Nước Việt Nam là một đất nước chịu nhiều ảnh hưởng của Trung Quốc
bởi quả trình đồng hóa trên tất cả các phương diện của chúng, nền tư tưởng chính
trị nho giáo đã trở thành khuôn mẫu chuẩn mực trong các quan hệ xã hội. Tuy
hình thái kinh tế xã hội phong kiến và những tàn dư về mặt chính trị đã khép lạ i
hơn nửa thế kỉ nhưng những quan niệm những định kiến hình thành trong giai
đoạn đó vẫn còn dai dẳng cho đến ngày hôm nay. Một trong những định kiến đó
chính là việc coi thường vị thế và tầm quan trọng của phụ nữ, “trai thì năm thê
bảy thiếp, gái chính chuyên chỉ có một chồng”, hoặc tài sản trong gia đình là
thuộc về người đàn ông , người phụ nữ mặc nhiên không có quyền được sở hữu
chúng cho dù chính họ làm ra, một khi người chồng chết đi, nếu muốn đi bước
nữa người phụ nữ phải ra đi trắng tay, không được mang theo bất cứ tài sản nào
khác. Kể từ sau Cách mạng tháng Tám vị thế và sức ảnh hưởng của người phụ
nữ trong xã hội đã nâng lên một tầm cao mới.C ũng từ đó quyền và lợi ích hợp
pháp của họ đã được xác lập và được bảo hộ bởi pháp luật. Ngày nay khi xã hội
Việt Nam đã có nhiều bước chuyển biến nhất là trong nền kinh tế, từ nền kinh tế
quan lieu bao cấp sang nền kinh tế thị trường , thì những vấn đề xã hội như hôn
nhân và gia đình cũng ngày một phức tạp hơn. Quan niệm về hôn nhân cũng vì
thế mà mở rộng hơn, một khi tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể
kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được thì vợ và chồng có thể li hôn để
đảm bao cho cuộc sống của cả hai và của con cái. Khi li hôn xảy ra phần lớn sự
thiệt thòi thuộc về người phụ nữ, kể cả về vật chất lẫn tinh thần, chính vì vậy đặt
ra một vấn đề là làm sao để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người vợ
trong việc chia tài sản của vợ chồng khi li hôn
16 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 3331 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Bài tập lớn môn luật hôn nhân gia đình, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bài t p l n cu i kì môn Lu t hôn nhân gia đình Vi t Nam
Nguy n Th Kim Cúc – 351823 - Nhóm 8 1
Đề tài:
“Bài tập lớn môn Luật Hôn nhân gia đình”
Bài t p l n cu i kì môn Lu t hôn nhân gia đình Vi t Nam
Nguy n Th Kim Cúc – 351823 - Nhóm 8 2
LỜI MỞ ĐẦU:
Nước Việt Nam là một đất nước chịu nhiều ảnh hưởng của Trung Quốc
bởi quả trình đồng hóa trên tất cả các phương diện của chúng, nền tư tưởng chính
trị nho giáo đã trở thành khuôn mẫu chuẩn mực trong các quan hệ xã hội. Tuy
hình thái kinh tế xã hội phong kiến và những tàn dư về mặt chính trị đã khép lại
hơn nửa thế kỉ nhưng những quan niệm những định kiến hình thành trong giai
đoạn đó vẫn còn dai dẳng cho đến ngày hôm nay. Một trong những định kiến đó
chính là việc coi thường vị thế và tầm quan trọng của phụ nữ, “trai thì năm thê
bảy thiếp, gái chính chuyên chỉ có một chồng”, hoặc tài sản trong gia đình là
thuộc về người đàn ông , người phụ nữ mặc nhiên không có quyền được sở hữu
chúng cho dù chính họ làm ra, một khi người chồng chết đi, nếu muốn đi bước
nữa người phụ nữ phải ra đi trắng tay, không được mang theo bất cứ tài sản nào
khác. Kể từ sau Cách mạng tháng Tám vị thế và sức ảnh hưởng của người phụ
nữ trong xã hội đã nâng lên một tầm cao mới.Cũng từ đó quyền và lợi ích hợp
pháp của họ đã được xác lập và được bảo hộ bởi pháp luật. Ngày nay khi xã hội
Việt Nam đã có nhiều bước chuyển biến nhất là trong nền kinh tế, từ nền kinh tế
quan lieu bao cấp sang nền kinh tế thị trường , thì những vấn đề xã hội như hôn
nhân và gia đình cũng ngày một phức tạp hơn. Quan niệm về hôn nhân cũng vì
thế mà mở rộng hơn, một khi tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể
kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được thì vợ và chồng có thể li hôn để
đảm bao cho cuộc sống của cả hai và của con cái. Khi li hôn xảy ra phần lớn sự
thiệt thòi thuộc về người phụ nữ, kể cả về vật chất lẫn tinh thần, chính vì vậy đặt
ra một vấn đề là làm sao để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người vợ
trong việc chia tài sản của vợ chồng khi li hôn.
Bài t p l n cu i kì môn Lu t hôn nhân gia đình Vi t Nam
Nguy n Th Kim Cúc – 351823 - Nhóm 8 3
NỘI DUNG:
1.Thực trạng của vấn đề bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người vợ
trong việc chia tài sản của vợ chồng khi li hôn.
1.1.Thực trạng xã hội:
Xã hội phát triển , những vấn đề về tài sản và sở hữu tài sản cũng phát
triển hết sức đa dạng với tính chất ngày càng phức tạp hơn. Quan hệ của vợ
chồng về tài sản cũng không nằm ngoài qui luật đó.Đặc biệt vấn đề li hôn cũng
xảy ra nhiều hơn và các vụ tranh chấp tài sản trong li hôn cũng diễn biến ngày
một phức tạp hơn và mang tính chất xã hội.
Theo một công trình nghiên cứu xã hội học của tiến sỹ Nguyễn Minh Hòa
(Trường Đại học KHXH&NV Thành phố Hồ Chí Minh) thì tỷ lệ ly hôn ở Việt
Nam chiếm 31 - 40%, tức là cứ ba cặp kết hôn lại có một cặp ly hôn. Đáng chú ý
là 60% số vụ ly hôn này thuộc về các gia đình trẻ, tuổi vợ chồng chỉ từ 23 -
30.(Theo VTC News ngày 17/1/2007). Lí do để dẫn đến việc li hôn vô cùng đa
dạng, tuy nhiên hai người thường có thái độ che giấu vì vậy việc tìm hiểu nguyên
nhân chính để hòa giải là vô cùng khó khăn. Bên cạnh đó vấn đề chia tài sản khi
li hôn lại cũng là một vấn đề nan giải không kém, bởi khi đó tình cảm vợ chồng
không còn nữa vì vậy mà lợi ích vật chất lại được đặt lên hàng đầu. Tuy nhiên
khi giải quyết các vụ li hôn có liên quan tới tài sản thường thì người phụ nữ sẽ là
người bị thiệt thòi hơn. Khá nhiều trường hợp người vợ ở nhà, người chồng là
người chủ yếu tạo ra thu nhập chính cho gia đình, vì vậy khi li hôn căn cứ vào
công sức đóng góp, đương nhiên người chồng sẽ được nhiều hơn. Cũng có
những trường hợp người chồng giao tài sản riêng cho một người khác đứng tên
hoặc nhờ một người nào đó tạo hợp đồng tặng cho giả tạo những tài sản riêng
của mình, khi đó mặc dù tài sản tạo ra trong thời kì hôn nhân nhưng trên pháp lí
Bài t p l n cu i kì môn Lu t hôn nhân gia đình Vi t Nam
Nguy n Th Kim Cúc – 351823 - Nhóm 8 4
đó chỉ của riêng người chồng. Hoặc người vợ có đi làm, nhưng thu nhập lại dùng
cho việc chi tiêu trong gia đình dẫn đến những tài sản lớn thì do chồng đứng tên
và trên thực tế thì nó được mua bởi tiền của anh ta, khi đó tài sản sẽ khó mà chia
đôi theo nguyên tắc chia tài sản… Đây chỉ là một số trường hợp tổng kết lại trên
thực tế, mang tính chất tổng quát nhưng chúng ta đã thấy phần thiệt thòi về tài
sản hầu hết là rơi vào người phụ nữ, người vợ khi li hôn.
1.2.Thực trạng pháp luật Việt Nam:
1.2.1. Sơ lược về pháp luật Việt Nam trong vấn đề bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của người vợ trong việc chia tài sản của vợ chồng khi li hôn
Tuy chịu nhiều ảnh hưởng của Trung quốc nhưng lịch sử của chúng ta đã
chứng minh rằng dân tộc Việt Nam có những đặc điểm riêng mà quả trình đồng
hóa cũng không lấy mất được đó là việc không hoàn toàn đặt người phụ nữ thuộc
loại “những công cụ lao động biết nói”. Điều đó được thể hiện rõ ràng trong bộ
luật Hồng Đức. Pháp luật quy định cụ thể ở các điều 374, 375 và 376 (Quốc triều
hình luật). Tài sản của vợ chồng được hình thành từ 3 nguồn: Tài sản của chồng
thừa kế từ gia đình nhà chồng; tài sản của người vợ thừa kế từ gia đình nhà vợ
và tài sản do hai vợ chồng tạo dựng trong quá trình hôn nhân (tài sản chung).
Khi gia đình tồn tại, tất cả tài sản được coi là của chung. Khi ly hôn, tài sản của
ai, người đó được nhận riêng và chia đôi tài sản chung của hai người.Đối với tài
sản do hai người tạo ra cũng chia làm hai phần bằng nhau: một phần dành cho
vợ/chồng làm của riêng; một phần dành cho vợ/chồng chia ra như sau: 1/3 dành
cho gia đình nhà chồng/vợ để lo việc tế lễ; 2/3 dành cho vợ/chồng để phụng
dưỡng một đời, không được làm của riêng, khi chết giao lại cho gia đình bên
chồng. "Quốc triều hình luật" không nhắc tới động sản, chỉ đề cập tới điền sản,
theo Vũ Văn Mẫu: "Điểm này cũng dễ hiểu vì trong một nền kinh tế trọng nông,
các động sản khác chỉ là những vật có ít giá trị". Đây là một điểm tiến bộ trong
Bài t p l n cu i kì môn Lu t hôn nhân gia đình Vi t Nam
Nguy n Th Kim Cúc – 351823 - Nhóm 8 5
việc bảo đảm quyền lợi hợp pháp về tài sản của người phụ nữ thời phong
kiến.(1)
Tuy đã có những điểm tiến bộ như thế nhưng đó chỉ là trên pháp lí còn trên thực
tế người phụ nữ thời phong kiến ở Việt Nam vẫn luôn bị đe dọa và xâm hại tới
quyền và lợi ích hợp pháp của mình về tài sản. Cuộc cách mang tháng tám thành
công đem đến cho không chỉ toàn thể nhân dân Việt Nam tự do mà đối với người
phụ nữ thực sự đó là một cuộc cách mạng giải phóng, xã hội đã công nhận quyền
bình đẳng của phụ nữ và nam giới, trên cơ sở đó quyền bình đẳng của vợ và
chồng trong quan hệ hôn nhân về nhân thân và tài sản cũng được xác lập.
- Luật hôn nhân gia đình năm 1959
“Điều 19:Khi ly hôn, việc chia tài sản sẽ căn cứ vào sự đóng góp về công sức
của mỗi bên, vào tình hình tài sản và tình trạng cụ thể của gia đình. Lao động
trong gia đình được kể như lao động sản xuất.
Khi chia phải bảo vệ quyền lợi của người vợ, của con cái và lợi ích của việc sản
xuất.”
- Luật hôn nhân gia đình năm 1986
Điều 42 mục d:
d) Khi chia tài sản, phải bảo vệ quyền lợi của người vợ và của người con chưa
thành niên, bảo vệ lợi ích chính đáng của sản xuất và nghề nghiệp.
- Luật hôn nhân gia đình năm 2000
Mục b khoản 2 điều 95
Bài t p l n cu i kì môn Lu t hôn nhân gia đình Vi t Nam
Nguy n Th Kim Cúc – 351823 - Nhóm 8 6
b) Bảo vệ quyền , lợi ích hợp pháp của vợ con chưa thành niên hoặc đã bị
tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có
tài sản để tự nuôi mình;
Như vậy luật hôn nhân gia đình tuy đã được sử đổi thành các bộ luật mới qua
các năm 1959, 1986, 2000 nhưng luôn nhấn mạnh tới việc bảo vệ quyền và lợi
ích của người phụ nữ. Tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với đường lối cuả Đảng và
chính sách của chính phủ việc bảo vệ người phụ nữ trong xã hội đã có những
bước phát triển vượt bậc, một trong những điểm tích cực đó chính là đã nghiêm
túc đặt quyền và lợi ích hợp pháp về tài sản cho người phụ nữ khi li hôn xảy ra,
điều này đã giúp cho người phụ nữ chủ động hơn trong việc tạo lập cuộc sống
mới ngay sau nỗi buồn tinh thần.
1.2.2. Pháp luật đương đại:
- Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 ghi nhận:
“Điều 52: Mọi công dân có quyền bình đẳng trước pháp luật”;
“Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế của công dân”
Đây là những chế định đầu tiên, là tiền đề cho việc khẳng định người phụ nữ
được đứng ngang tầm với người đàn ông trong xã hội, có quyền lợi và nghĩa vụ
tương đương với nhau.
- Cũng trên cơ sở tiến bộ đó, cùng với việc kế thừa và phát triển những
điểm tích cực trong luật hôn nhân gia đình 1959, 1980 luật Hôn nhân gia đình
năm 2000 đã qui định:
“ Điều 19: Bình đẳng về nghĩa vụ và quyền giữa vợ chồng
Bài t p l n cu i kì môn Lu t hôn nhân gia đình Vi t Nam
Nguy n Th Kim Cúc – 351823 - Nhóm 8 7
Vợ chồng bình đẳng với nhau,có nghĩa vụ và quyền ngang nhau về mọi mặt
trong gia đình”
Nội dung của điều luật này có ý nghĩa rất rộng, nhưng nếu xét trên góc độ mà bài
luận đang nghiên cứu thì có thể thấy rằng điều này có nội hàm là không vì lí do
ai là người tạo ra thu nhập trực tiếp cho gia đình để tạo sự bất bình đẳng trong
quan hệ giữa vợ và chồng ,đồng thời cũng không thể vì một lí do nào đó để trốn
tránh trách nhiệm đối với gia đình của bản thân mình và khi li hôn xảy ra, sự
bình đẳng này rất cần thiết trong vấn đề chia tài sản.
- Chương X luật Hôn nhân gia đình 2000 có ghi rõ:
Khoản 2 điều 85: “ Trong trường hợp vợ có thai hoặc đang nuôi con dưới mười
hai tháng tuổi thì chồng không có quyền yêu cầu xin li hôn.”
Khoản 2 điều 95 về việc chia tài sản chung được giải quyết theo các nguyên tắc:
a) “Tài sản chung của vợ chồng về nguyên tắc được chia đôi, nhưng có xem
xét hoàn cảnh của mỗi bên, tình trạng tài sản, công sức đóng góp của mỗi bên
vào việc tạo lập duy trì, phát triển tài sản này. Lao động của vợ chồng trong gia
đình được coi như lao động có thu nhập;
b) Bảo vệ quyền , lợi ích hợp pháp của vợ con chưa thành niên hoặc đã bị
tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có
tài sản để tự nuôi mình;
c) Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất kinh doanh và nghề
nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao đọng tạo thu nhập;
Bài t p l n cu i kì môn Lu t hôn nhân gia đình Vi t Nam
Nguy n Th Kim Cúc – 351823 - Nhóm 8 8
d) Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật theo giá trị; bên nào
nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì
phải thanh toán cho bên kia phần giá trị chênh lệch.”
Nếu như khoản 2 điều 85 qui định mang nặng tính tình cảm ( trong lúc mang thai
và nuôi con nhỏ người phụ nữ cần được thoải mái về mặt tinh thần và cần nhận
được sự chăm sóc của người khác nhất là đối với chồng của họ) thì trong khoản
2 điều 95 lại bảo vệ người phụ nữ trên phương diện vật chất, nhấn mạnh tới một
nguyên tắc trong việc chia tài sản đó là phải bảo về quyền và lợi ích hợp pháp
của vợ. Bởi hơn ai hết các nhà làm luật hiểu rằng khi hôn nhân tan vỡ thì lao
động tìm thu nhập để nuôi con và ổn định cuộc sống chính là cách nhanh nhất
giúp người phụ nữ có thể vượt qua khó khăn.Đó cũng chính là qui định thể hiện
rất rõ tính chất nhân đạo của Luật Hôn nhân gia đình Việt Nam.Đây là chế định
quan trọng nhằm pháp luật hóa đường lối chủ trương của Đảng nhà nước trong
việc xây dựng một xã hội bình đẳng, bảo vệ người phụ nữ. Có thể nhận thấy
những qui định pháp luật về vấn đề bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của
người vợ trong việc chia tài sản của vợ chồng khi li hôn ở Việt Nam ngày càng
có những điểm tiến bộ và hoàn thiện hơn, trực tiếp tác động đến việc giải quyết
các vấn đề tranh chấp tài sản khi li hôn. Bên cạnh đó tại điều 60 qui định nghĩa
vụ cấp dưỡng giữa vợ và chồng khi li hôn như sau: “Khi li hôn, nếu bên khó
khăn, túng thiếu có yêu cầu cấp dưỡng mà có lí do chính đáng thì bên kia có
nghĩa vụ cấp dưỡng theo khả năng của mình”, điều này qui định có thể thấy
phục vụ hầu như cho lợi ích của người vợ bởi trên thực tế người phụ nữ thường
rơi vào tình trạng túng thiếu về tiền bạc để tạo lập cuộc sống.
Ngoài ra trong luật Đất đai cũng qui định tất cả những giấy tờ, đăng ký tài
sản gia đình bao gồm cả quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở phải được ghi
cả tên vợ và chồng, đây là yếu tố pháp luật mang tính tiến bộ, là sự minh chứng
Bài t p l n cu i kì môn Lu t hôn nhân gia đình Vi t Nam
Nguy n Th Kim Cúc – 351823 - Nhóm 8 9
cho sự bình đẳng giới giữa vợ và chồng nó cũng là cơ sở pháp lí quan trọng để
phân chia tài sản là bất động sản cho vợ chồng khi li hôn.
“Nhìn vào chế độ tài sản và mức độ bảo vệ người phụ nữ được qui định
trong pháp luật của nhà nước người ta có thể nhận biết được trình độ phát triển
của các điều kiện kinh tế xã hội và ý chí của nhà nước cùng với đó là sự thể hiện
bản chất của chế độ xã hội đó.” Trong công cuộc xây dựng chế độ xã hội chủ
nghĩa cùng với việc giải phóng con người là nhiệm vụ giải phóng người phụ nữ,
vì thế luật về hôn nhân gia đình nước ta luôn có một chế đinh quan trọng dù cho
hoàn cảnh xã hội thì vẫn tồn tại đó là bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ.
Những chế định nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người vợ
trong việc chia tài sản của vợ chồng khi li hôn là cơ sở pháp lí hợp thức hóa việc
bảo vệ người phụ nữ để giải quyết vụ li hôn có liên quan tới chia tài sản mang
tính phức tạp, không những tạo cơ sở vật chất để tạo lập cuộc sống mới cho
người phụ nữ mà còn nhằm bảo vệ quyền lợi của con cái trong trường hợp người
vợ chăm sóc nuôi dưỡng.
Tuy nhiên cũng không phải là không có những điểm hạn chế. Điểm hạn
chế đó một phần xuất phát cũng từ khách quan bởi lẽ pháp luật và các qui định là
có hạn nhưng các sự vệc trong thực tế lại muôn hình vạn trạng nên dĩ nhiên các
điều luật thường mang tính khái quát chung chung không cụ thể, chính bởi tính
chất khái quát đó mà đẫn đến một thực trạng là đôi khi áp dụng không chính xác
hoặc cũng có khi các đương sự dựa vào đó mà “lách luật”. Từ đó có thể thấy
pháp luật cần cụ thể hơn trong từng trường hợp có tính chất phổ biến để bảo vệ
quyền và lợi ích của người vợ khi chia tài sản li hôn.Một điểm nữa là khi hôn
nhân tồn tại vấn đề sở hữu tài sản giữa vợ và chồng được coi là một vấn đề tế
nhị, bên cạnh đó không hề có bản kê khai tài sản riêng trong quá trình hôn
Bài t p l n cu i kì môn Lu t hôn nhân gia đình Vi t Nam
Nguy n Th Kim Cúc – 351823 - Nhóm 8 10
nhân.Khi li hôn xảy ra thì tính chất tranh chấp về măt tài sản càng quyết liệt hơn,
gây khó khăn cho công việc tìm chứng cứ của tòa án…
2. Nguyên nhân:
2.1. Nguyên nhân về mặt lịch sử kinh tế - xã hội:
Sau hàng nghìn năm Bắc thuộc, một trong những hậu quả nặng nề nhất mà
quá trình đồng hóa để lại là vấn đề phân biệt đối sử đối với người phụ nữ. Nền tư
tưởng pháp lí Nho giáo đã ăn sâu bén rễ vào tiềm thức của mỗi con người, trở
thành những “thói quen” về quan điểm không dễ gì thay đổi. Tuy hình thái kinh
tế xã hội phong kiến ở đâu trên khắp thế giới cũng có sự phân biệt giai cấp và
giới tính, cũng có những thời điểm sự phân biệt đó đã dâng lên đến đỉnh điểm
nhưng phải nói rằng chính nền Nho giáo đã khiến cho sự phân biệt đó vẫn tồn tại
dai dẳng cho đến ngày hôm nay ở các nước Châu Á như Trung Quốc , Việt
Nam…
Việt Nam là một nước đang phát triển, trình độ của lực lượng lao động
còn chưa cao, điều đó cũng ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của mỗi gia đình
mà đặc biệt là người phụ nữ. Thu nhập không nhiều nên người phụ nữ, người vợ
trong gia đình phải lao động nhiều hơn để chăm sóc gia đình, phải hi sinh nhiều
lợi ích của bản thân để lo cho cuộc sống ấy. Thời đại kinh tế thị trường hôn nhân
đôi khi lại mang tính vụ lợi, không loại trừ khả năng đây là một trong những
nguyên nhân dẫn đến tình trạng li hôn để tranh chấp tài sản, nhìn nhận khách
quan thì có những trường hợp lỗi lại thuộc về người vợ tuy nhiên người phụ nữ
là một thành tố cần có sự bảo vệ của xã hội xuất phát từ những đặc điểm của họ,
mà chủ yếu qui định bởi thiên chức làm vợ và làm mẹ của người phụ nữ.
Tuy nhiên ta có thể nhận thấy rằng pháp luật Việt Nam ngày càng thể hiện
những điểm tiến bộ của mình việc qui định đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp
Bài t p l n cu i kì môn Lu t hôn nhân gia đình Vi t Nam
Nguy n Th Kim Cúc – 351823 - Nhóm 8 11
cho bà mẹ trẻ em, cụ thể là tại mục b khoản 2 điều 95, điều luật này cho thấy tính
chất nhân đạo của pháp luật Việt Nam. Có được thành quả đó là do đường lối
chủ trương của Đảng Nhà nước, trong vấn đề bảo vệ người phụ nữ cũng không
thể phủ nhận công lao của Hồ Chủ tịch, trong quá trình hoạt động cách mạng và
sau này là xây dựng đát nước Người luôn đề cao vai trò của người phụ nữ và
đảm bảo lợi ích cho họ.
2.2. Nguyên nhân từ bản thân người vợ trong gia đình:
Kể từ khi loài người xuất hiện người phụ nữ đã đảm nhận một thiên chức
cao cả đó là tạo ra thế hệ mới cho xã hội, quyết định sự tồn vong nhân loại, đây
cũng chính là một trong những nguyên do khiến cho người phụ nữ được tôn
trọng trong xã hội nguyên thủy, tạo ra cả một thời đại mẫu hệ quyền lực. Tuy
nhiên kết quả của 3 lần phân công lao động đã khiến cho người phụ nữ mất dần
quyền năng và phải chấp nhận chế độ mới là chế độ phụ hệ.Cũng từ đó, người
phụ nữ mặc nhiên trở thành phái yếu trong xã hội. Chưa bao giờ giá trị của người
phụ nữ lại bi đát như khi loài người trải qua thời đại chiếm hữu nô lệ hay phong
kiến, ở đó người phụ nữ bị coi là món hàng hóa, là thứ công cụ lao động biết nói
để xã hội chà đạp. Là phái yếu, là chân yếu tay mềm, người phụ nữ không thể
đảm nhận những công việc nặng nhọc hay nguy hiểm, lại cũng không có thế lực
nào bảo vệ nên hộ hoàn toàn rơi vào thế bị động. Cho đến nay mặc dù xã hội đã
phát triển rất cao nhưng sự bình đẳng ấy vẫn chưa thể nào triệt để. Như vậy là
bởi lẽ thiên chức của người phụ nữ là sinh con và chăm sóc gia đình. Lấy một ví
dụ cụ thể về một người phụ nữ hiện đại: học xong phổ thông là 18 tuổi, trung
bình học 4 năm đại học là 22 tuổi, làm việc 2 năm nữa là 24 tuổi rồi kết hôn, sinh
2 con mất 10 năm nữa là đã 34 tuổi, mới chỉ nói đến độ tuổi dã thấy người phụ
nữ thiệt thòi nhiều vì cũng trong từng ấy thời gian, đa phần họ không thể nâng
cao kiến thức của mình được. Chưa kể đến sức khỏe cũng bị giảm sút nhiều,
Bài t p l n cu i kì môn Lu t hôn nhân gia đình Vi t Nam
Nguy n Th Kim Cúc – 351823 - Nhóm 8 12
trung bình cứ sau một lần sinh đẻ người phụ nữ sẽ bị loãng xương 20%, mất máu
tới 40%, chính vì thế họ ít có khả năng để theo đuổi nghề nghiệp của mình.
Trong khi đó đàn ông có thể làm bất cứ những việc mà họ muốn làm, không bị
hạn chế thời gian cho gia đình vì vậy đương nhiên sẽ kiếm được nhiều tiền hơn.
Một trong những nguyên nhân dẫn đến việc người vợ sẽ bị thiệt thòi về
mặt tài sản khi li hôn là do có một bộ phận người phụ nữ thường ở nhà chăm sóc
gia đình đảm nhận công việc nội trợ và không làm bên ngoài. Theo một số liệu
thống kê về phân công lao động trong gia đình thì lao động sản xuất chính tới
24,8% trong khi đó người vợ chỉ là 11,5 % và cả hai người là 48,1%. Như vậy có
thể thấy người chồn chiếm ưu thế hơn về việc là lao động chính trong gia
đình.(2) Dĩ nhiên họ không trực tiếp tạo ra tài sản cho gia đình, cho nên tài sản
đó dễ thuộc về người chồng bởi pháp luật có qui định “tài sản chung của vợ
chồng về nguyên tắc được chia đôi, nhưng có xem xét hoàn cảnh của mỗi bên,
tình trạng tài sản, công sức đóng góp của mỗi bên vào việc tạo lập duy trì, phát
triển tài sản này”.Cũng chính bởi có những trường hợp như trên nên có qui định:
“ Lao động của vợ chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập”.
Qui định này trực tiếp bảo đảm về mặt tài sản cho những “bà nội trợ” khi li hôn
xả