Đầu tư không chỉ là mối quan tâm hàng đầu của không chỉ Nhà nước mà cũng của các doanh nghiệp tham gia kinh doanh trong nền kinh tế. Làm thế nào để đầu tư có hiệu quả và đem lại lợi nhuận cao cho các doanh nghiệp và tăng trưởng kinh tế? Đây là vấn đề đã, đang và sẽ còn làm đau đầu lãnh đạo các doanh nghiệp cũng như các cơ quan quản lý.
Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường hiện nay, đặc biệt là khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của tổ chức Thương mại thế giới WTO, vấn đề đầu tư càng trở nên quan trọng và cấp thiết hơn đối với tất cả những ai đang và sẽ tham gia vào vòng quay khốc liệt của nền kinh tế trong thời kỳ hội nhập. Hiểu rõ tầm quan trọng ấy, đã có rất nhiều chuyên gia đặt và trả lời câu hỏi: làm thế nào để đầu tư đúng hướng và có hiệu quả? nhằm tạo ra những bước đột phá mới cho nền kinh tế. Tuy nhiên, thực tiễn đó kiểm nghiệm và cho thấy, không phải giải pháp nào đưa ra đều có tác dụng đối với sự phát triển, thêm vào đó, cùng với những bước tăng trưởng không ngừng của nền kinh tế trong khu vực và trên thế giới, các giải pháp hợp lý trong giai đoạn trước đó dần trở nên không còn phù hợp với những giai đoạn sau đó, do vậy việc nghiên cứu đề đưa ra những giải pháp mới phù hợp với thị trường hiện nay là một vấn đề vô cùng cấp thiết.
Như chúng ta đó biết, xu hướng đầu tư hiện nay ở đất nước ta cũng như trên thế giới chính là đầu tư chiều sâu kết hợp với đầu tư mở rộng sản xuất. Tuy vậy, không phải khi nào hai hình thức này cũng được kết hợp một cách có hiệu quả trong các doanh nghiệp và không phải chủ doanh nghiệp nào cũng có quan điểm đúng đắn về mối quan hệ của hai hình thức đầu tư này. Vậy thực trạng hai hình thức đầu tư này ở Việt Nam hiện nay ra sao? Làm thế nào để khắc phục được những mặt còn hạn chế trong thực trạng đó? Đây là vấn đề không chỉ tác động trực tiếp đến các doanh nghiệp mà còn tác động đến toàn bộ nền kinh tế của chúng ta. Đó chính là lý do mà chúng tôi, những sinh viên của chuyên ngành đầu tư đã chọn đề tài: “Mối quan hệ giữa đầu tư chiều rộng và đầu tư chiều sâu”làm đề tài nghiên cứu trong đề án môn học của mình.
Kết cấu đề án này gồm ba phần chính:
Phần I: Lý luận chung về đầu tư chiều rộng và đầu tư chiều sâu.
Phần II: Thực trạng đầu tư chiều rộng, đầu tư chiều sâu và mối quan hệ giữa đầu tư chiều rộng với đầu tư chiều sâu.
Phần III: Một số giải pháp nhằm kết hợp hài hoà giữa đầu tư chiều sâu và đầu tư chiều rộng.
53 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2011 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Mối quan hệ giữa đầu tư chiều rộng và đầu tư chiều sâu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Đầu tư không chỉ là mối quan tâm hàng đầu của không chỉ Nhà nước mà cũng của các doanh nghiệp tham gia kinh doanh trong nền kinh tế. Làm thế nào để đầu tư có hiệu quả và đem lại lợi nhuận cao cho các doanh nghiệp và tăng trưởng kinh tế? Đây là vấn đề đã, đang và sẽ còn làm đau đầu lãnh đạo các doanh nghiệp cũng như các cơ quan quản lý.
Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường hiện nay, đặc biệt là khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của tổ chức Thương mại thế giới WTO, vấn đề đầu tư càng trở nên quan trọng và cấp thiết hơn đối với tất cả những ai đang và sẽ tham gia vào vòng quay khốc liệt của nền kinh tế trong thời kỳ hội nhập. Hiểu rõ tầm quan trọng ấy, đã có rất nhiều chuyên gia đặt và trả lời câu hỏi: làm thế nào để đầu tư đúng hướng và có hiệu quả? nhằm tạo ra những bước đột phá mới cho nền kinh tế. Tuy nhiên, thực tiễn đó kiểm nghiệm và cho thấy, không phải giải pháp nào đưa ra đều có tác dụng đối với sự phát triển, thêm vào đó, cùng với những bước tăng trưởng không ngừng của nền kinh tế trong khu vực và trên thế giới, các giải pháp hợp lý trong giai đoạn trước đó dần trở nên không còn phù hợp với những giai đoạn sau đó, do vậy việc nghiên cứu đề đưa ra những giải pháp mới phù hợp với thị trường hiện nay là một vấn đề vô cùng cấp thiết.
Như chúng ta đó biết, xu hướng đầu tư hiện nay ở đất nước ta cũng như trên thế giới chính là đầu tư chiều sâu kết hợp với đầu tư mở rộng sản xuất. Tuy vậy, không phải khi nào hai hình thức này cũng được kết hợp một cách có hiệu quả trong các doanh nghiệp và không phải chủ doanh nghiệp nào cũng có quan điểm đúng đắn về mối quan hệ của hai hình thức đầu tư này. Vậy thực trạng hai hình thức đầu tư này ở Việt Nam hiện nay ra sao? Làm thế nào để khắc phục được những mặt còn hạn chế trong thực trạng đó? Đây là vấn đề không chỉ tác động trực tiếp đến các doanh nghiệp mà còn tác động đến toàn bộ nền kinh tế của chúng ta. Đó chính là lý do mà chúng tôi, những sinh viên của chuyên ngành đầu tư đã chọn đề tài: “Mối quan hệ giữa đầu tư chiều rộng và đầu tư chiều sâu”làm đề tài nghiên cứu trong đề án môn học của mình.
Kết cấu đề án này gồm ba phần chính:
Phần I: Lý luận chung về đầu tư chiều rộng và đầu tư chiều sâu.
Phần II: Thực trạng đầu tư chiều rộng, đầu tư chiều sâu và mối quan hệ giữa đầu tư chiều rộng với đầu tư chiều sâu.
Phần III: Một số giải pháp nhằm kết hợp hài hoà giữa đầu tư chiều sâu và đầu tư chiều rộng.
Chúng em xin chân thành cảm ơn Tiến sĩ Từ Quang Phương đã giúp đỡ em hoàn thành đề án này.
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ CHIỀU RỘNG
VÀ ĐẦU TƯ CHIỀU SÂU.
Những vấn đề cơ bản về đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu trong doanh nghiệp.
Khái niệm và phân loại đầu tư
Khái niệm đầu tư, đầu tư phát triển:
Đầu tư theo nghĩa rộng là sự hi sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về cho người đầu tư các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ để đạt được kết quả đó. Nguồn lực đó có thể là tiền, TNTN, là sức lao động và trí tuệ. Những kết quả đó có thể là sự tăng thêm các tài sản tài chính, tài sản vật chất và nguồn nhân lực có đủ điều kiện để là việc với năng suất cao hơn trong nền sản xuất xã hội.
Đầu tư theo nghĩa hẹp chỉ bao gồm những hoạt động sử dụng những nguồn lực hiện tại nhằm đem lại cho nền kinh tế xã hội những kết quả trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã sử dụng để đạt kết quả đó.
Phân loại hoạt động đầu tư
Theo bản chất của đối tượng đầu tư: Đầu tư cho các đối tượng vật chất, Đầu tư cho các đối tượng tài chính, đầu tư cho các đối tượng phi vật chất.
Theo cơ cấu tái sản xuất: Đầu tư chiều rộng, Đầu tư chiều sâu.
Theo phân cấp quản lý: Điều lệ quản lý đầu tư và xây dựng ban hành theo nghị định 12/CP tháng 4/2001 phân thành 3 nhóm A, B, C tùy theo tính chất và quy mô của dự án, trong đó nhóm A do Thủ tướng Chính phủ quyết định, nhóm B và C do Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan trực thuộc chính phủ, UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quyết định.
Theo lĩnh vực hoạt động trong xã hội của các kết quả đầu tư: Đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, Đầu tư phát triển khoa học kỹ thuật, Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng.
Theo đặc điểm hoạt động của các kết quả đầu tư: Đầu tư cơ bản, đầu tư vận hành.
Theo giai đoạn hoạt động của các kết quả đầu tư trong quá trình tái sản xuất xã hội: Đầu tư lĩnh vực lưu thông dịch vụ, đầu tư sản xuất.
Theo thời gian thực hiện và phát huy tác dụng để thu hồi vốn đã bỏ ra của các kết quả đầu tư: Đầu tư ngắn hạn, đầu tư dài hạn.
Theo quan hệ quản lý của chủ đầu tư: Đầu tư trực tiếp, đầu tư gián tiếp.
Theo nguồn vốn: Vốn huy động trong nước, Vốn huy động từ nước ngoài.
Theo vùng lãnh thổ: cách phân loại này phản ánh tình hình đầu tư của từng tỉnh, từng vùng kinh tế và ảnh hưởng của đầu tư đối với tình hình phát triển kinh tế - xã hội của từng địa phương.
Đặc điểm chung của hoạt động đầu tư phát triển:
Hoạt động ĐTPT mang đầy đủ những đặc điểm của hoạt động đầu tư, và nó có những đặc điểm riêng biệt khác
Hoạt động ĐTPT đòi hỏi một số vốn lớn và nằm khê đọng trong suốt qúa trình thực hiện đầu tư. Đây là cái giá phải trả khá lớn của ĐTPT.
Thời gian để tiến hành một công cuộc đầu tư cho đến khi các thành quả của nó phát huy tác dụng thường đòi hỏi nhiều năm, tháng với nhiều biến động xảy ra
Thời gian cần hoạt động để có thể thu hồi đủ vốn đã bỏ ra đối với các cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ sản xuất kinh doanh thường đòi hỏi nhiều năm tháng và do đó không tránh khỏi sự tác động hai mặt tích cực và tiêu cực của các yếu tố không ổn định về tự nhiên, xã hội, chính trị, kinh tế…
Các thành quả của hoạt động ĐTPT có giá trị sử dụng lâu dài nhiều năm, có khi hàng trăm , hàng ngàn năm và thậm chí tồn tại vĩnh viễn như các công trình kiến trúc nổi tiếng thế giới ( Kim Tự Tháp cổ Ai Cập, nhà thờ La Mã ở Rôm, Vạn lý trường thành ở Trung Quốc…). Điều này nói lên giá trị lớn của các thành quả ĐTPT.
Các thành quả của các hoạt động ĐTPT sẽ là các công trình xây dựng sẽ hoạt động ở nay nơi mà nó được tạo dựng nên. Do đó, các điều kiện về địa lý, địa hình tại đó ảnh hưởng rất lớn đến quá trình thực hiện đầu tư cũng như tác dụng sau này của các kết quả đầu tư
Mọi thành quả và hậu quả của quá trình thực hiện đầu tư chịu ảnh hưởng nhiều của các yếu tố không ổn định theo thời gian và điều kiện địa lý của không gian.
Để đảm bảo cho mọi công cuộc đầu tư đem lại hiệu quả kinh tế xã hội cao đòi hỏi phải làm tốt công tác chuẩn bị. Sự chuẩn bị này được thể hiện trong việc soạn thảo các dự án đầu tư (lập dự án đầu tư) có nghĩa là phải thực hiện đầu tư theo dự án được soạn thảo với chất lượng tốt nhất
Hoạt động đầu tư theo chiều rộng và đầu tư chiều sâu
Đầu tư theo chiều rộng.
Đầu tư theo chiều rộng là hình thức đầu tư trên cơ sở cải tạo và mở rộng cơ sở vật chất kỹ thuật hiện có, xây dựng mới nhưng với kỹ thuật công nghệ cơ bản như cũ.
Nội dung đầu tư theo chiều rộng bao gồm các hoạt động mua sắm máy móc thiết bị theo dây chuyền đã có từ trước, đầu tư xây dựng mới nhà cửa, cấu trúc hạ tầng theo thiết kế được phê chuẩn đầu tiên. Các nhà cửa, cấu trúc hạ tầng này là các tài sản cố định trước đây chưa có trong bảng cân đối TSCĐ của ngành, của doanh nghiệp.
Đầu tư chiều rộng có đặc điểm là: Trên cơ sở hiện đại, đầu tư mở rộng sản xuất nhưng cơ bản công nghệ không thay đổi. Tốc độ tăng của lao động thường lớn hơn hoặc bằng tốc độ tăng của vốn. Chi phí nguyên vật liệu, chi phí lao động thường là tăng tương ứng nhưng năng suất lao động có thể không tăng. Công nghệ thừơng là đầu tư vào những công nghệ sử dụng nhiều lao động, do đó năng suất lao động không cao. Đầu tư vào lao động và phương pháp quản lý ở mức độ vừa phải, không được quan tâm nhiều.
Đầu tư theo chiều sâu.
Đầu tư chiều sâu là hình thức đầu tư trên cơ sở nâng cấp đồng bộ hóa, hiện đại hóa cơ sở vật chất kỹ thuật hiện có, đầu tư mới nhưng với công nghệ và kỹ thuật hiện đại hơn mức trung bình tiên tiến của ngành, vùng.
Sự cần thiết khách quan phải có đầu tư theo chiều sâu:
Một chiến lược quan trọng trong quá trình CNH-HĐH đất nước là chú trọng phát triển các doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ, nhưng trong quá trình phát triển có nhiều vấn đề tồn tại: thị trường hạn hẹp, không ổn định, vốn ít, kỹ thuật công nghệ lạc hậu. Ngược lại do ít vốn nên không có khả năng đổi mới kỹ thuật công nghệ, do đó sản phẩm không cạnh tranh đựơc trên thị trường, không có thị trường. Bởi vậy cần thiết phải đầu tư chiều sâu, phát triển năng lực sản xuất nhằm nâng cao năng suất, hạ giá thành sản phẩm để sản phẩm của doanh nghiệp có thể chiến thắng được trong cạnh tranh.
Đường lối phát triển kinh tế nước ta là tiến hành CNH-HĐH với phương châm lấy khoa học công nghệ làm nền tảng, lấy hiệu quả KT-XH làm tiêu chuẩn cơ bản để xác định phương hướng phát triển. Do đó cần phải phát triển đầu tư chiều sâu, coi đó là động lực trực tiếp thúc đẩy tiến trình CNH-HĐH.
ĐTCS nhằm khai thác tối đa khả năng hiện có của các doanh nghiệp, rút ngắn khoảng cách tiến tới kỹ thuật sản xuất tiên tiến, công nghệ hiện đại, đạt hiệu quả KT-XH cao nhất, tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý của nền sản xuất hiện đại phù hợp yêu cầu về trình độ tăng trưởng kinh tế trong những năm tiếp theo.
Nội dung đầu tư chiều sâu bao gồm: cải tạo, nâng cấp, đồng bộ hóa, hiện đại hóa dây chuyền công nghệ hiện có thay thế dây chuyền công nghệ cũ; đầu tư phát triển nguồn nhân lực; đầu tư vào khâu thiết yếu nhất trong dây chuyền công nghệ; đầu tư để tổ chức lạ bộ máy quản lý, phương pháp quản lý của doanh nghiệp.
Một số yêu cầu cơ bản đối với quá trình đầu tư chiều sâu:
Lấy hiệu quả của kinh doanh làm động lực trực tiếp và lấy hiệu quả KT-XH làm tiêu chuẩn cơ bản để định hướng phát triển, lựa chọn dự án đầu tư và phướng hướng công nghệ đảm bảo chống thất thoát và lãng phí về vốn đầu tư và thu hồi nhanh trên cơ sở tốc độ hao mòn vô hình và hữu hình của máy móc thiết bị.
Khai thác tối đa năng lực hiện có của kỹ thuật công nghệ đặc biệt là kết hợp giữa công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại, đồng thời tập trung vào khâu quyết định đến khả năng cạnh tranh của sản phẩm
Không gây ra ô nhiễm môi trường: chất thải, khí độc…
Đầu tư chiều sâu có đặc điểm là: nó gắn liền với hoạt động đổi mới kỹ thuật công nghệ nhưng phải đồng nhất. Trong đầu tư chiều sâu, tốc độ tăng vốn lớn hơn tốc độ tăng của lao động. Đầu tư chiều sâu thừơng dẫn đến giảm chi phí sản xuất, tăng năng suất lao động và nâng cao được hiệu quả sử dụng vốn.
Như vậy qua sự phân tích này, chúng ta có thể rút ra rằng: tiêu chí cơ bản để phân loại hoạt động đầu tư chiều rộng và đầu tư chiều sâu chính là mối quan hệ giữa tốc độ tăng vốn với tốc độ tăng lao động, trình độ thiết bị công nghệ đưa vào đầu tư. Đầu tư chiều sâu được hiểu trên hai khía cạnh:
- Đầu tư chiều sâu là hoạt động đầu tư tập trung vào khâu khai thác công trình để đồng bộ hóa hoặc hiện đại hóa dây chuyền công nghệ
- Đầu tư chiều sâu được hiểu theo ngắn hạn giữa hiện đại hóa sản xuất với nâng cao năng lực sản xuất. Nội dung chủ yếu của hoạt động đầu tư chiều sâu là đổi mới công nghệ và nâng cao trình độ sử dụng máy moc thiết bị công nghệ mới. Tuy nhiên ta không thể đồng nhất 2 khái niệm đó mà chỉ có thể hiểu đầu tư chiều sâu và đổi mới công nghệ có quan hệ mật thiết, hữu cơ, và luôn luôn đi liền với nhau. Đầu tư chiều sâu là nhân tố quyết định đổi mới công nghệ, tạo điều kiện và khả năng cho đổi mới công nghệ. Đổi mới công nghệ là nôi dung, là phương thức tiến hành hoạt động đầu tư chiều sâu có hiệu quả.
Mối quan hệ giữa đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu trong doanh nghiệp.
Đầu tư chiều rộng là nền cơ sở, là bước đi đầu tiên để đầu tư chiều sâu
Trước hết, có thể khẳng định rằng đầu tư theo chiều rộng là nền tảng, cơ sở để doanh nghiệp đầu tư chiều sâu có hiệu quả.
Đối với hầu hết các doanh nghiệp khi bước đầu thành lập đều phải tiến hành đầu tư theo chiều rộng để tạo nền tảng cơ bản cho doanh nghiệp đi vào hoạt động. Đó chính là đầu tư vào xây dựng cơ sở hạ tầng nhà xưởng, mua sắm máy móc thiết bị, thuê công nhân... Rồi chính trên nền tảng ban đầu đó, doanh nghiệp sẽ tiến hành đầu tư theo chiều sâu như hiện đại hóa, đổi mới công nghệ, áp dụng khoa học công nghệ tiên tiến, đào tạo nâng cao trình độ tay nghề cũng như quản lý của người lao động... Như vậy, đầu tư theo chiều rộng đóng vai trò rất lớn đối với hoạt động đầu tư theo chiều sâu của doanh nghiệp sau này.
Nếu xét cụ thể đối với một doanh nghiệp trẻ, mới thành lập thì đầu tư theo chiều rộng chiếm chủ yếu bởi doanh nghiệp cần chú trọng xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cơ bản để có thể tiến hành sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, không phải vì vậy mà sản phẩm của doanh nghiệp trẻ kém tính cạnh tranh hơn, bởi họ có cơ hội áp dụng những công nghệ tiên tiến nhất, xây dựng được cơ sở ban đầu hoàn thiện đồng bộ hơn. Chính vì vậy, lợi thế này sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trẻ sau này tiến hành đầu tư theo chiều sâu có hiệu quả bởi họ đã có một nền tảng khá hiện đại.
Đối với một doanh nghiệp đã có vị thế trên thị trường thì việc kết hợp giữa đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu một cách hợp lý sẽ đem lại hiệu quả cao cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp phải tiến hành đầu tư theo chiều rộng để duy trì năng lực kinh doanh, giữ được uy tín và thị phần của mình. Như vậy, có nghĩa là doanh nghiệp bỏ vốn đầu tư thay thế máy móc, thiết bị đã quá cũ, tu sửa, cải tạo nhà xưởng... Hay doanh nghiệp mở rộng hoạt động sản xuất để đáp ứng nhu cầu của thị trường như xây dựng thêm nhà máy mới, mua thêm dây truyền sản xuất... Mặt khác, trước tình hình cạnh tranh ngày càng gay gắt buộc doanh nghiệp phải lưu ý đầu tư chiều sâu để tăng tính cạnh tranh cho sản phẩm của mình, như đổi mới công nghệ, đổi mới cơ chế quản lý, hay nâng cao trình độ tay nghề cho công nhân... Để từ đó tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm. Tóm lại, doanh nghiệp phải kết hợp một cách khoa học và khéo léo đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu mới đem lại lơi ích lâu dài và cào nhất cho doanh nhiệp.
Đầu tư chiều sâu tiếp tục tạo ra những tiền đề để đầu tư chiều rộng ở những phương diện mới
Đầu tư theo chiều sâu là động lực thúc đẩy doanh nghiệp phát triển sản xuất, tiếp tục tiến hành đầu tư theo chiều rộng.
Khi doanh nghiệp thực hiện đầu tư theo chiều sâu có hiệu quả sẽ nâng cao chất lượng sản phẩm với giá thành ngày càng rẻ hơn, tăng tính cạnh tranh trên thị trường, đem lại lợi nhuận cao cho doanh nghiệp và từ đó doanh nghiệp nâng cao được tỷ lệ tích lũy tạo ra nguồn lực mới để doanh nghiệp có thể mở rộng cơ sở sản xuất, tăng khối lượng sản phẩm phục vụ khách hàng, và từ đó cũng giải quyết thêm công ăn việc làm cho người lao động – một vấn đề mà nếu chỉ đầu tư theo chiều rộng thì không thể đạt được.
Mặt khác, đầu tư theo chiều sâu có hiệu quả sẽ tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp có thể đầu tư nghiên cứu và sản xuất các sản phẩm mới hoặc các lĩnh vực kinh doanh có tiềm năng. Đầu tư theo chiều sâu có hiệu quả sẽ tạo đà cho doạnh nghiệp có thể chuyển từ đơn sản phẩm thành đa sản phẩm, hay từ đơn lĩnh vực thành đa lĩnh vực, qua đó doanh nghiệp lại tiếp tục đầu tư chiều rộng ở những phương diện mới. Và từ đó, doanh nghiệp có thể khẳng định được vị thế của mình trên thị trường, duy trì tốc độ tăng trưởng, đồng thời không ngừng phát triển cả về chiều sâu lẫn chiều rộng. Nhu cầu của thị trường là rất đa dạng, biến động, yêu cầu ngày càng cao về mọi mặt nên đòi hỏi doanh nghiệp phải luôn linh hoạt trong vấn đề phối kết hợp đầu tư theo chiều rộng và chiều sâu.
Đầu tư chiều sâu và đầu tư chiều rộng không tách rời nhau, đan xen và bổ sung lẫn nhau trong quá trình thực hiện chiến lược đầu tư phát triển của doanh nghiệp và đầu tư chiều sâu là chiến lược đầu tư lâu dài của doanh nghiệp
- Đầu tư chiều rộng và đầu tư chiều sâu có mối quan hệ tác động qua lại, hỗ trợ và kiềm chế nhau. Không phải lúc nào đầu tư theo chiều rộng cũng có tác dụng là động lực thúc đẩy đầu tư theo chiều sâu. Đầu tư theo chiều rộng không hợp lý, tràn lan đôi khi lại hạn chế hiệu quả của hoạt động đầu tư theo chiều sâu của doanh nghiệp.
Thứ nhất, khi cơ sở vật chất do đầu tư chiều rộng tạo ra không phù hợp và đồng bộ như nhà xưởng xây dựng không đúng quy cách, hay dây chuyền máy móc nhập lúc đầu quá lạc hậu hay quá tiên tiến, sự chênh lệch về trình độ công nghệ quá lớn giữa các bộ phận sản xuất... sẽ dẫn đến tình trạng làm cho đầu tư theo chiều sâu không phát huy được hiệu quả, gây lãng phí, thất thoát. Doanh nghiệp không thể phát triển lên được nếu đứng trên một nền móng không vững vàng hay không phù hợp với mình.
Thứ hai, tiềm lực của mỗi doanh nghiệp là có hạn, do đó, đầu tư theo chiều rộng một cách tràn lan, không đồng bộ, không có trọng tâm, trọng điểm sẽ làm hạn chế vốn và nguồn lực để doanh nghiệp đầu tư theo chiều sâu. Bởi một trong những đặc điểm của đầu tư theo chiều rộng đó là vốn lớn, thời gian khê đọng vốn dài nên một khi doanh nghiệp phân tán nguồn lực của mình, mở rộng nhà xưởng, thêm công nhân, dây chuyền sản xuất, tăng khối lượng sản phẩm càng nhiều càng tốt... thì không có đủ điều kiện để đầu tư theo chiều sâu. Như vậy, khi đó doanh nghiệp sẽ bị giảm tính cạnh tranh trên thị trường do không nâng cao chất lượng của sản phẩm, năng suất lao động thấp hơn, giá thành cao.
Doanh nghiệp luôn phải cân nhắc cẩn thận khi đầu tư để có hiệu quả kinh doanh cao nhất sao cho đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu hỗ trợ lẫn nhau, phát huy ưu điểm và hạn chế nhược điểm của mỗi loại hình đầu tư.
- Ngược lại, đầu tư chiều sâu không hiệu quả sẽ làm cho doanh nghiệp không có đủ điều kiện để tiếp tục đầu tư chiều rộng, mở rộng sản xuất.
Khi đầu tư theo chiều sâu không đạt được hiệu quả, sản phẩm sản xuất ra không đáp ứng được nhu cầu của thị trường: giá thành quá cao, sản phẩm quá hiện đại khó sử dụng, hoặc sản phẩm đã trở nên lỗi thời với nhu cầu xã hội ngày càng phát triển hiện nay... sẽ gây lãng phí về vốn đầu tư của doanh nghiệp mà không mang lại hiệu quả kinh tế nào. Do vậy, doanh nghiệp sẽ rất khó cạnh tranh với các doanh nghiệp khác trên thị trường.
Đầu tư theo chiều sâu không có hiệu quả khiến doanh nghiệp không thu được lợi nhuận cao, thậm chí thất thu nên tỷ lệ tích lũy của doanh nghiệp là rất thấp. Hâu quả là doanh nghiệp vừa bị mất tính cạnh tranh trên thương trường vừa bị thiệt hại về nguồn lực vì thế doanh nghiệp sẽ rất khó khăn để có thể mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
Tóm lại, đầu tư chiều rộng và đầu tư chiều sâu có mối quan hệ vô cùng mật thiết. Hoạt động đầu tư này góp phần tăng hiệu quả của hoạt động đầu tư kia và ngược lại. Do đó, để thực hiện đầu tư có hiệu quả nhất thiết các doanh nghiệp cần xem xét đầy đủ, chú trọng một cách đúng mức, nghiên cứu kỹ lưỡng để phối hợp một cách hợp lý hai hoạt động đầu tư này trong hoạt động của mình, tạo nên sức cạnh tranh, chỗ đứng vững chắc trong nền kinh tế thị trường hiện nay.
Các tiêu chí để đánh giá và phân tích hiệu quả của đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu trong doanh nghiệp.
Hệ thống các chỉ tiêu đánh gía hiệu quả.
Đối với các doanh nghiệp (chủ đầu tư thì hoạt động đầu tư có thể có các mục tiêu khác nhau tuỳ theo quan điểm của chủ đầu tư nhưng nhìn chung thì có hai nhóm mục tiêu chính. Nhóm mục tiêu kinh tế với lợi nhuận là mục tiêu bao trùm nhất, tổng quát nhất. Nhóm mục tiêu xã hội: gồm có tăng thu nhập quốc dân, tạo việc làm và làm các lợi ích công cộng khác…Những nhóm chỉ tiêu này lại được thể hiện dưới hai cách thức khác nhau, đó là định lượng và định tính.
Để có thể lựa chọn một dự án đầu tư có hiệu quả nhất cần phải lựa chọn giữa các dự án đầu tư thông qua một hệ thống các chỉ tiêu hiệu quả phản ánh khả năng, mức độ sinh lời của dự án, mức độ đáp ứng những mục tiêu KT-XH đã được đặt ra.
Nhóm các chỉ tiêu định lượng.
Nhóm các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh
Chỉ tiêu NPV (giá trị hiện tại ròng)
Chỉ tiêu này cho ta biết quy mô số tiền sinh lời của dự án đầu tư sau khi đã hoàn trả đủ vốn. Tiền lời nói ở đây cũng bao gồm có khấu hao và lãi suất ròng hiệu quả hàng năm, tức là thu hồi