Bắt người là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự được áp dụng đối với bị can, bị cáo, người đang bị truy nã và trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang thì áp dụng cả đối với người chưa bị khởi tố về hình sự nhằm kịp thời ngăn chặn hành vi phạm tội của họ, ngăn ngừa họ trốn tránh pháp luật, tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều tra, truy tố xét xử và thi hành án hình sự.
17 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2748 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Các quy định của luật TTHS về bắt người trong tố tụng hình sự và đề xuất hướng hoàn thiện các quy định này, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
A. ĐẶT VẤN ĐỀ 2
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 2
I. CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT TTHS VỀ BẮT NGƯỜI 2
1. Bắt bị can, bị cáo để tạm giam 2
2. Bắt người trong trường hợp khẩn cấp 3
3. Bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã 3
4. Bắt người chưa thành niên 3
II. HẠN CHẾ, VƯỚNG MẮC BẤT CẬP TRONG QUY ĐỊNH CỦA TTHS VỀ BẮT NGƯỜI. 3
1. Hạn chế trong quy định của tố tụng hình sự về bắt người 3
2. Vướng mắc bất cập trong quy định của BLTTHS về bắt người 3
III. HƯỚNG HOÀN THIỆN 3
C. KẾT THÚC VẤN ĐỀ 3
TÀI LIỆU THAM KHẢO 3
ĐẶT VẤN ĐỀ
Bắt người là một trong nhữn biện pháp ngăn chặn được quy định tại Chương VI, BLTTHS năm 2003. Việc bắt người luôn là vấn đề nhạy cảm trong đời sống chính trị - xã hội, bắt người đúng hay không đúng quy định của pháp luật, bắt oan sai có ảnh hưởng trực tiếp đến các quyền cơ bản của công dân, liên quan đến đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Việc bắt một số “đối tượng đặc biệt” về chính trị ở trong nước và các đối tượng là người nước ngoài còn ảnh hưởng đến chính sách đối nội và quan hệ đối ngoại của Nhà nước ta. Để làm rõ vấn đề này tôi đã chọn đề tài là các quy định của luật TTHS về bắt người trong tố tụng hình sự và đề xuất hướng hoàn thiện các quy định này.
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT TTHS VỀ BẮT NGƯỜI
Bắt người là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự được áp dụng đối với bị can, bị cáo, người đang bị truy nã và trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang thì áp dụng cả đối với người chưa bị khởi tố về hình sự nhằm kịp thời ngăn chặn hành vi phạm tội của họ, ngăn ngừa họ trốn tránh pháp luật, tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều tra, truy tố xét xử và thi hành án hình sự.
Bắt bị can, bị cáo để tạm giam
Bắt bị can, bị cáo để tạm giam là bắt người đã bị khởi tố về hình sự hoặc người đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử để tạm giam nhằm ngăn chặn bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều tra truy tố xét xử và thi hành án hình sự.
Bắt bị can, bị cáo để tạm giam được Luật TTHS năm 2003 quy định tại Điều 80: “1. Những người sau đây có quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam:
a) Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện kiểm sát quân sự các cấp;
b) Chánh án, Phó Chánh án Toà án nhân dân và Toà án quân sự các cấp;
c) Thẩm phán giữ chức vụ Chánh toà, Phó Chánh toà Tòa phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao; Hội đồng xét xử;
d) Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp. Trong trường hợp này, lệnh bắt phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành.
2. Lệnh bắt phải ghi rõ ngày, tháng, năm, họ tên, chức vụ của người ra lệnh; họ tên, địa chỉ của người bị bắt và lý do bắt. Lệnh bắt phải có chữ ký của người ra lệnh và có đóng dấu.
Người thi hành lệnh phải đọc lệnh, giải thích lệnh, quyền và nghĩa vụ của người bị bắt và phải lập biên bản về việc bắt.
Khi tiến hành bắt người tại nơi người đó cư trú phải có đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn và người láng giềng của người bị bắt chứng kiến. Khi tiến hành bắt người tại nơi người đó làm việc phải có đại diện cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc chứng kiến. Khi tiến hành bắt người tại nơi khác phải có sự chứng kiến của đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn nơi tiến hành bắt người.
3. Không được bắt người vào ban đêm, trừ trường hợp bắt khẩn cấp, phạm tội quả tang hoặc bắt người đang bị truy nã quy định tại Điều 81 và Điều 82 của Bộ luật này”.
- Đối tượng áp dụng và điều kiện áp dụng
Theo quy định trên, Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành không quy định cụ thể việc bắt để tạm giam được áp dụng đối với bị can, bị cáo trong các trường hợp nào nhưng không phải mọi bị can, bị cáo đều có thể hoặc cần phải bắt để tạm giam mà chỉ bắt tạm giam đối với những bị can, bị cáo nào nếu thấy cần thiết. Ví dụ như: bị can, bị cáo phạm tội như gây nguy hại rất lớn hay đặc biệt lớn cho xã hội. Bị can, bị cáo phạm tội trong các trường hợp này thì việc bắt để tạm giam họ là cần thiết vì trước hết, các tội phạm trên pháp luật quy định xử lý rất nghiêm khắc do tính chất, mức độ nguy hiểm cao, mặt khác họ có thể trốn tránh gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án.
Thẩm quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam
Về thẩm quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam, từng chủ thể có thẩm quyền ra lệnh bắt được xác đinh theo từng giai đoạn tố tụng cụ thể:
Trong giai đoạn điều tra, việc bắt bị can, bị cáo để tạm giam do Thủ trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra cùng cấp quyết định;
Trong giai đoạn truy tố, việc bắt bị can, bị cáo để tạm giam do Viện trưởng, Phó viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện kiểm sát quân sự các cấp quyết định;
Trong giai đoạn xét xử, việc bắt bị can, bị cáo để tạm giam do Chánh án, Phó chánh án Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp; Thẩm phán giữ chức vụ Chánh tòa, Phó Chánh tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao; Hội đồng xét xử quyết định.
Về thủ tục bắt bị can bị cáo
Thủ tục này được pháp luật quy đinh rất rõ tại khoản 2,3 Điều 80 Bộ luật TTHS.
Việc quy định và thực hiện nghiêm chỉnh các quy định nêu trên về việc bắt bị can, bị cáo để tạm giam vừa thể hiện sự nghiêm khắc của Nhà nước trong đấu tranh phòng, chống tội phạm vừa là sự tôn trọng các quyền cơ bản của công dân, tránh mọi tác động trái pháp luật tới các quyền này.
Bắt người trong trường hợp khẩn cấp
Bắt người trong trường hợp khẩn cấp là bắt người khi người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng nhằm ngăn chặn kịp thời hành vi phạm tội của họ hay bắt người sau khi thực hiện tội phạm mà người đó bỏ trốn, cản trở việc điều tra, khám phá tội phạm.
Điều kiện áp dụng
Khoản 1 Điều 81 BLTTHS năm 2003 quy định cụ thể ba trường hợp phạm tội bắt khẩn cấp sau đây:
+ Trường hợp thứ nhất, khi có căn cứ cho rằng người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Đây là trường hợp hành vi khách quan được quy định trong CTTP chưa xảy ra, mới được thể hiện ở những hành vi tạo ra những điều kiện vật chất hoặc tinh thần giúp cho việc thực hiện hành vi phạm tội có thể xảy ra và xảy ra thuận lợi, dễ dàng hơn. Áp dụng biện pháp ngăn chặn trong trường hợp này là để ngăn ngừa không cho tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng đang chuẩn bị được xảy ra, gây ra những hậu quả đặc biệt nghiêm trọng cho xã hội. Đối với những trường hợp chuẩn bị tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, thì không được bắt khẩn cấp, mà chỉ được áp dụng các biện pháp chủ động khác mang tính giáo dục, phòng ngừa, răn đe để tội phạm không xảy ra.
+ Trường hợp thứ hai, khi người bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt trông thấy và xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm mà xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn.
Đây là trường hợp tội phạm đã xảy ra, nhưng người thực hiện tội phạm không bị bắt ngay. Sau một thời gian, người bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt trông thấy đã xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm. Nếu Cơ quan điều tra xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn thì ra lệnh bắt khẩn cấp. Những điểm xét thấy cần phải ngăn chặn người đó bỏ trốn thường là: Đang có hành động bỏ trốn; đang chuẩn bị bỏ trốn; không có nơi cư trú rõ ràng; có nơi cư trú nhưng ở quá xa; là đối tượng lưu manh, côn đồ, hung hãn; chưa xác định được nhân thân của người đó (căn cước lý lịch không rõ ràng).
+ Trường hợp thứ ba, khi thấy có dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ của người bị nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó bỏ trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ.
Qua hoạt động như khám chỗ ở, khám người, xem xét dấu vết trên thân thể, kiểm tra, kiểm soát hành chính…Cơ quan có thẩm quyền tìm thấy dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở của người bị nghi thực hiện tội phạm. Những dấu vết của tội phạm được tìm thấy có thể là những vật chứng như công cụ phương tiện phạm tội, đối tượng của tội phạm… cũng như dấu vết của tội phạm trên thân thể của người bị nghi thực hiện tội phạm. Việc tìm thấy dấu vết của một tội phạm chỉ đực coi là một điều kiện để bắt người khẩn cấp. Ngoài việc phát hiện dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở của người bị nghi thực hiện tội phạm, nếu cơ quan, người có thẩm quyền thấy cần ngăn chặn người đó trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ, thì có thể áp dụng biện pháp ngăn chặn này. Căn cứ của việc ra quyết định bắt khẩn cấp nhằm ngăn chặn ngay việc người bị tình nghi thực hiện tội phạm bỏ trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ là những tài liệu, chứng cứ khẳng định người đó đã bộc lộ ý định bỏ trốn sau khi bị phát hiện có dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở, không có nơi cư trú nhất định, thuộc loại lưu manh chuyên nghiệp, đang chuẩn bị tiêu hủy chứng cứ, làm giả chứng cứ…
Thẩm quyền ra lệnh bắt người trong trường hợp khẩn cấp
Khoản 2 Điều 81 BLTT quy định những người sau đây có quyền ra lệnh bắt khẩn cấp:
+ Thủ trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp;
+ Người chỉ huy đơn vị quân đội độc lập cấp trung đoàn và tương đương; người chỉ huy đồn biên phòng ở hải đảo và biên giới;
+ Người chỉ huy tàu bay, tàu biển, khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng.
Thủ tục bắt người trong trường hợp khẩn cấp
Thủ tục bắt người trong trường hợp khẩn cấp về cơ bản cũng được BLTTHS quy định và áp dụng tương tự như thủ tục bắt bị can, bị cáo để tạm giam nhưng có một số điểm khác.
+ Thứ nhất, lệnh bắt người trong trường hợp khẩn cấp không cần sự phê chuẩn của Viện kiểm sát cùng cấp trước khi thi hành. Quy đình này nhằm đảm bảo cho việc bắt đạt hiệu quả và kịp thời, đúng như tên gọi “khẩn cấp” của trường hợp bắt người này. Việc phải có phê chuẩn của Viện kiểm sát đối với lệnh bắt khẩn cấp trước khi thi hành sẽ là một sự trì hoãn làm mất đi tính chất cấp bách của trường hợp bắt người này.
+ Thứ hai, sau khi bắt người, việc bắt khẩn cấp phải được báo ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp bằng văn bản kèm theo tài liệu liên quan đến việc bắt khẩn cấp để xét phê chuẩn. Viện kiểm sát phải giám sát chặt chẽ các căn cứ bắt khẩn cấp trước khi quyết định phê chuẩn hoặc không phê chuẩn lệnh bắt. Trường hợp cần thiết Viện kiểm sát phải trực tiếp gặp, hỏi người bị bắt. Nếu Viện kiểm sát không phê chuẩn thì phải trả tự do ngay cho người bị bắt (thời hạn xét phê chuẩn lệnh bắt khẩn cấp quy định cho viện kiểm sát là 12 giờ kể từ khi nhận được đề nghị phê chuẩn và tài liệu liên quan đến việc bắt khẩn cấp).
+ Thứ ba, trong trường hợp khẩn cấp được bắt người vào bất kỳ lúc nào, không kể ban ngày hay ban đêm. Từ đó, ta có thể thấy được tính chất cấp bách của việc ngăn chặn tội phạm, người phạm tội bỏ trốn, cản trở điều tra, khám phá tội phạm, Bộ luật TTHS năm 2003 cho phép bắt khẩn cấp vào bất cứ thời gian nào trong ngày.
Bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã
a, Bắt người phạm tội quả tang
Bắt người phạm tội quả tang là bắt người khi người đó đang thực hiện tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện hoặc bị đuổi bắt.
Điều kiện áp dụng
Điều 82 BLTTHS quy định những trường hợp phạm tội quả tang bao gồm:
+ Trường hợp thứ nhất, người đang thực hiện phạm tội thì bị phát hiện. Đây là trường hợp tội phạm đã được bắt đầu được thực hiện, đang diễn ra và chưa kết thúc trên thực tế, đang gây ra thiệt hại cho các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Việc người đang thực hiện tội phạm có bị phát hiện hay không tùy thuộc vào đặc điểm của cấu thành tội phạm, bối cảnh xảy ra tội phạm, khả năng, kiến thức, vị trí công tác của người phát giác sự kiện phạm tội.
+ Trường hợp hai, người ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện. Đây là trường hợp vừa kịp chạy trốn hoặc đang cất giấu công cụ, phương tiện, đang xóa những dấu vết của tội phạm trước khi chạy trốn thì bị phát hiện. Trong trường hợp người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm phát hiện ngay thì mặc dù không có vật chứng để lại cũng được coi là phạm tội quả tang.
+ Trường hợp ba, người ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị đuổi bắt. Đây là trường hợp người phạm tội đang thực hiện nên đã chạy trốn và bị đuổi bắt. Trong trường hợp này, việc đuổi bắt phải liền ngay sau khi chạt trốn thì mới có sơ sở xác định đúng người phạm tội tránh bắt nhầm phải người không thực hiện tội phạm.
Thẩm quyền, thủ tục bắt người phạm tội quả tang
Do tính cấp bách cần phải bắt ngay người phạm tội quả tang để kịp thời ngăn chặn hành vi phạm tội hoặc hành vi trốn tránh pháp luật, cũng như để phát huy tính tích cực của nhân dân trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, thẩm quyền bắt người phạm tội quả tang được pháp luật tố tụng hình sự quy định cho bất kỳ người nào. Khoản 1 Điều 82 BLTTHS quy định : “Đối với người đang thực hiện tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện hoặc đang bị đuổi bắt, cũng như người đang bị truy nã thì bất kỳ người nào cũng có quyền bắt và giải ngay đến cơ quan Công an, Viện kiểm sát hoặc Uỷ ban nhân dân nơi gần nhất. Các cơ quan này phải lập biên bản và giải ngay người bị bắt đến cơ quan Điều tra có thẩm quyền”.
Việc bắt người phạm tội quả tang không cần lệnh của cá nhân hoặc cơ quan, tổ chức nào.
Nhằm đảm bảo an toàn cho những người tham gia bắt người phạm tội quả tang, khoản 2 Điều 82 BLTTHS quy định: “Khi bắt người phạm tội quả tang hoặc người đang bị truy nã thì người nào cũng có quyền tước vũ khí, hung khí của người bị bắt”.
b, Bắt người đang bị truy nã
Người đang bị truy nã là người đã thực hiện hành vi phạm tội, đang trốn tránh việc điều tra, truy tố, xét xử thi hành án và bị lùng bắt ráo riết theo quy định truy nã của Cơ quan điều tra được thông báo trên các phương tiện truyền thông đại chúng, niêm yết công khai tại trụ sở chính quyền xã, phường, thị trấn và các nơi công cộng.
Trong thực tế việc ngăn chặn ngay người đang bị truy nã trốn tránh pháp luật cũng mang tính chất cấp bách như đối với việc ngăn chặn người phạm tội quả tang nên BLTTHS quy định thẩm quyền, thủ tục bắt người đang bị truy nã cũng được áp dụng như bắt người phạm tội quả tang.
Các điều, 83, 84, 85 BLTTHS quy định về những việc cần làm ngay sau khi bắt nhoặc nhận người bị bắt, về biên bản bắt người và thông báo về việc bắt. Đây là những quy định chung cho việc bắt người trong tất cả các trường hợp: bắt bị can, bị cáo để tạm giam, bắt người trong trường hợp khẩn cấp, bắt người phạm tội quả tang và người đang bị truy nã.
Điều 83. Những việc cần làm ngay sau khi bắt hoặc nhận người bị bắt
Sau khi bắt hoặc nhận người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang, Cơ quan điều tra phải lấy lời khai ngay và trong thời hạn 24 giờ phải ra quyết định tạm giữ hoặc trả tự do cho người bị bắt.
Đối với người bị truy nã thì sau khi lấy lời khai, Cơ quan điều tra nhận người bị bắt phải thông báo ngay cho cơ quan đã ra quyết định truy nã để đến nhận người bị bắt.
Sau khi nhận người bị bắt, cơ quan đã ra quyết định truy nã phải ra ngay quyết định đình nã. Trong trường hợp xét thấy cơ quan đã ra quyết định truy nã không thể đến nhận ngay người bị bắt thì sau khi lấy lời khai, Cơ quan điều tra nhận người bị bắt phải ra ngay quyết định tạm giữ và thông báo ngay cho cơ quan đã ra quyết định truy nã biết.
Sau khi nhận được thông báo, cơ quan đã ra quyết định truy nã có thẩm quyền bắt để tạm giam phải ra ngay lệnh tạm giam và gửi lệnh tạm giam đã được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn cho Cơ quan điều tra nhận người bị bắt. Sau khi nhận được lệnh tạm giam, Cơ quan điều tra nhận người bị bắt có trách nhiệm giải ngay người đó đến trại tạm giam nơi gần nhất.
Điều 84. Biên bản về việc bắt người
Người thi hành lệnh bắt trong mọi trường hợp đều phải lập biên bản.
Biên bản phải ghi rõ ngày, giờ, tháng, năm, địa điểm bắt, nơi lập biên bản; những việc đã làm, tình hình diễn biến trong khi thi hành lệnh bắt, những đồ vật, tài liệu bị tạm giữ và những khiếu nại của người bị bắt.
Biên bản phải được đọc cho người bị bắt và những người chứng kiến nghe. Người bị bắt, người thi hành lệnh bắt và người chứng kiến phải cùng ký tên vào biên bản, nếu ai có ý kiến khác hoặc không đồng ý với nội dung biên bản thì có quyền ghi vào biên bản và ký tên.
Việc tạm giữ đồ vật, tài liệu của người bị bắt phải được tiến hành theo quy định của Bộ luật này.
Khi giao và nhận người bị bắt, hai bên giao và nhận phải lập biên bản.
Ngoài những điểm đã quy định tại khoản 1 Điều này, biên bản giao nhận còn phải ghi rõ việc bàn giao các biên bản lấy lời khai, đồ vật, tài liệu đã thu thập được, tình trạng sức khoẻ của người bị bắt và mọi tình tiết xảy ra lúc giao nhận.
Điều 85. Thông báo về việc bắt
Người ra lệnh bắt, Cơ quan điều tra nhận người bị bắt phải thông báo ngay cho gia đình người đã bị bắt, chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó cư trú hoặc làm việc biết. Nếu thông báo cản trở việc điều tra thì sau khi cản trở đó không còn nữa, người ra lệnh bắt, Cơ quan điều tra nhận người bị bắt phải thông báo ngay.
4. Bắt người chưa thành niên
Theo quy định tại Điều 68 BLHS thì người chưa thành niên là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi.
Thứ nhất, bắt bị can, bị cáo là người chưa thành niên phạm tội để tạm giam. Tức là sau khi có lệnh tạm giam hoặc quyết định của cơ quan hoặc người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
Căn cứ bắt bị can, bị cáo là người chưa thành niên, ngoài quy định tại Điều 80 BLTTHS về những trường hợp chung bắt tạm giam bị can, bị cáo, BLTTHS đã quy định thêm về trường hợp bắt bị can, bị cáo là người chưa thành niên tại Điều 303.
Điều kiện để bắt bị cáo là người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến 16 tuổi là:
+ Có lệnh bắt của người có thẩm quyền;
+ Người chưa thành niên bị bắt để tạm giam phải là bị can, bị cáo phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng.
Điều kiện để bắt bị cáo là người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi là:
+ Có lệnh của người có thẩm quyền;
+ Phạm tội nghiêm trọng do cố ý, tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.
Thứ hai, bắt người chưa thành niên trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang được quy định về điều kiện bắt giống như các điều kiện bắt người chưa thành niên là bị can bị cáo.
HẠN CHẾ, VƯỚNG MẮC BẤT CẬP TRONG QUY ĐỊNH CỦA TTHS VỀ BẮT NGƯỜI.
Hạn chế trong quy định của tố tụng hình sự về bắt người
Trong BLTTHS Việt Nam năm 2003 đã quy định khá là chi tiết những trường hợp bắt người, những đối tượng bắt người. Trong những đối tượng đó, có những đối tượng phạm tội có những đặc điểm riêng, đặc biệt là về nhân thân như: Đại biểu quốc hội, Đại biểu hội đồng nhân dân, người nước ngoài phạm tội… lại chưa được BLTTHS đề cập đến trong khi đó các đối tượng này lại được quy định ở những văn bản pháp luật khác và các văn bản do cơ quan có thẩm quyền quy định.
a, Đại biểu quốc hội
Đại biểu quốc hội là đại biểu do nhân dân bầu nên, là thành viên đại diện cho cơ quan quyền lực nhà nước, nhằm đẳm bảo tốt việc thi hành Hiến pháp và pháp luật, giám sát hoạt động của cơ quan quyền lực nhà nước trong đó có các cơ quan tiến hành tố tụng. Điều 99 Hiến pháp năm 1992 có quy định:
“Không có sự đồng ý của Quốc hội và trong thời giam Quốc hội không họp, không có sự đồng ý của Ủy ban Thường vụ Quố hội, thì không được bắt giam, truy tố đại biểu Quốc hội.
Nếu vì phạm tội quả tang mà đại biểu Quốc hội bị tạm giam giữ, thì cơ quan tạm giữ phải lập tức báo cáo để Quốc hội hoặc Ủy ban Thường vụ Quốc hội xét và quyết định. Như vậy, việc bắt Đại biểu Quốc hội phải tuân theo các quy định trong Hiến pháp. Hơn nữa, tại Điều 58 Luật tổ chức quốc hội 20/12/2001 cũng có quy định: “Việc đề nghị bắt giam, truy tố, khám xét nơi ở và nơi làm việc của Đại biểu Quốc hội thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân tối cao”.
b, Đại biểu hội đồng nhân dân các cấp
Việc bắt đối với các đại biểu này phải tuân theo quy định tại Điều 44 Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân ngày 23/11/2003:
“Trong thời gian Hội đồng nhân dân họp, nếu không được sự đồng ý của Chủ tọa kỳ họp thì không được bắt giữ đại biểu Hội đồng nhân dân. Nếu vì phạm tội quả tang hoặc trong trường hợp khẩn cấ