Đối với nền kinh tế thế giới hiện nay, không ai không nhận thấy rằng toàn cầu hóa là một quá trình tất yếu, đang và đã tạo ra những cơ hội không hề nhỏ cho các nước có nền kinh tế đang phát triển hội nhập. Bên cạnh những lợi ích mà toàn cầu hoá mang lại, chính nó cũng đang đặt ra cho các nước đang phát triển những thách thức và nguy cơ hết sức to lớn. Một trong số đó xuất phát từ hoạt động kinh doanh của các công ty ĐQG trên thế giới.
Các công ty đa quốc gia (MNCs) được thành lập nhiều nơi trên thế giới với dòng vốn FDI luân chuyển mạnh. Với việc tự do hóa thương mại, các công ty này đã góp phần tạo ra sự dịch chuyển dòng vốn giữa các quốc gia, giữa các tổ chức trên thế giới, tạo ra sự cân bằng trong nguồn tài chính giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển, đồng thời làm tổng sản lượng thế giới tăng lên một lượng đáng kể.
49 trang |
Chia sẻ: khactoan_hl | Lượt xem: 2083 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chiến lược thâm nhập của các công ty đa quốc gia vào các nước đang phát triển và các hình thức thủ đoạn “chuyển giá” của các công ty này ở các nước nhận đầu tư, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
-----&-----
TIỂU LUẬN MÔN TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
Đề tài: Chiến lược thâm nhập của các công ty đa quốc gia vào các nước đang phát triển và các hình thức thủ đoạn “chuyển giá” của các công ty này ở các nước nhận đầu tư.
Giáo viên hướng dẫn: Ths. Nguyễn Thị Lan
Nhóm SV thực hiện:
Nguyễn Hà Thương 1211510066 118 50%
Phạm Thị Hoàng Yến 1211510078 138 50%
Hà Nội, 9/2013
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC KÍ HIỆU
DN
Doanh nghiệp
MNC
Công ty đa quốc gia
FDI
Vốn đầu tư trực tiếp
UBND
Ủy ban nhân dân
ĐTNN
Đầu tư nước ngoài
TNDN
Thu nhập doanh nghiệp
LA
Hợp đồng công nghệ
APA
Phương pháp tính giá
LỜI MỞ ĐẦU
Đối với nền kinh tế thế giới hiện nay, không ai không nhận thấy rằng toàn cầu hóa là một quá trình tất yếu, đang và đã tạo ra những cơ hội không hề nhỏ cho các nước có nền kinh tế đang phát triển hội nhập. Bên cạnh những lợi ích mà toàn cầu hoá mang lại, chính nó cũng đang đặt ra cho các nước đang phát triển những thách thức và nguy cơ hết sức to lớn. Một trong số đó xuất phát từ hoạt động kinh doanh của các công ty ĐQG trên thế giới.
Các công ty đa quốc gia (MNCs) được thành lập nhiều nơi trên thế giới với dòng vốn FDI luân chuyển mạnh. Với việc tự do hóa thương mại, các công ty này đã góp phần tạo ra sự dịch chuyển dòng vốn giữa các quốc gia, giữa các tổ chức trên thế giới, tạo ra sự cân bằng trong nguồn tài chính giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển, đồng thời làm tổng sản lượng thế giới tăng lên một lượng đáng kể.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực đó, hoạt động của các công ty đa quốc gia cũng mang lại không ít những tiêu cực mà nổi bật trong đó là hành vi “chuyển giá” nhằm trốn tránh nghĩa vụ đối với Nhà nước và thâu tóm doanh nghiệp nước sở tại. Có thể nói, tình hình chuyển giá đã và đang là một thực trạng đáng báo động ở các nước đang phát triển hiện nay. Các công ty đa quốc gia tiến hành hoạt động chuyển giá dưới mọi hình thức, gây thiệt hại không nhỏ cho nước tiếp nhận đầu tư và cản trở sự phát triển của các doanh nghiệp trong nước.
Với mục đích tìm hiểu về vấn đề mang tính thời sự và nhiều bất cập này, nhóm chúng em đã chọn đề tài nghiên cứu: “Chiến lược thâm nhập của các công ty đa quốc gia vào các nước đang phát triển và các hình thức thủ đoạn “chuyển giá” của các công ty này ở các nước nhận đầu tư”.
Do lượng kiến thức và thời gian có hạn nên bài tiểu luận của chúng em còn nhiều thiếu sót, rất mong nhận được sự góp ý của cô để bài viết được hoàn thiện hơn.
NỘI DUNG
Chiến lược thâm nhập của các công ty vào các nước đang phát triển
1. Khái niệm công ty đa quốc gia
Công ty đa quốc gia thường được viết tắt là MNC (Multinational corporration) hoặc MNE (Multinational enterprises) là khái niệm để chỉ các công ty sản xuất hay cung cấp dịch vụ ở ít nhất hai quốc gia. Các công ty đa quốc gia lớn có ngân sách vượt qua ngân sách cuả nhiều quốc gia. Các công ty đa quốc gia có thể ảnh hưởng lớn đến mối quan hệ quốc tế và các nền kinh tế quốc gia. Các công ty đa quốc gia đóng vai trò lớn trong quá trình toàn cầu hóa.
Ban đầu, các công ty đa quốc gia cũng được thành lập tại một quốc gia tức là công ty quốc gia. Công ty quốc gia này mang quốc tịch của một nước và vốn đầu tư vào công ty này thuộc quyền sở hữu của các nhà tư bản nước sở tại. Công ty quốc gia này kinh doanh ngày càng phát triển và hàng hóa, dịch vụ do công ty này sản xuất ra ngày càng nhiều và chất lượng. Vì vậy mà nhu cầu mở rộng thị trường tiêu thụ các sản phẩm của công ty là tất yếu. Lúc bấy giờ, thị trường các nước lân cận hay các nước có nhu cầu sản phẩm của công ty trở nên thật hấp dẫn. Các công ty này sẽ bắt đầu tiến hành mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm sang các thị trường này bằng cách xuất khẩu các sản phẩm. Thị trường ngày càng được mở rộng vì vậy mà các công ty bắt đầu nghĩ đến việc mở rộng sản xuất kinh doanh sang các nước lân cận, các nước mà có nhu cầu sản phẩm của công ty nhiều. Do quá trình phát triển thị trường tiêu thụ, các công ty này tìm được các nguồn nguyên liệu và nhân công có chi phí thấp hơn tại quốc gia mà công ty trú ngụ. Vì vậy mà công ty sẽ tiến hành xây dựng các chi nhánh hay các công ty con tại các quốc gia mà có những lợi thế so sánh về chi phí nguyên vật liệu, nhân công đầu vào nhằm tìm kiếm mức lợi nhuận ngày càng cao. Như vậy do nhu cầu phát triển và mở rộng thị trường của mình mà các công ty này đã thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh trên địa bàn rộng lớn và vượt ra khỏi biên giới của một quốc gia nên được gọi là công ty đa quốc gia.
Công ty đa quốc gia bao gồm công ty mẹ ở một nước, và thực hiện các đầu tư FDI ra nước ngoài để hình thành các công ty con. Các công ty mẹ con này ảnh hưởng lẫn nhau và cùng chia sẻ kiến thức, nguồn lực và trách nhiệm lẫn nhau.
2.Mục tiêu thâm nhập và hình thức thâm nhập thị trường của các Công ty đa quốc gia vào các nước đang phát triển
2.1. Mục tiêu xâm nhập thị trường
Xâm nhập thị trường đa quốc gia là hình thức đặc biệt của phát triển, nghĩa là công ty tìm cách gia tăng thị phần của sản phẩm hiện thời trên thị trường quốc gia đó bằng cách đưa ra một chiến lược marketing hỗn hợp tích cực và có hiệu quả hơn.
Với mục tiêu tăng số lượng mại vụ đối với khách hàng hiện tại, thu hút khách hàng của các đối thủ cạnh tranh và những khách hàng mới công ty sẽ phải gia tăng nỗ lực marketing như: Đưa ra chiến dịch quảng cáo mới hữu hiệu, nhân rộng số cửa hàng, các điểm bán và mạng lưới tiêu thụ tại quốc gia đó, giảm giá hay bán trả chậm, không ngừng tăng cường chất lượng sản phẩm.
Nói chung tất cả các nỗ lực marketing này đều nhằm gia tăng thị phần của công ty trên thị trường quốc gia đó và đó cũng chính là mục tiêu chính của chiến lược xâm nhập thị trường quốc gia.
2.2.Hình thức thâm nhập thị trường của các Công ty đa quốc gia vào các nước đang phát triển.
Nhiều nghiên cứu cho thấy việc mở rộng thị trường ra nước ngoài là mục tiêu của MNC nhằm khai thác tối ưu các nguồn lực để sản xuất sản phẩm độc quyền mang tính quốc tế; vừa để thu lợi nhuận độc quyền, vừa nỗ lực giảm thiểu các đe doạ cạnh tranh do các đối thủ áp đặt. Đối phó với những thách thức này, MNC liên tục thâm nhập vào các nền kinh tế đặc biệt là các nước đang phát triển để phát triển thị trường dưới nhiều hình thức.
2.2.1. Hình thức xuất khẩu
Xuất khẩu hàng hoá là hình thức đầu tiên của quá trình thâm nhập thị trường quốc tế thông qua hoạt động tiêu thụ những hàng hoá được sản xuất trong nước ra thị trường bên ngoài. Phần lớn các doanh nghiệp bắt đầu mở rộng thị trường toàn cầu bằng xuất khẩu và sau đó chuyển sang hình thức khác để đáp ứng nhu cầu thị trường của mình.
Đặc điểm chung lớn nhất của xuất khẩu là việc di chuyển sản phẩm qua biên giới quốc gia, phạm vi hoạt động mở rộng, chịu tác động phức tạp của nhiều yếu tố môi trường nước ngoài như chính trị, pháp luật, văn hoá, xã hội, địa lý, khí hậu.
● Xuất khẩu trực tiếp
Xuất khẩu trực tiếp là hình thức tham gia thị trường quốc tế khá phổ biến với mọi doanh nghiệp trên thế giới, trong đó các doanh nghiệp tiến hành đưa hàng hóa sang thị trường nước ngoài để khai thác lợi thế so sánh giữa các quốc gia, nhằm nâng cao lợi nhuận trong hoạt động kinh doanh.
Lợi thế đối với doanh nghiệp xuất khẩu trực tiếp:
Doanh nghiệp trực tiếp tiếp xúc với thị trường nước ngoài, do vậy có thể nắm bắt được tình hình thị trường, thường xuyên cập nhật những nhu cầu mới và thị hiếu thay đổi của khách hàng để kịp thời cải tiến sản phẩm, thỏa mãn tốt nhất nhu cầu đó.
Doanh nghiệp xuất khẩu có thể chủ động đối phó với những diễn biến trên từng thị trường nước ngoài.
Doanh nghiệp không phải chịu những chi phí xuất khẩu trung gian và lợi nhuận không bị chia sẻ như hình thức xuất khẩu gián tiếp.
Điểm bất lợi của hình thức xuất khẩu trực tiếp:
Doanh nghiệp phải dàn trải các nguồn lực của mình trên phạm vi thị trường rộng lớn phức tạp hơn, phải chấp nhận môi trường cạnh tranh quốc tế khốc liệt hơn và nhiều rủi ro hơn.
Doanh nghiệp mất nhiều thời gian, tốn nhiều nhân lực, sử dụng nhiều nguồn tài lực hơn xuất khẩu gián tiếp. Do đó, để có thể thâm nhập thành công thị trường nước ngoài, các doanh nghiệp cần phải lựa chọn kỹ thị trường sao cho phù hợp với tiềm lực và khả năng của mình.
Hình thức này đòi hỏi chi phí tốn kém, do vậy chỉ thực hiện khi có đủ số lượng hàng lớn. Hơn nữa, các hàng rào thuế quan hoặc chi phí vận chuyển cao cũng có thể làm cho việc xuất khẩu trở nên không kinh tế.
Trường hợp áp dụng hình thức xuất khẩu trực tiếp:
Doanh nghiệp đã nghiên cứu thị trường và có đầy đủ những thông tin cần thiết nhằm đảm bảo chắc chắn cho hoạt động kinh doanh đạt hiệu quả như dự kiến.
Doanh nghiệp phải có đủ nguồn lực để mở rộng hoạt động ra thị trường nước ngoài.
Doanh nghiệp có khả năng quản lý, điều hành hoạt động xuất khẩu hiệu quả.
● Xuất khẩu gián tiếp
Đây là hình thức tham gia thị trường nước ngoài không đòi hỏi sự tiếp xúc trực tiếp giữa người mua nước ngoài và người sản xuất trong nước. Ðể bán được sản phẩm của mình ra nước ngoài, người sản xuất phải thông qua các tổ chức trung gian thông thạo nghiệp vụ kinh doanh xuất nhập khẩu. Hình thức này có những ưu điểm và nhược điểm sau:
Ưu điểm của hình thức xuất khẩu gián tiếp:
Giúp cho người sản xuất thâm nhập nhanh chóng vào thị trường nước ngoài. Chẳng hạn, doanh nghiệp có thể sử dụng công ty quản lý xuất khẩu có nhiều kinh nghiệm hoạt động trên thị trường nước ngoài và do đó, giảm bớt được rủi ro gắn liền với việc bán hàng trong môi trường xa lạ. Hơn nữa, doanh nghiệp còn sử dụng được kinh nghiệm, vốn và cơ sở vật chất của chuyên gia, trung gian. Thông qua xuất khẩu gián tiếp, doanh nghiệp có thể tạo dựng được hình ảnh, uy tín của mình trên thị trường quốc tế.
Khó khăn của hình thức xuất khẩu gián tiếp:
Phải trả chi phí cho người trung gian do đó lợi nhuận của doanh nghiệp bị giảm. Doanh nghiệp không biết được kịp thời nhu cầu biến động của thị trường nước ngoài cũng như tâm lý thị hiếu của khách hàng khi tiêu thụ sản phẩm.
Trường hợp áp dụng hình thức xuất khẩu gián tiếp:
Doanh nghiệp chưa có đủ thông tin cần thiết về thị trường nước ngoài, như nhu cầu và cầu cụ thể, tập quán và thị hiếu của người tiêu dùng, đối thủ cạnh tranh.
Lần đầu tiên doanh nghiệp tham gia vào thị trường nước ngoài.
Qui mô kinh doanh của doanh nghiệp còn nhỏ, các nguồn lực có hạn, chưa thể dàn trải các hoạt động ở nước ngoài.
Thị trường nước ngoài phức tạp, cạnh tranh gay gắt và có độ rủi ro cao.
Doanh nghiệp có thể gặp phải rào cản thương mại từ phía nhà nước.
2.2.2. Hình thức kết hợp giữa hoạt động trong và ngoài nước
● Cấp giấy phép
Cấp giấy phép là một hình thức hợp đồng nhượng quyền sử dụng sản phẩm trí tuệ để tiến hành sản xuất và tiêu thụ sản phẩm ở thị trường nước ngoài. Thông thường đối tượng của hợp đồng mua bán giấy phép hiện nay là: bằng sáng chế phát minh (Patent), quyền tác giả hay tác quyền (Copyrights), nhãn hiệu thương mại (Trademarks), các qui trình công nghệ (Technological Process), bí quyết kỹ thuật (Know how).
Thuận lợi của hình thức Licensing:
Doanh nghiệp được cấp phép có cơ hội nhanh chóng tiếp cận thị trường nước ngoài, giảm thiểu rủi ro, không phải đầu tư nhiều thời gian và tiền bạc do chi phí bỏ ra thấp. Do vậy, các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể dễ dàng áp dụng chiến lược này trong việc mở rộng kinh doanh quốc tế nhằm duy trì được mục tiêu doanh số và lợi nhuận của mình.
Doanh nghiệp cấp phép vẫn có thể thu được một khoản tiền không nhỏ sau thời gian sử dụng sản phẩm trí tuệ của mình với mức lợi nhuận và hiệu quả cao, khai thác triệt để sản phẩm trí tuệ, tăng thêm mức đầu tư phát triển công nghệ mới, tiếp tục nâng cao lợi thế cạnh tranh trong kinh doanh quốc tế.
Một doanh nghiệp với công nghệ, bí quyết và có trình độ chất xám cao có thể sử dụng các thỏa ước cấp giấy phép và đổi lại có một khoản thu dành cho việc đầu tư vào các danh mục khác.
Doanh nghiệp có thể đẩy mạnh việc phổ biến các sản phẩm và công nghệ mới trên thị trường nước ngoài. Hợp đồng cấp phép được thiết lập trong bối cảnh toàn bộ chiến lược của doanh nghiệp có tính đến sự mở rộng và phát triển thị trường thế giới trong thời gian dài. Do đó với doanh nghiệp có kế hoạch thâm nhập thị trường quốc tế, cấp giấy phép là phương thức thích hợp để thâm nhập nhanh vào những thị trường có qui mô nhỏ. Điều này tạo điều kiện cho doanh nghiệp tập trung nguồn lực, thâm nhập vào những thị trường khác có qui mô lớn hơn.
Khó khăn của hình thức Licensing:
Doanh nghiệp cấp phép không còn độc quyền về sở hữu trí tuệ ngay sau khi đã cấp phép. Vì vậy, doanh nghiệp được cấp phép sẽ trở thành đối thủ cạnh tranh trực tiếp với doanh nghiệp cấp phép trên thị trường.
Doanh nghiệp cấp phép gặp khó khăn trong việc kiểm soát khối lượng bán của công ty nước ngoài, điều này ảnh hưởng tới lệ phí bản quyền.
Doanh nghiệp cấp phép khó có thể kiểm soát được tiêu chuẩn sản phẩm và chất lượng dịch vụ ở thị trường nước ngoài. Điều này có thể làm giảm uy tín, chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp trên thị trường quốc tế.
● Xuất khẩu có sự trợ giúp của văn phòng đại diện
Văn phòng đại diện hoạt động tại thị trường nước ngoài sẽ giúp doanh nghiệp tập trung hơn nữa vào việc nghiên cứu thị trường, tìm ra phương pháp hiệu quả nhất để củng cố vị trí của doanh nghiệp trên thị trường mục tiêu. Thông thường, văn phòng đại diện chỉ có chức năng nghiên cứu, tư vấn. Rõ ràng cấp phép đảm bảo cho các công ty xuyên quốc gia thực hiện các giao dịch hành chính ban đầu chứ không có chức năng kinh doanh. Hình thức này có những thuận lợi và khó khăn sau:
Thuận lợi:
Đặt văn phòng đại diện tức là doanh nghiệp đã trực tiếp tiếp cận với thị trường, do vậy dễ dàng nắm được tình hình, những diễn biến trên thị trường, từ đó có những phản ứng mang tính chiến lược và hiệu quả hơn.
Doanh nghiệp nắm được thông tin về thị trường, khách hàng và đối thủ cạnh tranh, từ đó có những đóng góp cho việc xây dựng chiến lược thâm nhập vào thị trường.
Văn phòng đại diện có thể thực hiện các nghiệp vụ marketing trên thị trường nước ngoài phục vụ cho công tác thâm nhập và mở rộng thị trường của doanh nghiệp.
Khó khăn:
Do văn phòng đại diện không tiến hành các hoạt động kinh doanh, trong khi đó để đảm bảo cho hoạt động của nó đòi hỏi một chi phí cao so với các chi phí tại chỗ nên bước đầu làm tăng chi phí hành chính của doanh nghiệp.
Phạm vi hoạt động bị hạn chế và nhiều khi doanh nghiệp bị lệ thuộc vào sự năng động và tính hiệu quả của văn phòng đại diện.
● Gia công quốc tế
Gia công trong thương mại là hoạt động thương mại, theo đó bên nhận gia công sử dụng một phần hoặc toàn bộ nguyên liệu, vật liệu của bên đặt gia công để thực hiện một hoặc nhiều công đoạn trong quá trình sản xuất theo yêu cầu của bên đặt gia công để hưởng thù lao (Luật thương mại 2005 - điều 178).
Loại hình này có một số đặc trưng khác biệt so với hình thức xuất khẩu là:
Quyền sở hữu đối với nguyên vật liệu và hàng hóa không thay đổi, vì vậy không chỉ bên nhận gia công mà bên đặt gia công cũng phải quan tâm đến việc bảo quản hàng hóa, nguyên vật liệu trong suốt quá trình sản xuất và gia công lắp ráp hàng hóa.
Thực chất gia công là việc bên đặt gia công mua sức lao động tại nước nhận gia công để nâng cao tỷ suất lợi nhuận của mình. Đó là hình thức khai thác những lợi thế so sánh trong thương mại quốc tế về giá cả sức lao động. Tuy nhiên, việc mua bán sức lao động lại gắn liền với quá trình sản xuất hàng hóa, do vậy trong khi thực hiện hoạt động này đòi hỏi những kĩ năng rộng hơn cả ở lĩnh vực sản xuất và thương mại.
Chính vì những đặc trưng trên mà các nhà kinh doanh trên thị trường hàng hóa thế giới đã sử dụng hình thức này như một công cụ để thâm nhập vào thị trường nước ngoài có hàng rào bảo hộ chặt chẽ.
● Nhượng quyền thương mại (Franchising)
Hoạt động nhượng quyền thương mại trên thế giới đã có từ lâu. Khi nhắc tới hoạt động nhượng quyền thương mại thành công, người ta thường nghĩ tới hoạt động nhượng quyền của McDonald’s, Kentucky Fried Chicken (KFC), hay khách sạn Hilton…
Theo luật thương mại Việt Nam năm 2005 (điều 284): Nhượng quyền thương mại là hoạt động thương mại, theo đó bên nhượng quyền cho phép và yêu cầu bên nhận nhượng quyền tự mình tiến hành việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ theo các điều kiện sau đây:
Thứ nhất, việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ được tiến hành theo cách thức tổ chức kinh doanh do bên nhượng quyền qui định và được gắn với nhãn hiệu hàng hóa, tên thương mại, bí quyết kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh,biểu tượng kinh doanh, quảng cáo của bên nhượng quyền.
Thứ hai, bên nhượng quyền có quyền kiểm soát và trợ giúp cho bên nhận nhượng quyền trong việc điều hành công việc kinh doanh.
Hình thức này có một số ưu điểm và nhược điểm sau:
Ưu điểm:
Franchising là hình thức có thể kết hợp tối đa những lợi thế so sánh của cả hai bên để nâng cao tính cạnh tranh cho sản phẩm hàng hóa hay dịch vụ và như vậy tạo khả năng thành công lớn hơn khi thực hiện. Cả hai bên có thể khai thác những lợi thế của nhau để phục vụ cho kết quả kinh doanh kể cả những lợi thế vô hình như uy tín của bên chuyển nhượng, vị trí cửa hàng của bên nhận chuyển nhượng.
Hai bên thực hiện việc quản lý và bàn bạc trao đổi những kinh nghiệm, những sáng kiến trong hoạt động marketing nhằm thích ứng các hoạt động kinh doanh của mình với những điều kiện thay đổi của thị trường.
Với hình thức thâm nhập này, cùng lúc doanh nghiệp có thể phát triển thương hiệu ở nhiều thị trường, hạn chế rủi ro và tiết kiệm thời gian.
Lợi thế nổi bật nhất của hình thức Franchising là chi phí. Thứ nhất, về cơ cấu chi phí: Franchising giảm thiểu được hàng loạt các yếu tố chi phí, như phí chuyên chở và bảo quản nguyên liệu do khai thác tại chỗ, các chi phí thuế quan (xuất nhập khẩu), giảm chi phí về tiền lương do chi phí thuê lao động tại chỗ thấp… Thứ hai, về tổng giá thành: do sự phát triển nhanh của Franchising gắn liền với việc mở rộng về qui mô kinh doanh quốc tế nên việc mở rộng qui mô cũng đồng nghĩa với quá trình giảm giá thành trên một đơn vị sản phẩm.
Khó khăn:
Bất lợi lớn nhất của Franchising đó là vấn đề kiểm soát chất lượng. Nền tảng của thỏa thuận Franchising là thương hiệu nổi tiếng của doanh nghiệp chuyển giao, là chuyển thông tin đến người tiêu dùng về chất lượng sản phẩm. Tuy nhiên, bên nhận chuyển giao nước ngoài có thể không quan tâm về chất lượng như bên chuyển giao đề nghị, kết quả là chất lượng sản phẩm kém, doanh thu thấp và làm giảm uy tín của bên chuyển giao trên thị trường nước ngoài.
● Đặt chi nhánh của doanh nghiệp tại nước ngoài
Đặt chi nhánh của doanh nghiệp ở nước ngoài là doanh nghiệp bắt đầu chuyển các hoạt động kinh doanh của mình ra nước ngoài, do vậy xác suất rủi ro lớn hơn, cuộc cạnh tranh cũng bắt đầu khốc liệt hơn. Đây là một bước thử thách có tính toàn diện cho hoạt động kinh doanh ở nước ngoài của doanh nghiệp.
Thuận lợi:
Chi nhánh có thể khai thác những lợi thế so sánh, tiến hành các hoạt động kinh doanh nhằm mang lại lợi nhuận cao cho doanh nghiệp.
Chi nhánh có thể thay mặt doanh nghiệp thực hiện những biện pháp bảo vệ lợi ích của doanh nghiệp trên thị trường nước ngoài.
Khó khăn:
Chi phí cho việc thành lập chi nhánh ở nước ngoài lớn, dàn trải và đòi hỏi doanh nghiệp phải có đội ngũ cán bộ giàu kinh nghiệm và đủ sức tin cậy.
Hoạt động của chi nhánh chưa được hạch toán một cách độc lập, do vậy không đảm bảo khả năng linh hoạt cho doanh nghiệp trên thị trường nước ngoài.
2.2.3. Hình thức đầu tư trực tiếp
Đây là hình thức mà các doanh nghiệp đưa vốn đầu tư trực tiếp vào thị trường nước ngoài nhằm khai thác tối đa những lợi thế trên thị trường đó. Hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài cụ thể là: thành lập công ty liên doanh, công ty con 100% vốn nước ngoài và Công-xoóc-xi-om (Consortium).
● Công ty liên doanh
Khi xét thấy thị trường nước ngoài có những lợi thế về kinh tế, xã hội, tự nhiên… so với các điều kiện đó của nước mình, lãnh đạo doanh nghiệp quyết định tạo lập cơ sở kinh doanh trên thị trường đó. Tuy nhiên, hình thức tiếp theo là gì nếu doanh nghiệp nhận thấy: Tự mình thì không đủ vốn hoặc tiềm lực để thực hiện các hoạt động kinh doanh trên thị trường nước