Đề tài Bồi dưỡng năng lực cảm thụ văn học cho học sinh giỏi lớp 5

Từ xa xưa ông cha ta đã khẳng định: "Ngôn ngữ là công cụ của tư duy". Ngôn ngữ của con người phát triển chứng tỏ tư duy phát triển. Để giúp học sinh có tư duy phát triển thì hiện nay trong nhà trường Tiểu học môn Tiếng Việt càng được coi trọng cả về nội dung và phương pháp giảng dạy. Để học sinh có được các kĩ năng trên thông qua các giờ Từ ngữ, Ngữ pháp, Tập làm văn thì chưa đủ mà học sinh cần được bồi dưỡng về năng lực cảm thụ văn trong các giờ tập đọc và trong các buổi ngoại khoá. Bởi học sinh có cảm thụ văn tốt thì mới hiểu được ý nghĩa của bài văn, bài thơ, đoạn văn, đoạn thơ.và mới thấy được nét đẹp của thơ văn làm cho tâm hồn các em thêm phong phú.

pdf22 trang | Chia sẻ: lecuong1825 | Lượt xem: 10630 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Bồi dưỡng năng lực cảm thụ văn học cho học sinh giỏi lớp 5, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
0 PHÒNG GIÁO DỤC – ĐÀO TẠO THAN UYÊN TRƯỜNG TIỂU HỌC SỐ 1 XÃ MƯỜNG THAN TỔ KHỐI 5 -------- SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỀ TÀI: BỒI DƯỠNG NĂNG LỰC CẢM THỤ VĂN HỌC CHO HỌC SINH GIỎI LỚP 5 Họ và tên người thực hiện: Lê Thanh Nhung Chức vụ: Giáo viên Năm thực hiện: 2012 - 2013 1 PHẦN MỞ ĐẦU I. Lý do chọn đề tài Từ xa xưa ông cha ta đã khẳng định: "Ngôn ngữ là công cụ của tư duy". Ngôn ngữ của con người phát triển chứng tỏ tư duy phát triển. Để giúp học sinh có tư duy phát triển thì hiện nay trong nhà trường Tiểu học môn Tiếng Việt càng được coi trọng cả về nội dung và phương pháp giảng dạy. Để học sinh có được các kĩ năng trên thông qua các giờ Từ ngữ, Ngữ pháp, Tập làm văn thì chưa đủ mà học sinh cần được bồi dưỡng về năng lực cảm thụ văn trong các giờ tập đọc và trong các buổi ngoại khoá. Bởi học sinh có cảm thụ văn tốt thì mới hiểu được ý nghĩa của bài văn, bài thơ, đoạn văn, đoạn thơ...và mới thấy được nét đẹp của thơ văn làm cho tâm hồn các em thêm phong phú. Chương trình môn Tiếng Việt ở Tiểu học luôn coi nhiệm vụ bồi dưỡng năng lực cảm thụ văn cho học sinh Tiểu học là nhiệm vụ quan trọng nhằm bồi dưỡng tình yêu tiếng Việt hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng, giàu đẹp của tiếng Việt. Góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa cho học sinh dưới sự dẫn dắt của thầy, cô. Những bài thơ, bài văn hay trong sách giáo khoa sẽ đem đến biết bao điều kỳ thú, hấp dẫn. Tuy nhiên muốn trở thành một học sinh có năng lực cảm thụ văn học tốt mỗi em cần phải tự giác phấn đấu và rèn luyện về nhiều mặt. Thực tế trong những năm gần đây đề thi học snh gỏi các cấp môn Tiếng Việt ở bậc Tiểu học đều có bài tập về cảm thụ văn học. Tôi thấy khả năng cảm thụ văn học của các em còn nhiều hạn chế. Các em chưa có kĩ năng cảm thụ tốt các bài văn, bài thơ, (hoặc đoạn văn, đoạn thơ). Việc cảm nhận những giá trị nổi bật của tác giả trong các bài tập đọc còn ít, chưa sâu. Dẫn đến kĩ năng viết tập làm văn chưa hay, chưa sinh động, gợi cảm, đặc biệt là văn miêu tả. Chính vì vậy tôi đã dành nhiều thời gian để nghiên cứu, bồi dưỡng kĩ năng cảm thụ văn cho học sinh lớp 5. Tôi mạnh dạn đưa ra một số kinh nghiệm về "Bồi dưỡng năng lực cảm thụ văn học cho học sinh giỏi lớp 5" để các đồng chí đồng nghiệp tham khảo. II. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu - Phạm vi nghiên cứu: 12 học sinh giỏi lớp 5 trường Tiểu học số 1 xã Mường Than, huyện Than Uyên, tỉnh Lai Châu. - Đối tượng nghiên cứu: Bồi dưỡng năng lực cảm thụ văn học cho học sinh giỏi lớp 5. - Thời gian nghiên cứu: Năm học 2011- 2012 và 2012- 2013. III. Mục đích nghiên cứu * Đối với giáo viên: Phát hiện khả năng, năng khiếu học văn của học sinh từ đó cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản, những khái niệm đơn giản khi cảm thụ văn học. * Đối với học sinh: 2 + Trau dồi hứng thú khi tiếp xúc với văn thơ. + Tích luỹ vốn hiểu biết về thực tế cuộc sống và văn học. + Rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn về cảm thụ văn học. IV. Điểm mới trong kết quả nghiên cứu - Học sinh có hứng thú khi tiếp xúc với văn thơ. - Có những kiến thức cơ bản, những khái niệm đơn giản khi cảm thụ văn học. - Có kỹ năng viết đoạn văn về cảm thụ văn học. - Bổ trợ cho dạy tập làm văn có hiệu quả. PHẦN GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I. Cơ sở lý luận - Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã đưa ra định hướng về công tác giáo dục là: "Tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đổi mới nội dung phương pháp dạy và học, hệ thống trường lớp và hệ thống quản lý giáo dục thực hiện chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá... " - Thực hiện "Giáo dục cho mọi người" và "Cả nước trở thành một xã hội học tập". - Tại Hội nghị lần thứ VI của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX vẫn tiếp tục khẳng định: "Giáo dục là quốc sách hàng đầu". - Căn cứ vào hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ năm học của ngành, của bậc Tiểu học và của Phòng giáo dục và đào tạo Than Uyên. - Dựa vào các tài liệu tham khảo về bồi dưỡng năng lực cảm thụ văn học cho học sinh như: Để học tốt Tiếng Việt, Chuyên đề bồi dưỡng học sinh giỏi Tiếng Việt... Tôi thấy cần Giúp học sinh hiểu “cảm thụ văn học là gì? ”: Cảm thụ văn học chính là sự cảm nhận những giá trị nổi bật, những điều sâu sắc, tế nhị và đẹp đẽ của văn học thể hiện trong tác phẩm (bài văn, bài thơ) hay một bộ phận của tác phẩm (đoạn văn, đoạn thơ hoặc câu văn, câu thơ). - Cảm thụ văn học có nghĩa là khi đọc (nghe) một câu chuyện, một bài thơ,... ta không những hiểu mà còn phải xúc cảm, tưởng tượng và thật sự gần gũi, "thâm nhập" với những gì đã đọc. - Để có được năng lực cảm thụ văn học sâu sắc và tinh tế, cần có sự say mê, hứng thú khi tiếp xúc với thơ văn; chịu khó tích luỹ vốn hiểu biết về thực tế cuộc sống và văn học, nắm vững kiến thức cơ bản về Tiếng Việt phục vụ cho cảm thụ văn học; kiên trì rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn về cảm thụ văn học. Trong quá trình nghiên cứu có một số thuận lợi và khó khăn như sau: * Thuận lợi: - Các em đi học chuyên cần, có nề nếp học tập tốt, có kĩ năng đọc diễn 3 cảm khá tốt trong phân môn Tập đọc. - Giáo viên đã chú ý việc bồi dưỡng kĩ năng cảm thụ trong khi dạy phân môn Tập đọc. * Khó khăn: - sự quan tâm của gia đình chưa nhiều. Các em chưa kiên trì trong học tập. - Một số ít giáo viên giảng dạy chưa coi trọng việc hướng dẫn học sinh cảm thụ nội dung và nghệ thuật qua các bài tập đọc. Mà chỉ chú ý về rèn kĩ năng đọc cho học sinh. Cho nên chưa phát triển được năng lực cảm thụ bài văn, bài thơ, đoạn văn, đoạn thơ hay câu văn, câu thơ cho học sinh. Từ đó kĩ năng viết các bài văn miêu tả chưa hay, cảm xúc còn hạn chế trong cách dùng từ đặt câu, diễn ý sử dụng các nghệ thuật để câu văn sinh động, gợi cảm. II. Thực trạng của vấn đề Trong những năm gần đây đề thi học sinh giỏi các cấp môn Tiếng Việt đều có một bài tập về cảm thụ văn học mà tôi thấy thực tế các em học sinh có khả năng cảm thụ văn học tốt rất ít, và hầu hết các em chưa hiểu từ "cảm thụ văn học", "hình ảnh đẹp", ... cho nên bài viết của các em còn dàn trải, vụng về, không cô đọng, chưa biết bám sát vào nội dung và các giá trị nghệ thuật chứa trong mỗi văn bản nghệ thuật đó. - Các em chưa thấy được mỗi bài văn, bài thơ là một văn bản nghệ thuật, dù dài hay ngắn thì nó cũng chứa lượng thông tin nhất định về ngôn từ, hình ảnh, sự kiện, tình cảm, ... cho nên những thông tin đó tác động vào tâm hồn ngây thơ hiếu động của các em bị hạn chế. - Bên cạnh đó còn có một số ít giáo viên giảng dạy chưa coi trọng việc hướng dẫn học sinh cảm thụ nội dung và nghệ thuật qua các bài tập đọc. Cho nên chưa phát triển được năng lực cảm thụ bài văn, bài thơ, đoạn văn, đoạn thơ hay câu văn, câu thơ cho học sinh. - Trong các tiết tập đọc có thể học sinh phát hiện được các biện pháp nghệ thuật xong chưa hiểu được tác dụng của tác giả sử dụng biện pháp nghệ thuật đó có tác dụng gì? - Giáo viên dạy chưa tạo điều kiện để học sinh cảm thụ văn học tốt thông qua các giờ dạy tập đọc. - Dẫn đến các tiết viết bài tập làm văn của học sinh chưa vận dụng được khả năng cảm thụ văn học làm cho các bài văn miêu tả chưa hay, chưa sinh động, khả năng bộc lộ cảm xúc của học sinh còn hạn chế. Chính vì vậy tôi thấy trong các nhà trường Tiểu học việc "Bồi dưỡng năng lực cảm thụ văn học cho học sinh giỏi lớp 5" là vấn đề cấp bách. - Trước những thực trạng về việc dạy và học cảm thụ văn học cho học sinh như vậy tôi thấy mình cần phải đầu tư thời gian nghiên cứu về nội dung và phương pháp giảng dạy môn Tiếng Việt, đặc biệt là phương pháp bồi dưỡng cảm thụ văn học cho học sinh, đồng thời tìm hiểu rõ nguyên nhân vì sao khả năng 4 cảm thụ văn học các em bị hạn chế như vậy, để từ đó đề ra được một số biện pháp khắc phục, vận dụng vào thực tế quá trình giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng bồi dưỡng học sinh giỏi môn Tiếng Việt nói riêng và kĩ năng viết văn miêu tả nói chung. Từ đó rút ra được bài học kinh nghiệm khi vận dụng dạy bồi dưỡng cho học sinh về lĩnh vực "cảm thụ văn học". Sau khi nghiên cứu về các tài liệu bồi dưỡng năng lực cảm thụ văn cho học sinh. Ngay từ đầu năm học tôi đã tiến hành điều tra kĩ về kĩ năng cảm thụ văn học của học sinh như sau: Tôi đưa ra dạng bài tập: Tìm hình ảnh đẹp và nêu cách hiểu của mình về hình ảnh đó. Bài tập: Thế rồi cơn bão qua Bầu trời xanh trở lại Mẹ về như nắng mới Sáng ấm cả gian nhà. (Mẹ vắng nhà ngày bão – Đặng Hiển) Theo em hình ảnh nào làm nên cái hay của đoạn thơ trên ? Vì sao ? * Kết quả như sau: Tổng số HS Số HS tìm đúng được hình ảnh Số HS hiểu đúng về hình ảnh đó Số HS không đạt được yêu cầu của bài T.số Tỉ lệ T.số Tỉ lệ T. số Tỉ lệ 12 3 25% 4 33,3% 5 41,7% 41,7% học sinh không hiểu thế nào là hình ảnh đẹp, các em chỉ lung tung như là: cơn bão qua, bầu trời xanh. 25% học sinh đưa ra được hình ảnh " Nắng mới" trong câu " Mẹ về như nắng mới, Sáng ấm cả gian nhà" nhưng không hiểu được cái hay. Nhìn vào số liệu khảo sát về khả năng cảm thụ văn học của học sinh tôi thực sự lo lắng.Vì tôi thấy các em còn rất bỡ ngỡ kiểu bài này, chưa hiểu một số khái niệm về: Các biện pháp nghệ thuật, hình ảnh đẹp, từ đắt, ... Do đó các em không hứng thú, suy nghĩ còn nông cạn dẫn đến bài viết còn tản mản sai lệch hẳn ý nghĩa của bài. Các em chỉ quen với việc trả lời câu hỏi có tính gợi mở mà chưa quen với những câu hỏi có tính khái quát. * Nguyên nhân: 5 Qua tìm hiểu học sinh và trao đổi với một số giáo viên trong trường tôi thấy nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là: + Học sinh: - Do đặc điểm tâm sinh lí của lứa tuổi các em, thích tư duy trực quan mà không thích tư duy trừu tượng. - Xu thế học sinh ngại học Tiếng Việt, học văn. - Trong lớp các em chưa chú ý nghe giảng, hiểu bài chưa kĩ, kết quả học Tiếng Việt chưa cao. - Các em chưa được làm quen với bài tập cảm thụ văn học. - Chưa biết cách trình bày một đoạn cảm thụ văn + Giáo viên: - Một số ít giáo viên giảng phân môn Tập đọc chưa coi trọng phần cảm thụ văn học. Đặc biệt trong các giờ tập đọc giáo viên chỉ chú ý nhiều đến kĩ năng đọc mà phần cảm thụ văn học còn hạn chế hoặc có nhưng chưa sâu. Dẫn đến năng lực cảm thụ văn của các em còn có nhiều hạn chế. - Trong các tiết tập làm văn chưa hướng cho học sinh vận dụng các biện pháp nghệ thuật, cách dùng từ, diễn đạt ý vào văn miêu tả. + Gia đình: Một số gia đình chưa quan tâm tạo điều kiện và đầu tư cho việc học của con em mình như: Chuẩn bị các tài liệu sách tham khảo ... III. Các biện pháp đã tiến hành giải quyết vấn đề Trước những thực trạng và nguyên nhân như vậy tôi thấy mình cần phải đầu tư thời gian nghiên cứu đưa ra được một số biện pháp khắc phục, vận dụng vào thực tế quá trình giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng học, cảm thụ văn cho học sinh lớp 5 trong nhà trường. Tôi đã rút ra được một số biện pháp khi vận dụng dạy bồi dưỡng cho học sinh về lĩnh vực "cảm thụ văn học". như sau: 1. Giúp học sinh cảm thụ văn học qua việc khai thác các biện pháp nghệ thuật trong các bài văn, bài thơ: - Một trong những biện pháp giúp cho các em có năng lực cảm thụ văn học tốt là giúp cho học sinh nhận biết được các biện pháp nghệ thuật và tác dụng của nó được tác giả sử dụng trong các tác phẩm văn học. - Các biện pháp nghệ thuật thường gặp trong các bài văn, bài thơ ở bậc Tiểu học là: ( So sánh, nhân hóa, điệp từ và đảo ngữ.) - Để cảm thụ các tác phẩm văn học thông qua việc khai thác các biện pháp nghệ thuật trong các bài văn, bài thơ. Học sinh cần thực hiện tốt các yêu câu sau đây. - Hiểu được thế nào là biện pháp nghệ thuật: So sánh, nhân hóa, điệp từ và đảo ngữ..., (thông qua phân môn Luyện từ và câu.) - Xác định đúng những biện pháp nghệ thuật trong bài văn, bài thơ. (thông qua môn tập đọc). - Xác định đúng những từ, cụm từ, hình ảnh thể hiện biện pháp nghệ thuật. 6 - Cảm nhận được giá trị nghệ thuật làm tăng giá trị nội dung, ý nghĩa của bài văn, bài thơ. - Một số biện pháp nghệ thuật tiêu biểu thường gặp trong các bài tập đọc ở chương trình bậc Tiểu học. 1.1 Biện pháp nghệ thuật so sánh: - Trước hết tôi cho các em hiểu thế nào là nghệ thuật so sánh rồi hướng cho các em tìm nêu những câu văn hoặc thơ có sử dụng nghệ thuật so sánh. - So sánh là đối chiếu hai đối tượng khác nhau nhưng có chung đặc điểm nào đó để làm nổi bật đối tượng đem so sánh. Ví dụ: Trẻ em như búp trên cành Đối tượng đem so sánh Từ quan hệ Đối tượng chuẩn để so sánh Ví dụ : “ Quê hương là chùm khế ngọt Cho con trèo hái mỗi ngày” + Học sinh xác định được : Biện pháp nghệ thuật được sử dụng trong câu thơ trên là : Nghệ thuật so sánh Hình ảnh so sánh : Quê hương (là) chùm khế ngọt + Học sinh cảm nhận được: Chùm khế ngọt, là hình ảnh quen thuộc, gần gũi với làng quê, gắn bó với con người Việt Nam. Đặc biệt là gắn liền với những kĩ niệm của thời thơ ấu mỗi người. Qua đó cho ta thấy hình ảnh quê hương trong tâm trí của người Việt nam luôn gần gũi, thanh bình và không bao giờ quên được. - Trong nghệ thuật so sánh tác giả thường sử dụng những từ nào để làm nổi bật đối tượng cần so sánh. (Từ quan hệ: là, như, ... ) - Sau đó tôi cho các em làm bài tập thực hành. * Bài tập: Hãy chỉ ra cái đúng, cái hay của sự so sánh trong mỗi câu thơ sau: 1. Trẻ em như búp trên cành Biết ăn, ngủ, biết học hành là ngoan (Hồ Chí Minh) 2. Bà như quả ngọt chín rồi càng thêm tuổi tác, càng tươi lòng vàng. (Võ Thanh An) a. Học sinh làm bài 7 - Giáo viên đọc và chép đề bài lên bảng. - Bài yêu cầu ta chỉ ra cái gì? - Câu 1 tác giả so sánh cái gì với cái gì? - So sánh như vậy đúng ở chỗ nào? - So sánh như vậy hay ở chỗ nào? - Ở câu 2 tác giả so sánh bà với gì? - So sánh ấy đúng ở chỗ nào? - So sánh như vậy hay ở chỗ nào? - Học sinh đọc kĩ đề bài. - Chỉ ra cái đúng, cái hay của việc so sánh. - Trẻ em- búp trên cành. - Trẻ em và búp non đều đang lớn, đang phát triển. - Hình ảnh đưa ra làm chuẩn để so sánh (búp trên cành) rất đẹp và ý nghĩa, giúp ta liên tưởng đến trẻ em chan chứa hy vọng. - Bà - quả ngọt chín - Bà và quả ngọt đều có lâu rồi, già rồi. - Hình ảnh đưa ra làm chuẩn để so Sánh (quả ngọt chín rồi) giúp ta liên tưởng đến hình ảnh bà rất đáng quý có ích cho cuộc sống. b. Học sinh làm bài: Trong cách so sánh trên rất đúng. Vì ở câu a "Trẻ em" và "búp trên cành" đều còn bé mới có. Vì "bà" và " quả ngọt chín" đều đã có từ lâu. Hay vì "búp trên cành" rất đẹp và đang phát triển, rất đẹp, thơ ngây. Đúng vì ở câu b "bà" và "quả ngọt chín rồi" đều đã có lâu. Hay vì quả ngọt rất quý cho đời, giúp ta liên tưởng bà rất kính trọng. c. Giáo viên sửa chữa, uốn nắn cho học sinh: Ví dụ: Bằng nghệ thuật so sánh giúp ta hiểu kĩ và hiểu sâu hơn đối tượng đem so sánh. Đối tượng đem so sánh ở hai câu trên là hoàn toàn đúng và hay. Đúng vì "trẻ em" và "búp trên cành" đều là những sự vật còn non nớt, đang phát triển. "Bà" và "quả ngọt chín rồi" đều là những sự vật phát triển đến độ già dặn, có giá trị cao. Hay vì hình ảnh đưa ra làm chuẩn để so sánh "búp trên cành" là hình ảnh rất đẹp, còn non nớt, đang phát triển, đáng được nâng niu, giúp ta liên tưởng đẹp tới "trẻ em" đầy sức sống, chứa chan hy vọng. Hình ảnh đưa ra làm chuẩn so sánh "quả ngọt chín rồi" rất đáng quý, có giá trị cho cuộc sống, giúp ta liên tưởng đẹp và giàu ý nghĩa về "bà" có tấm lòng thơm thảo, đáng quý, đáng trân trọng. - Từ đó giáo dục các em khi vận dụng viết văn miêu tả làm cho câu văn hay và thêm sinh động. * Vì vậy khi so sánh, cần biết lựa chọn những sự vật, hình ảnh quen thuộc, gần gũi, sẽ có tác dụng gợi hình ảnh để cho lời nói hay câu văn thêm sinh động hơn. 1.2. Biện pháp nghệ thuật nhân hóa: - Giúp các em hiểu nghệ thuật nhân hóa là gì? biết tìm những câu văn, thơ có sử dụng nghệ thuật nhân hóa. Từ đó hiểu được tác dụng của việc sử dụng từ 8 nhân hóa trong văn, thơ. Nghệ thuật nhân hoá là biến những sự vật, hiện tượng vô tri, vô giác có những thuộc tính, dấu hiệu con người. Ví dụ : Cho đoạn thơ : “ Rừng mơ ôm lấy núi Mây trắng đọng thành hoa Gió chiều đông gờn gợn Hương bay gần bay xa.” ( Rừng mơ- Trần Lê Văn.) Hãy nêu những cảm nhận của em về vẽ đẹp của rừng mơ Hương Sơn được gợi tả trong đoạn thơ trên. + Học sinh xác định được : Nghệ thuật được sử dụng : Nghệ thuật nhân hóa Hình ảnh nhân hóa : ôm lấy núi. + Cảm nhận được : Rừng mơ bao quanh núi được nhân hóa (ôm lấy núi) cho thấy sự gắn bó gần gũi, thân mật và thắm đượm tình cảm của cảnh thiên nhiên. Hoa mơ nở trắng như mây trên trời đọng (kết) lại. Gió chiều đông nhè nhẹ (gờn gợn) đưa hương hoa mơ lan tỏa đi khắp nơi. Có thể nói, đoạn thơ trên đã vẽ ra bức tranh mang vẽ đẹp của đất trời hòa quyện trong rừng mơ Hương Sơn. - Sau đó tôi cho các em vận dụng làm bài tập: Bài tập: Bài 1: Cho đoạn thơ sau: Cô dạy em tập viết Gió đưa thoảng hương nhài Nắng ghé vào cửa lớp Xem chúng em học bài. (Nguyễn Xuân Sanh) Biện pháp nhân hoá được tác giả biểu hiện qua từ nào? Nêu rõ cái hay của biện pháp đó? a. Hướng dẫn học sinh làm bài: - Giáo viên đọc và chép đề lên bảng - Đề yêu cầu làm gì? - Học sinh đọc kĩ đề bài - Chỉ rõ từ dùng để nhân hoá và nêu rõ cái hay của nó. 9 - Trong đoạn thơ trên hình ảnh nào được nhân hoá? - Nhân hoá đó được thể hiện qua từ nào? - Nhân hoá đó có tác dụng gì? - Nắng, gió. - Đưa, ghé, xem - Cho thấy nắng, gió rất hồn nhiên, tinh nghịch như trẻ thơ, thích học bài b. Học sinh làm bài: Đoạn thơ trên: Nắng gió được nhân hoá qua các từ: Đưa, ghé, xem. Tác dụng giúp ta thấy nắng, gió rất hồn nhiên, tinh nghịch, gần gũi với tuổi thơ. c. Giáo viên sửa chữa uốn nắn cho học sinh: - Chỉ ra được các từ nhân hoá dùng để chỉ về cái gì? - Nêu được tác dụng nổi bật của những động từ ấy, nó có phù hợp với tuổi học trò hay không? Ví dụ: Đoạn thơ trên ta thấy nắng và gió được nhân cách hoá như những trẻ thơ vậy, bằng các từ chỉ hoạt động: "đưa, ghé, xem" bằng biện pháp nhân hoá đó giúp cho đoạn thơ thêm hay thêm sinh động, giúp cho người đọc thấy được nắng, gió rất hồn nhiên tinh nghịch như trẻ thơ vậy, muốn hoà cùng các bạn học tập, cùng các bạn vui chơi. Chính vì vậy đoạn thơ đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc, đặc biệt với trẻ thơ Bài 2: Trong đoạn thơ dưới đây sự vật nào được nhân hoá? Nhân hoá theo cách nào? Tác dụng ra sao? Những chị Lúa phất phơ bím tóc Những cậu Tre bá vai nhau thì thầm đứng học Đàn Cò trắng Khiêng nắng qua sông Cô Gió chăn Mây trên đồng Bác Mặt Trời đạp xe qua đỉnh núi ( Trần Đăng Khoa) a. Hướng dẫn học sinh làm bài: - Giáo viên đọc và chép đề lên bảng - Bài yêu cầu ta làm gì? - Đoạn thơ có những sự vật nào được nhân hoá? - Nhân hoá bằng cách nào? - Học sinh đọc lại đề bài - Chỉ ra được sự vật được nhân hoá,cách nhân hoá, tác dụng - Lúa, Tre, Cò, Gió, Mặt Trời. - Dùng các danh từ chung chỉ người để gọi tên sự vật, dùng các động từ chỉ hoạt 10 - Nhân hoá có tác dụng gì? động của người để nói về sự vật. - Miêu tả thiên nhiên sinh động, hấp dẫn. b. Học sinh tự làm bài: Đoạn thơ trên: Lúa, Tre, Cò, Gió, Mặt Trời được nhân cách hoá. Tác giả đã gọi tên chúng như con người và có hoạt động như con người, nhờ vậy mà đoạn thơ sinh động, hấp dẫn. c. Giáo viên sửa chữa uốn nắn cho học sinh: Qua cách diễn đạt sinh động đó ta thấy tác giả có tình cảm như thế nào với những sự vật quanh ta, tác giả có yêu quê hương đất nước không? Ví dụ: Trong đoạn thơ trên có nhiều sự vật được nhân hoá như: Lúa, Tre, đàn Cò Gió, Mặt Trời. Bằng cách gọi tên thân mật các sự vật đó như: Chị, cậu, cô, bác và dùng những từ chỉ hoạt động, đặc điểm của con người như: Bá vai, thì thầm, học, khiêng, chăn, đạp xe để nói về sự vật. Chính vì nhờ nhân cách hoá mà tác giả đã miêu tả cảnh thiên nhiên rất sinh động, hấp dẫn một cách mới mẻ và đẹp đẽ
Luận văn liên quan