có nhiều điểm giống như cho vay và được xếp vào tín dụng trung dài hạn.
1.1.2.10 Cung cấp các dịch vụ uỷ thác và tư vấn.
Do hoạt động trong lĩnh vực tài chính, các ngân hàng có rất nhiều chuyên gia về quản lý tài chính. Vì vậy nhiều cá nhân và doanh nghiệp đã nhờ ngân hàng quản lý tài sản và quản lý tài chính hộ. Dịch vụ uỷ thác phát triển sang cả uỷ thác vay hộ, uỷ thác cho vay hộ, uỷ thác phát hành, uỷ thác đầu tư… Thậm chí các ngân hàng đóng vai trò là người được uỷ thác trong di chúc, quản lý tài sản cho khách hàng đã qua đời bằng công bố các tài sản, bảo quản các tài sản có giá. Nhiều khách hàng còn coi ngân hàng như một chuyên gia tư vấn tài chính. Ngân hàng sẵn sàng tư vấn về đầu tư, về quản lý tài chính, về thành lập, mua bán, sáp nhập doanh nghiệp.
1.1.2.11 Cung cấp các dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán
Nhiều ngân hàng đang phấn đấu cung cấp đầy đủ các dịch vụ tài chính cho phép khách hàng thoả mãn mọi nhu cầu. Đây là một trong những lý do chính khiến các ngân hàng bắt đầu bán các dịch vụ môi giới chứng khoán, cung cấp cho khách hàng cơ hội mua cổ phiếu, trái phiếu và các loại chứng khoán khác. Trong một vài trường hợp ngân hàng tổ chức ra công ty chứng khoán hoặc công ty môi giới chứng khoán để cung cấp dịch vụ môi giới chứng khoán.
1.1.2.12 Cung cấp các dịch vụ bảo hiểm
Từ nhiều năm nay, các ngân hàng đã bán bảo hiểm cho khách hàng, điều đó đảm bảo việc hoàn trả trong trường hợp khách hàng bị chết, bị tàn phế hoặc gặp rủi ro trong hoạt động, mất khả năng thanh toán. Ngân hàng liên doanh với công ty bảo hiểm hoặc tổ chức công ty bảo hiểm con , ngân hàng cung cấp dịch vụ tiết kiệm gắn với bảo hiểm như tiết kiệm an sinh, tiết kiệm hưu trí.
1.1.2.13 Cung cấp các dịch vụ đại lý
Nhiều ngân hàng trong quá trình hoạt động không thể thiết lập chi nhánh hoặc văn phòng ở khắp nơi. Nhiều ngân hàng (thường là ngân hàng lớn) cung cấp dịch vụ đại lý cho các ngân hàng khác như thanh toán hộ, phát hành hộ các chứng chỉ tiền gửi, làm ngân hàng đầu mối trong đồng tài trợ…
1.2 Hoạt động cho vay tiêu dùng tại NHTM.
1.2.1 Khái niệm về cho vay tiêu dùng.
Trên thực tế, cho vay tiêu dùng có thể được hiểu một cách rất đơn giản là hoạt động cho vay của ngân hàng đối với cá nhân và hộ gia đình nhằm mục đích tiêu dùng.
Cho vay tiêu dùng được bắt đầu từ các hãng bán lẻ do yêu cầu đẩy mạnh tiêu thụ hàng hoá, nhưng các ngân hàng đã liên tục phát triển và trở thành những tổ chức cung cấp tín dụng chính trong lĩnh vực cho vay tiêu dùng, đặc biệt là sau chiến tranh thế giới lần thứ hai. Một trong những nguyên nhân cơ bản khiến cho ngân hàng có được vị trí thống trị trên lĩnh vực này là ngân hàng đã không ngừng khai thác nguồn tiền gửi của dân cư và coi đây là nguồn vốn hoạt động quan trọng nhất.
Hơn nữa, theo một số nghiên cứu gần đây thì tín dụng tiêu dùng thường là một trong những khoản mục tài sản mang lại nhiều nhất cho các ngân hàng. Đến ngày nay các ngân hàng đang ngày càng tập trung 1 tỷ lệ ngày càng lớn nguồn vốn vào lĩnh vực cho vay tiêu dùng. Tuy nhiên dịch vụ cho vay mà ngân hàng cung cấp cho người tiêu dùng có thể là một trong những dịch vụ mang chi phí cao nhất với nhiều rủi ro nhất đối với ngân hàng vì tình hình tài chính của các cá nhân và hộ gia đình có thể thay đổi nhanh chóng tuỷ vào tình trạng công việc và sức khoẻ của họ. Chính vì lý do đó mà các khoản cho vay tiêu dùng phải được quản lý chặt chẽ và linh hoạt trước những vấn đề có liên quan.
Đặc điểm cho vay tiêu dùng.
Từ trước đến nay, cho vay tiêu dùng vẫn được các ngân hàng coi là khoản mục mang lại lợi nhuận khá cao với lãi suất “cứng nhắc”. Điều đó có nghĩa là nó đủ để bù đắp chi phí huy động vốn của ngân hàng, không như hầu hết các khoản cho vay kinh doanh hiện nay với lãi suất thay đổi theo điều kiện thị trường, như vậy với cho vay tiêu dùng ngân hàng phải chịu rủi ro về lãi suất khi chi phí huy động vốn tăng lên. Tuy nhiên, các khoản vay này thường được định giá rất cao (vì đã bao hàm một phần bù rủi ro lãi suất) đến mức mà bản thân lãi suất vay vốn trên thị trường lẫn tỷ lệ tổn thất tín dụng phải tăng lên đáng kể thì hầu hết các khoản tín dụng tiêu dùng mới không mang lại lợi nhuận.
Vậy tại sao các khoản tiêu dùng lại mang lãi suất cao? Một lý do chính đã được lý giải là vì các khoản mục cho vay tiêu dùng có chi phí lớn nhất và rủi ro cao nhất trong danh mục cho vay của ngân hàng. Cho vay tiêu dùng có tính nhạy cảm theo chu kỳ. Nó tăng lên trong thời kỳ nền kinh tế mở rộng,khi mà người dân cảm thấy lạc quan về tương lai. Ngược lại, khi nền kinh tế rơi vào suy thoái, rất nhiều cá nhân và hộ gia đình cảm thấy không tin tưởng nhất là khi họ thấy tình trạng thất nghiệp tăng lên và họ sẽ hạn chế việc mượn từ ngân hàng.
Hơn nữa khi vay tiền, người tiêu dùng dường như kém nhạy cảm với lãi suất. Người tiêu dùng quan tâm đến khoản tiền họ phải trả hàng tháng hơn là lãi suất (mặc dù rõ ràng chính lãi suất ghi trên hợp đồng ảnh hưởng đến quy mô số tiền được trả). Trong khi lãi suất không phải là một trong những yếu tố quan trọng mà hộ gia đình vay tiền quan tâm thì mức thu nhập và trình độ dân trí lại tác động rất lớn đến việc sử dụng các khoản tiền vay của người tiêu dùng. Những người có thu nhập cao có xu hướng vay nhiều hơn so với mức thu nhập hàng năm của mình. Những gia đình mà người chủ gia đình hay người tạo thu nhập chính có học vấn cao cũng vậy. Với họ, việc vay mượn là một công cụ để đạt được mức sống như mong muốn hơn là một lựa chọn chỉ được dùng trong tình trạng khẩn cấp.
1.2.3 Những loại hình cho vay tiêu dùng.
Trong khi số lượng các loại tín dụng tiêu dùng đang ngày càng tăng nhanh thì các loại hình cũng ngày càng đa dạng, việc phân loại cho vay tiêu dùng cũng có rất nhiều cách. Với mỗi tiêu thức sẽ đem lại một cách phân chia, chẳng hạn:
1.2.3.1 Phân loại cho vay tiêu dùng dựa vào mục đích (tiền vay sẽ được dùng vào việc gì).
Cho vay tiêu dùng cư trú.
Cho vay tiêu dùng cư trú là các khoản vay nhằm tài trợ cho nhu cầu mua sắm, xây dựng hay cải tạo nhà ở của khách hàng là cá nhân và hộ gia đình.
Cho vay tiêu dùng phi cư trú.
Cho vay tiêu dùng phi cư trú là các khoản vay nhằm tài trợ cho việc trang trải các chi phí mua sắm xe cộ, đồ dùng gia đình, chi phí gia đình, giải trí, du lịch,y tế...
1.2.3.2 Phân loại theo hình thức thanh toán (như loại cho vay đó sẽ được thanh toán làm nhiều lần hay thanh toán một lần khi đến hạn).
( Cho vay tiêu dùng trả góp.
Đây là hình thức cho vay tiêu dùng trong đó người đi vay trả các khoản tiền bằng nhau (bao gồm cả gốc và lãi) cho ngân hàng nhiều lần, theo những kỳ hạn nhất định trong thời hạn cho va. Phương thức này thường được áp dụng cho những món vay có giá trị lớn hoặc thu nhập định kỳ của người đi vay không đủ khả năng thanh toán một lần vay.
( Cho vay tiêu dùng trả một lần khi đến hạn.
Cho vay tiêu dùng phi trả góp là phương thức mà tiền vay sẽ được thanh toán cho khách hàng chỉ một lần khi đến hạn. Thông thường các khoản vay này có thời hạn nhỏ và thời gian không dài.
( Cho vay tiêu dùng tuần hoàn.
Theo phương thức này, ngân hàng sẽ cho phé