Công tác khai thác hoạt động khuyến mãi của Siêu Thị Bài Thơ

 Trưng bày tại nơi mua hàng: - Trên quan điểm người trung gian. - Trên quan điểm người tiêu dùng.  Phiếu mua hàng. - Các phương pháp phân phát phiêu mua hàng. - Thu hồi phiếu mua hàng  Quà tặng:là hàng được tặng miễn phí hoặc bán với giá rất thấp để kích thích tiêu thụ một món hàng nào đó. Quà tặng có thể gói chung hoặc đính kèm theo ngoài gói hàng chính. Còn bao bì món hàng có thể dùng được thì coi như quà tặng. Quà gởi bưu điện miễn phí là một món gởi tặng khách nếu họ gởi tới hang một bằng chứng là họ đã mua một món hàng nào đó của hàng. Quà tặng tự chọn là một món sẽ bán với giá hạ hơn bình thường cho khách nếu họ yêu cầu.  Hàng mẫu: Có khối lượng nhỏ và khuyến khích dùng thử. một số hàng mẫu miễn phí, một số khác thuộc loại tự thanh toán.(Công ty tính tiền giá thanh lý để bù lại chi phí làm hàng mẫu).  Thi có thưởng, trò chơi: Những trò chơi tạo cơ hội cho khách hàng, nhà buôn, hoặc lực lượng bán hàng đạt được cá gì đó tạo cơ hội may mắn cho họ do một nỗ lực nào đó  Ưu đãi người tiêu dùng.  Tặng phẩm quảng cáo.  Bao bì.

doc54 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2185 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Công tác khai thác hoạt động khuyến mãi của Siêu Thị Bài Thơ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phần I: Cơ sở lý luận. A. Hoạt động khuyến mãi trong chính sách truyền thông cổ động của doanh nghiệp thương mại: I. Khái niệm và ý nghĩa, vai trò khuyến mãi: 1. Khái niệm về khuyến mãi: 2. Ý nghĩa của khuyến mãi trong hoạt động truyền thông cổ động của doanh nghiệp: Đẩy nhanh người mua đến hành vi mua. Thu hút khách hàng mới: Giới thiệu một số sản phẩm mới hay dịch vu mới: Bù đắp việc giảm doanh thu theo mùa: Đối mặt với chương trình xúc tiến bán của các đối thủ cạnh tranh:: 3. Vị trí vai trò của khuyến mãi đối với kinh doanh thương mại: II. Những quyết định về khuyến mãi: 1. Mục đích của khuyến mãi:Tùy theo mục tiêu Marketing mà xác định mục tiêu cho chương trình khuyến mãi. Đối với mỗi đối tượng của xúc tiến người làm công tác Marketing sẽ có các mục tiêu riêng. Thông thường, khuyến mãi nhằm vào ba đối tượng chính là:Người tiêu dùng, trung gian phân phối và lực lượng bán hàng. 1.1. Đối với người tiêu dùng mục tiêu chính của khuyến mãi là: Mong muốn khách hàng dùng thử sản phẩm, qua đó lôi kéo hành vi mua của khách hàng. Giới thiệu một sản phẩm mới hoặc đã cải tiến. Khuyến khích sử dụng lại hoặc tiêu thụ nhiều hơn đối với những người đã và đang sử dụng sản phẩm. Làm cho khách hàng đến cửa hàng bán lẻ nhiều hơn. Tăng tỷ phần tiêu thụ của công ty trên thị trường. 1.2 Đối với người bán lẻ (trung gian phân phối) mục tiêu chính của khuyến mãi là: Kích thích các trung gian phân phối tăng lượng hàng đặt mua trong thời gian nhất định. Kích thích các trung gian phân phối chú ý hơn đến hàng hoá của Công ty. Làm cho các trung gian phân phối ưu tiên hơn cho Công ty trong việc bày bán hàng hóa cũng như kích thích chào hàng của Công ty. Cải thiện mối quan hệ làm ăn với các trung gian phân phối 1.3 Với lực lượng bán hàng mục tiêu chính của khuyến mãi là: Khuyến khích họ ủng hộ sản phẩm hay mẫu hàng. Cố gắng tìm khách hàng hơn & kích thích bán hàng mùa vắng khách. Tóm lại: Trong các mục tiêu của khuyến mãi, tùy theo từng thời kỳ, tùy vào mục tiêu truyền thông cổ động cho thị trường mục tiêu trước mắt hay lâu dài, tùy thuộc vào thời gian, không gian cụ thể, người làm khuyến mãi lựa chọn mục tiêu cho chương trình cụ thể khác nhau. Việc lựa chọn mục tiêu đúng hay sai phụ thuộc vào hiệu quả của khuyến mãi. 2. Lựa chọn công cụ khuyến mãi. 2.1 Khuyến mãi đối với người tiêu dùng. Trưng bày tại nơi mua hàng: Trên quan điểm người trung gian. Trên quan điểm người tiêu dùng. Phiếu mua hàng. Các phương pháp phân phát phiêu mua hàng. Thu hồi phiếu mua hàng Quà tặng:là hàng được tặng miễn phí hoặc bán với giá rất thấp để kích thích tiêu thụ một món hàng nào đó. Quà tặng có thể gói chung hoặc đính kèm theo ngoài gói hàng chính. Còn bao bì món hàng có thể dùng được thì coi như quà tặng. Quà gởi bưu điện miễn phí là một món gởi tặng khách nếu họ gởi tới hang một bằng chứng là họ đã mua một món hàng nào đó của hàng. Quà tặng tự chọn là một món sẽ bán với giá hạ hơn bình thường cho khách nếu họ yêu cầu. Hàng mẫu: Có khối lượng nhỏ và khuyến khích dùng thử. một số hàng mẫu miễn phí, một số khác thuộc loại tự thanh toán.(Công ty tính tiền giá thanh lý để bù lại chi phí làm hàng mẫu). Thi có thưởng, trò chơi: Những trò chơi tạo cơ hội cho khách hàng, nhà buôn, hoặc lực lượng bán hàng đạt được cá gì đó tạo cơ hội may mắn cho họ do một nỗ lực nào đó Ưu đãi người tiêu dùng. Tặng phẩm quảng cáo. Bao bì. 2.2 Khuyến mãi đối với người trung gian và nhân viên bán hàng. 2.2.1 Ưu đãi thương mại và trợ cấp khuyến mãi. Trợ cấp mua hàng: Theo thoả thuận trợ cấp mua hàng, người sản xuất đưa cho người trung gian một số tiền cụ thể (lượng tiền chiết khấu) để đổi lại người trung gian mua một số hàng cụ thể trong thời gian nhất định. Hình thức kích thích này sẽ tạo các đơn đặt hàng nhiều hơn bình thường từ người bán sĩ đến người bán lẻ.Thuận lợi của nhà sản xuất là tiêu thụ hàng hoá nhanh chóng, đây là công cụ chặn đứng cạnh tranh vì tăng được quy mô đặt hàng của Công ty. Người trung gian hưởng lợi từ việc hạ giá hàng mua mà không cần phải thoả mãn điều kiện gì của nhà sản xuất. Trợ cấp chuyển hàng: Để duy chuyển hàng hoá ra khỏi nhà kho và mang nó để vào nơi bày hàng bán lẻ (giảm khả năng đọng hàng), nhà sản xuất có thể đưa ra một ưu đãi thương mại được gọi là trợ cấp chuyển hàng. Người bán lẻ nhận tiền thanh toán cho mỗi đơn vị sản phẩm di chuyển từ nơi chứa hàng vào kho cửa hàng của người bán lẻ. Nhà sản xuất sẽ trả cho người bán lẻ một số tiền cụ thể cho mỗi đơn vị sản phẩm dự trữ được di chuyển. Giảm giá khi mua tiếp: Là một hình thức tiếp nối các ưu đãi thương mại khác. Giảm giá khi mua tiết có thể xảy ra ngay sau khi nhà sản xuất và người bán lẻ vừa hoàn thành thoả thuận trợ cấp chuyển hàng cuối kỳ. Giảm giá khi mua tiếp là một hình thức khuyến khích bằng tiền cụ thể cho việc mua mới hay mua thêm sản phẩm. Hàng tặng:các Nhà trung gian nhận được một số hàng miễn phí không phải bằng tiền cho việc mua lượng sản phẩm cụ thể hay một số sản phẩm khác của cùng nhà sản xuất. Phương pháp này tạo cho nhà trung gian một cơ hội để kiếm được lợi nhuận cao hơn thông qua việc bán các sản phẩm có được do mua miễn phí, nhưng lại không có hiệu quả đối với sản phẩm luân chuyển chậm bởi vì việc mua nhiều đơn giản là không thể làm tăng số lượng bán một mặt hàng như thế. Trợ cấp quảng cáo và trợ cấp trưng bày: Trợ cấp quảng cáo: Là các biện pháp khuyến khích những người trung gian cho việc quảng cáo một sản phẩm của nhà sản xuất. Thể hiện qua hình thức thành toán bằng tiền tương đương với % của tổng doanh số mua sản phẩm trong khoảng thời gian cụ thể. Để nhận được tiền trợ cấp quảng cáo, người trung gian phải cho người sản xuất bằng chứng cho biết việc quảng cáo thực sự đã thực hiện. Tiền thanh toán chỉ có được sau khi chứng minh được kết quả hoàn thành. Trợ cấp trưng bày: Dành cho người bán lẻ, những người xây dựng những nơi trưng bày đặc biệt cho các sản phẩm của nhà sản xuất, theo các tiêu chuẩn đã được xác định trong hợp đồng chính thức giữa hai bên. Trợ cấp trưng bày được sử dụng như một một biện pháp khuyến khích các nhà bán lẻ đề cao các sản phẩm của nhà sản xuất nào đó trong khu vực trưng bày hay quảng cáo của họ. 2.2.2 Quảng cáo hợp tác: là quảng cáo trong đó trách nhiệm và chi phí được chia xẻ cho hai hay nhiều nhà quảng cáo, thông thường theo tỷ lệ 50%, nhưng các bên tham gia có thể thoả thuận với nhau theo nhiều tỉ lệ khác. Mặt dù quảng cáo hợp tác là một động lực quan trong trong truyền thông cổ động, tuy nhiên quảng cáo hợp tác hiệu quả nhất khi được kết hợp với một chương trình quảng cáo mạnh mẽ trên phạm vi toàn quốc. Có hai loại quảng cáo hợp tác chính, quảng cáo hợp tác hàng ngang và quảng cáo hợp tác hàng dọc. Quảng cáo hợp tác hàng ngang: (quảng cáo liên kết) là quảng cáo được tài trợ chung bởi các nhóm đối thủ cạnh tranh hoạt động trong cùng một ngành. Các chiến dịch quảng cáo qua lại kích thích nhu cầu đầu tiên trong sản phẩm của ngành. Quảng cáo hợp tác theo hàng dọc: là loại quảng cáo được hầu hết các nhà sản xuất sử dụng. Nhà sản xuất thanh toán lại cho người trung gian một phần chi phí cho quảng cáo tại địa phương nhằm đề cao sản phẩm của nhà sản xuất. có nhiều cách thanh toán lại chi phí tuỳ theo khả năng sáng tạo của hai bên và khả năng thoả thuận các điều kiện. Khi một người bán lẻ kết hợp một số quảng cáo từ nhiều nhà sản xuất thành một nội dung quảng cáo trên một trang quảng cáo, mỗi nhà sản xuất phải chi trả một phần chi phí tương ứng trong tổng chi phí cho nhà bán lẻ. Hội thi: là một kỹ thuật khuyến mãi rất hữu ích trong việc kích thích nhân viên bán hàng và nhà phân phối Hội thi của lực lượng bán hàng: Hội thi bán hàng làm tăng động lực và tăng năng suất của lực lượng bán hàng thông qua lời kêu gọi cạnh tranh. Các hình thức khuyến khích thường thể hiện ở dạng giải thưởng bằng tiền mặt, hàng hoá, kỳ nghĩ mát, hay một sự ghi nhận thành thích hay phần thưởng đặt biệt. Hội thi bán hàng thể hiện bằng cách này hay cách khác cũng đều có chung mục đích là tăng doanh số và tăng khả năng sinh lời. Hai yếu tố quan trọng cần phải xem xét là thời gian của hội thi và tính chất cơ cấu giải thưởng. Hội thi của người trung gian: Hội thi bán hàng cũng động viên những người trung gian và các nhà phân phối. Sự cần thiết của nó cũng giống như hội thi của lực lượng bán hàng, nghĩa là phần thưởng càng có giá trị và cơ hội chiến thắng càng lớn thị biện pháp khuyến khích này càng hứa hẹn hiệu quả cao. 2.2.4.Hội nghị bán hàng: là phương tiện hiệu quả để phổ biến các thông tin và kích thích nỗ lực hơn nữa. Các hội thi bán hàng nhằm vào lực lượng bán hàng của Công ty hay các nhà trung gian của Công ty. Hội nghị lực lượng bán hàng Công ty: các hội nghị bán hàng nhắm vào lực lượng bán hàng có hai mục tiêu chủ yếu là: kích thích nhân viên bán hàng đạt kết quả thực hiện tốt hơn và thông tin những vấn đề mới cập nhật về các sản phẩm mới, các kế hoạch, các chương trình khuyến mãi và thủ tục công tác. Trong bối cảnh hiện nay hội nghị bán hàng là một diễn đàn tuyệt vời cho Công ty thực hiện nhiều mục tiêu cụ thể khác nhau. Hội nghị bán hàng dành cho người trung gian: Các hội nghị bán hàng của các nhà phân phối hay đại lý cũng có thể là công cụ khuyến mãi quan trọng, đặt biệt ở thời điểm mùa bán hàng .Các hội nghị bán hàng này thường được tổ chức theo khu vực, có cùng một mục đích như các hội nghị bán hàng của lực lượng bán hàng Công ty 2.2.5.Chào hàng: Tài liệu chào hàng là một hình thức khác của khuyến mãi. Nhà sản xuất phân phối chúng cho nhân viên bán hàng, người trung gian và các khách hàng của họ. Tài liệu 2.2.6.Hội chợ và triển lãm: Hội chợ triển lãm diễn ra hằng năm trên toàn quốc. Tại đây các nhà sản xuất chiêu thị vô số sản phẩm bao gồm xe ôtô thiết bị tàu biển, hàng thể thao, hàng gia đình,… hội chợ triển lãm đóng vai trò nổi bậc trong hàng công nghiệp, và chúng đang thành công trong thị trường người tiêu dùng. Tại đây các Công ty muốn giới thiệu sản phẩm mới, ký kết hợp đồng bán hàng, tạo nguồn khách hàng tiềm năng, thu hút các nhà phân phối mới, đề cao hình ảnh của Công ty, thực hiện nghiên cứu thị trường, quan sát các hoạt động cạnh tranh, huấn luyện nhân viên bán hàng, hay thu thập các thông tin phản hồi tại chỗ. Mặt dầu kết quả hoạt động bán hàng ngay lập tức có thể diễn ra như là kết quả trực tiếp của triển lãm thương mại, lý do cơ bản của việc tham dự các diễn đàn này là nhằm cung cấp cho thị trường chọn lọc những thông tin về sản phẩm và để thiết lập mối quan hệ với khách hàng triển vọng.Các nhà triển lãm dựng các gian hàng để trưng bày hàng hóa , biểu diễn sản phẩm, phân phối hàng mẫu, cung cấp tài liệu về sản phẩm, và thực hiện việc trình bày trước phương tiện truyền thông. 3. Triển khai chương trình khuyến mãi. 3.1 Quy mô và xây dựng chương trình khuyến mãi: Nhà làm tiếp thị phải quyết định sẽ hứa hẹn bao nhiêu. Cần có một kích thích tối thiểu nào đó nếu chương trình muốn thành công. Kích thích càng nhiều thì kết quả càng tăng nhưng với gia tốc giảm dần, do đó cần phải nghiên cứu chương trình khuyến mãi trước đây và cần kích thích phù hợp. Khi tiến hành khuyến mãi phải xác định rõ quy mô của đợt khuyến mãi cho phù hợp với lượng ngân sách đã xác định. Nếu quy mô lớn, Công ty sẽ gặp phải trở ngại tài chính. Nếu quy mô quá nhỏ, mục tiêu sẽ không thực hiện được, vấn đề xác định điều kiện của những người tham gia là vấn đề không thể thiếu được. 3.2 Điều kiện tham gia: Chương trình khuyến mãi có thể dành cho mọi người hoặc nhóm người nào đó. 3.3 Lựa chọn phương tiện phát thông điệp về chương trình khuyến mãi: Để các khách hàng mục tiêu có thể tham gia đợt khuyến mãi, người làm xúc tiến phải phát đi các thông điệp cần thiết. Tùy từng kỷ thuật khuyến mãi mà người ta chọn lựa các cách thức phát thông điệp cho phù hợp. 3.4 Thời hạn cổ động: Nếu thời gian quá ngắn, nhiều khách hàng tương lai sẽ không kịp tham gia. Vì có thể lúc đó họ chưa cần phải mua sắm lại mặt hàng ấy. Nếu thời gian quá dài, thì chương trình sẽ mất dần tính thúc đẩy “làm ngay”. Theo một nhà nghiên cứu thì tần số thuận lợi nhất là ba tuần trong một quý, và thời gian lý tưởng là theo chu kỳ mua sắm bình quân. 3.5 Thời điểm cổ động: Các quản trị viên hiệu hàng cần phải triển khai ngày tháng cho các chương trình cổ động. Những thời điểm đó sẽ được sử dụng bởi bộ phận sản xuất, bán hàng và phân phối. Một số chương trình ngoài kế hoạch có thể cũng cần có và đòi hỏi sự hợp tác lẫn nhau trong thời hạn ngắn. 3.6 Tổng kinh phí cho chương trình khuyến mãi: Kinh phí này có thể tính ra bằng hai cách. Nhà làm tiếp thị có thể chọn những cuộc cổ động (hoạt động đẩy mạnh tiêu thụ) và đánh giá tổng chi phí của nó. Cách tính thông thường là trích bách phân quy ước từ tổng kinh phí để chi cho khuyến mãi. 4. Tiến hành: Các công ty phải lập kế hoạch tiến hành mỗi chương trình khuyến mãi suốt từ lúc khởi công cho đến giai đoạn tiến hành. Khởi công là thời gian chủng bị chương trình trước khi thực thi. tiến hành là thời gian bắt đầu thực thi đến lúc kết thúc. 5. Đánh giá hiệu quả: Đánh giá là một đòi hỏi gay gắt, thế nhưng các Công ty coi việc đánh giá các chương trình khuyến mãi lại ít chú ý. Ngay cả khi tìm cách đánh giá thì cũng có vẻ như rất hời hợt. Còn đánh giá khả năng sinh lợi của Công ty lại càng ít thấy. Các nhà sản xuất thường sử dụng bốn phương pháp để đánh giá hiệu năng. Phương pháp thông thường nhất là so sánh doanh số trước, trong khi và sau khi chương trình khuyến mãi. Dữ liệu nhóm khách hàng sẽ cho thấy những loại khách đáp ứng với chương trình khuyến mãi và họ đã làm gì sau chương trình. Nếu cần nhiều thông tin hơn thì khảo sát khách hàng có thể được tiến hành để biết có bao nhiêu người nhớ tới chương trình, họ nghĩ gì về nó, bao nhiêu người được hưởng lợi từ nó, và nó có quyết định gì đến quyết định mua hàng sau này không. Các chương trình khuyến mãi cũng có thể được đánh giá qua những thử nghiệm với sự thay đổi về mức kích thích, thời gian tiến hành và cách phổ biến chương trình. B. Khái quát về siêu thị Khái niệm: Hiện nay Siêu Thị là loại hình doanh nghiệp thương mại bán lẻ khá phổ biến trên thế giới cũngnhư tại Việt Nam. Tuy nhiên, cho đến nay ở những nước khác nhau Siêu Thị được nhìn nhận ở nhiều quan điểm khác nhau: Ơ Mỹ, Siêu Thị được coi là cửa hàng tự phục vụ tương đối lớn có mức chi phí thấp, tỷ suất lợi nhuận không cao và khối lượng hàng hoá bán ra lớn, đảm bảo thảo mãn nhu cầu người tiêu dùng về thức phẩm, bột giặt, các chất tảy rửa và các mặt hàng chăm sóc nhà cửa. (Philip Kotler, Marketing căn bản). Ở Pháp, Siêu Thị được định nghĩa là của hàng bán lẻ theo phương thức tự phục vụ có diện tích từ 400 m2 đến 2500 m2 chủ yếu bán hàng thực phẩm Sự ra đời và ý nghĩa của Siêu Thị : Ngày nay sản xuất ngày càng nhiều, đôi khi vượt khỏi mức nhu cầu của giới tiêu thụ. Cho nên vấn đề thiết yếu không còn là vấn đề chế tạo hay sản xuất nữa, mà vấn đề là bán hàng, làm thế nào để tiêu thụ hết những kho hàng ngày càng ứ đọng. Riêng ngành quảng cáo tỏ ra cụ thể để thuyết phục khách hàng thông qua quảng cáo trực tiếp, quảng cáo nơi bán và nhất là truyền hình. Nhưng ngày nay trên thị trường ngày càng có nhiều xí nghiệp tương đương nhau trong sự cạnh tranh, cho nên người ta luôn lo sợ bởi: Những món hàng chế tạo giống nhau. Gía cả ngang nhau. Những điều kiện bán hàng trên thị trường cũng ngang nhau. Những dịch vụ sau khi bán hàng cũng không có gì khác nhau. Những phương tiện quảng cáo & tuyên truyền cũng không hơn kém… Chính đều này làm cho các xí nghiệp và các Công ty không có lối thoát. Cho nên, rốt cuộc lại chỉ có cách trình bày cũng như cách bán hàng là quan trọng hơn hết cho sự tiêu thụ hàng hóa. Một sự cạnh tranh lớn như vậy khó làm cho khách hàng chú ý tới, vì giữa các món hàng hay dịch vụ không có gì khác biệt lắm. Chính vì điều đó cho nên các xí nghiệp, Công ty nghiên cứu và phát minh ra những gì mới mẻ hơn để cạnh tranh, những xí nghiệp khác cũng như thế. Cuối cùng cái vòng lẩn quẩn không lối thoát là nghiên cứu, sản xuất, nghiên cứu, sản xuất. Ngày nay, trên thị trường đã có nhiều nhu cầu mới được thực hiện và hằng ngày có những hàng hoá mua từ nước ngoài về tiêu sài trong nước nhờ vào hệ thống giao thông mau lẹ, giá hạ. Những hàng hóa này tạo cho họ thói quen mua sắm, Người tiêu dùng chẳng những muốn hàng hóa làm ra trong sự đòi hỏi của họ mà họ còn muốn khỏi mất thời giờ trong việc mua sắm. Chính vì lẽ đó mà người ta đã phát minh ra lối bán “Super - market” (Siêu Thị). Chính cách bán theo lối này đã làm bớt đi nhiều thời giờ cho khách hàng, và người mua hàng khỏi lúng túng trước những câu hỏi dồn dập của người bán hàng. Cho nên Siêu Thị được giới tiêu thụ coi như là giải pháp lý tưởng nhất. Trình bày đẹp mặt, đi lại tự do, bầu không khí dễ chịu, giá rẻ, tất cả đã làm gia tăng sự bán hàng. Như vậy, chúng ta đã thấy rằng, những nhu cầu mới của thị trường đã thúc đẩy việc tạo ra những món hàng mới và những cách thức phổ biến hàng hóa có hiệu lực tối đa. Đặc trưng kinh doanh tại Siêu Thị: Siêu Thị là cửa hàng bán lẻ, thực hiện chức năng bán lẻ hàng hóa trực tiếp đến người tiêu dùng cuối cùng, được quy hoạch tổ chức kinh doanh một cách hiện đại và văn minh. Đặc trưng lớn nhất, nổi bật nhất là áp dụng phương thức hàng tự phục vụ nó được xem là cuộc đại cách mạng & sáng tạo kỳ diệu trong lĩnh vực thương mại bán lẻ. Hình ảnh các khách hàng có thể tự do lựa chọn hàng hóa mà không cần phải trả lời những câu hỏi dồn dập của người bán hàng, cách trưng bày đẹp mắt, giá rẻ, và đặc biệt là hệ thống tính tiền tự động luôn là biểu tượng cho những của hàng tự chọn. Hàng hóa gắn với mã vạch, dùng máy quét scan để đọc mã vạch và tính tiền trên ký hiệu mã vạch do nhà sản xuất quy định và tính tiền trên hóa đơn tự động. Hàng hóa trong Siêu Thị là những hàng tiêu dùng thông thường, với những chủng loại khác nhau. Thông thường một Siêu Thị có thể đáp ứng được 70 đến 80% nhu cầu hàng ngày của người tiêu dùng về thực phẩm, trang phục, mỹ phẩm, đồ gia dụng, đồ điện tử….. Phần II: Thực trạng công tác khai thác hoạt động khuyến mãi của Siêu Thị. A. Tổng quan về Siêu Thị BàiThơ. I. Các hoạt động kinh doanh. 1. Lịch sử hình thành và phát triển. Công ty TNHH BàiThơ (Bai Tho Copr) hiện đang được xem như là một trong những Công ty có tốc độ phát triển hàng đầu Việt Nam trong lĩnh vực kinh doanh Siêu Thị và phân phối hàng tiêu dùng thiết bị Siêu Thị. Công ty TNHH BàiThơ Đà Nẵng- một thành viên của BAITHOMAR CORP, được thành lập theo giấy phép kinh doanh số 3202000411 do sở kế hoạch đầu tư cấp vào 21 tháng 11 năm 2001 với một số thông tin sau: CÔNG TY TNHH BÀI THƠ ĐÀ NẴNG. Địa chỉ : 46 Điện Biên Phủ, Quận Thanh Khê – TP Đà Nẵng. Điện thoại : 0511.583024/26 Fax : 0511.853023. Email : baithocom@dng.vnn.vn Mã số thuế : 0400404695. Tài khoản : 710A.01022 tại Ngân Hàng Công Thương. Chi nhánh Công ty TNHH BàiThơ Đà Nẵng tại TP. Hồ Chí Minh. Trụ sở : 109/19 Hùng Vương. Điện Thoại : 08.8336692. Fax : 08.8350169. Ngày 30 tháng 01 năm 2002, Công ty chính thức khai trương tầng 1 và tầng 2 Trung Tâm Thương Mại Siêu Thị Đà Nẵng với thương hiệu “BAITHO MART”. Hiện tại có trên 240 CBNV đang làm việc tại Công ty, trong đó có 95% CBNV được hợp đồng lao động dài hạn, 2% đang trong thời gian thử việc và 3% đang ký hợp đồng lao động thời vụ. Tầm nhìn chiến lược: Thương hiệu “BAITHO” sẽ không ngừng phát triển để trở thành một thương hiệu mạnh đa ngành nghề, trên nền tảng của doanh nghiệp luôn hướng đến tính chuyên nghiệp cao trong quản lý và kinh doanh. Sứ mệnh của Công ty: Sứ mệnh BàiThơ là mang đến sự thỏa mãn ngày càng cao cho khách hàng thông qua khả năng sáng tạo, phục vụ hết mình của mỗi cá nhân và sức mạnh của tinh thần đồng đội Các hoạt động kinh doanh của Siêu Thị BàiThơ. Công ty TNHH BàiThơ hiện đang phân phối trên 50.000 mặt hàng thuộc các ngành hàng điện máy gia dụng, thuỷ tinh, phalê, sứ, kim khí, inox, nhựa da dụng, đồ chơi, đồ lưu niệm, hoá mỹ phẩm, thời trang, hàng thực phẩm….. sản phẩm của các hàng nổi tiếng trong nước và quốc tế. Với phương châm là “mang niềm vui đến mọi nhà” BàiThơ là tập đoàn đa ngành n