Trong xu thế toàn cầu hóa như hiện nay, mọi sự phát triển hay thay đổi của hệ thống ngân hàng trên thế giới đều ít nhiều ảnh hưởng tới hệ thống ngân hàng tại Việt Nam. Sự xuất hiện của các ngân hàng nước ngoài cùng với các dịch vụ ngân hàng mới đã tạo ra môi trường cạnh tranh đồng thời đặt ra yêu cầu và thách thức cho các ngân hàng của Việt Nam. Trong những năm qua hệ thống Ngân hàng Việt Nam đã đổi mới một cách căn bản về mô hình tổ chức, cơ chế điều hành và nghiệp vụ. Trong đó, xu hướng nổi bật dễ dàng nhận thấy là việc các ngân hàng ngày càng đa dạng hoá các hoạt động của mình để có thể đáp ứng được nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt là để phù hợp được với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt từ các tổ chức tín dụng trong và ngoài nước. Trong xu hướng đó thì hoạt động cho vay đối với khách hàng cá nhân, đặc biệt là cho vay tín chấp tiêu dùng ngày càng được chú trọng cả ở khối ngân hàng thương mại cổ phần lẫn khối ngân hàng thương mại quốc doanh trong hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam.
Sau nhiều khuyến nghị từ các chuyên gia, tổ chức trong và ngoài nước, ngày 23/1/2009, Phó thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Đồng Tiến đã ký ban hành Thông tư số 01/2009/TT-NHNN, hướng dẫn về lãi suất thỏa thuận của tổ chức tín dụng đối với cho vay các nhu cầu vốn phục vụ đời sống, cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng.Văn bản trên chính thức tạo điều kiện để các ngân hàng thương mại nối lại và thúc đẩy hoạt động cho vay tiêu dùng mà loại hình căn bản là cho vay tín chấp tiêu dùng. Từ đầu tháng 2/2009, nhiều ngân hàng thương mại đã chính thức công bố triển khai các sản phẩm cho vay tiêu dùng với những hạn mức khá ưu đãi. Với mức thu nhập hiện nay, phần lớn người tiêu dùng không thể chi trả cho tất cả các nhu cầu mua sắm cùng lúc, đặc biệt là những vật dụng đắt tiền. Với việc được vay mà không cần tài sản đảm bảo, cho vay tín chấp tiêu dùng dần trở thành sự lựa chọn hàng đầu của các khách hàng cá nhân.
Về phía các ngân hàng, ngân hàng nhận định cho vay tín chấp tiêu dùng là loại hình cho vay rủi ro cao. Để giảm thiểu và ngăn ngừa rủi ro của loại hình này, các ngân hàng cần phải có sự kiểm soát chặt chẽ từ giai đoạn đầu của quy trình cho vay là tìm hiểu khách hàng đến giai đoạn cuối cùng là thanh lý hợp đồng. Nói cách khác, các ngân hàng phải có hệ thống kiểm soát nội bộ thật vững mạnh, dựa trên hệ thống các văn bản quy định chặt chẽ và hợp lý về quy trình cho vay, quy định về khách hàng cùng những yếu tố khác.
Trên cơ sở nhận định đó, qua thời gian tìm hiểu thực tế tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam-Chi nhánh Thừa Thiên Huế (BIDV Huế), em quyết định chọn đề tài “Đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ trong quy trình cho vay tiêu dùng tín chấp tại ngân hàng Đầu Tư và Phát Triển Việt Nam- Chi nhánh Thừa Thiên Huế” để thực hiện khóa luận tốt nghiệp cho đợt thực tập cuối khóa của mình.
Kết cấu Luận văn: Luận văn được chia làm 3 phần
Phần I- Đặt vấn đề
Phần II- Nội dung và kết quả nghiên cứu
Chương 1: Cơ sở lý luận chung về hệ thống kiểm soát nội bộ và các vấn đề liên quan đến hoạt động cho vay tín chấp tiêu dùng tại các ngân hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng hoạt động kiểm soát nội bộ quy trình cho vay tín chấp tiêu dùng tại ngân hàng BIDV Huế
Chương 3: Đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ quy trình cho vay tín chấp tiêu dùng tại ngân hàng BIDV Huế
Phần III: Kết luận và kiến nghị
73 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 4776 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ trong quy trình cho vay tiêu dùng tín chấp tại ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam - Chi nhánh Thừa Thiên Huế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN I- GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI
1. Lý do chọn đề tài
Trong xu thế toàn cầu hóa như hiện nay, mọi sự phát triển hay thay đổi của hệ thống ngân hàng trên thế giới đều ít nhiều ảnh hưởng tới hệ thống ngân hàng tại Việt Nam. Sự xuất hiện của các ngân hàng nước ngoài cùng với các dịch vụ ngân hàng mới đã tạo ra môi trường cạnh tranh đồng thời đặt ra yêu cầu và thách thức cho các ngân hàng của Việt Nam. Trong những năm qua hệ thống Ngân hàng Việt Nam đã đổi mới một cách căn bản về mô hình tổ chức, cơ chế điều hành và nghiệp vụ. Trong đó, xu hướng nổi bật dễ dàng nhận thấy là việc các ngân hàng ngày càng đa dạng hoá các hoạt động của mình để có thể đáp ứng được nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt là để phù hợp được với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt từ các tổ chức tín dụng trong và ngoài nước. Trong xu hướng đó thì hoạt động cho vay đối với khách hàng cá nhân, đặc biệt là cho vay tín chấp tiêu dùng ngày càng được chú trọng cả ở khối ngân hàng thương mại cổ phần lẫn khối ngân hàng thương mại quốc doanh trong hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam.
Sau nhiều khuyến nghị từ các chuyên gia, tổ chức trong và ngoài nước, ngày 23/1/2009, Phó thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Đồng Tiến đã ký ban hành Thông tư số 01/2009/TT-NHNN, hướng dẫn về lãi suất thỏa thuận của tổ chức tín dụng đối với cho vay các nhu cầu vốn phục vụ đời sống, cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng.Văn bản trên chính thức tạo điều kiện để các ngân hàng thương mại nối lại và thúc đẩy hoạt động cho vay tiêu dùng mà loại hình căn bản là cho vay tín chấp tiêu dùng. Từ đầu tháng 2/2009, nhiều ngân hàng thương mại đã chính thức công bố triển khai các sản phẩm cho vay tiêu dùng với những hạn mức khá ưu đãi. Với mức thu nhập hiện nay, phần lớn người tiêu dùng không thể chi trả cho tất cả các nhu cầu mua sắm cùng lúc, đặc biệt là những vật dụng đắt tiền. Với việc được vay mà không cần tài sản đảm bảo, cho vay tín chấp tiêu dùng dần trở thành sự lựa chọn hàng đầu của các khách hàng cá nhân.
Về phía các ngân hàng, ngân hàng nhận định cho vay tín chấp tiêu dùng là loại hình cho vay rủi ro cao. Để giảm thiểu và ngăn ngừa rủi ro của loại hình này, các ngân hàng cần phải có sự kiểm soát chặt chẽ từ giai đoạn đầu của quy trình cho vay là tìm hiểu khách hàng đến giai đoạn cuối cùng là thanh lý hợp đồng. Nói cách khác, các ngân hàng phải có hệ thống kiểm soát nội bộ thật vững mạnh, dựa trên hệ thống các văn bản quy định chặt chẽ và hợp lý về quy trình cho vay, quy định về khách hàng cùng những yếu tố khác.
Trên cơ sở nhận định đó, qua thời gian tìm hiểu thực tế tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam-Chi nhánh Thừa Thiên Huế (BIDV Huế), em quyết định chọn đề tài “Đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ trong quy trình cho vay tiêu dùng tín chấp tại ngân hàng Đầu Tư và Phát Triển Việt Nam- Chi nhánh Thừa Thiên Huế” để thực hiện khóa luận tốt nghiệp cho đợt thực tập cuối khóa của mình.
Kết cấu Luận văn: Luận văn được chia làm 3 phần
Phần I- Đặt vấn đề
Phần II- Nội dung và kết quả nghiên cứu
Chương 1: Cơ sở lý luận chung về hệ thống kiểm soát nội bộ và các vấn đề liên quan đến hoạt động cho vay tín chấp tiêu dùng tại các ngân hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng hoạt động kiểm soát nội bộ quy trình cho vay tín chấp tiêu dùng tại ngân hàng BIDV Huế
Chương 3: Đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ quy trình cho vay tín chấp tiêu dùng tại ngân hàng BIDV Huế
Phần III: Kết luận và kiến nghị2. Mục tiêu nghiên cứu
♦Về lý thuyết: làm rõ các khái niệm và nội dung cơ bản liên quan đến hệ thống kiểm soát nội bộ và cho vay tín chấp tiêu dùng, các rủi ro gắn liền với loại hình này cùng các yêu cầu đặt ra đối với kiểm soát rủi ro quy trình cho vay tín chấp tiêu dùng.
♦Về mặt thực tế: Thông qua nghiên cứu thực tiễn, đánh giá thực trạng hoạt động kiểm soát nội bộ quy trình cho vay tín chấp tiêu dùng tại ngân hàng BIDV Huế. Đồng thời, em cũng tiến hành điều tra tình hình cho vay tín chấp tiêu dùng của các ngân hàng trên địa bàn tỷnh Thừa Thiên Huế, từ đó so sánh, rút ra những ưu điểm, thành tựu đồng thời là những tồn tại, hạn chế cần được giải quyết tại ngân hàng BIDV Huế.
3. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu môi trường, các chính sách, thủ tục kiểm soát được quy định đối với hoạt động cho vay tín chấp tiêu dùng.
4. Phạm vi nghiên cứu
♦Về nội dung: Việc nghiên cứu hệ thống kiểm soát nội bộ chỉ dừng lại ở nghiên cứu hệ thống các thủ tục, quy định liên quan đến việc kiểm soát rủi ro của loại hình cho vay tín chấp tiêu dùng.
♦Không gian: Phòng QHKHCN- BIDV Huế.
♦Thời gian: Thời gian tìm hiểu và nghiên cứu diễn ra trong 3 tháng, từ tháng 2 đến tháng 5 năm 2011. Về tình hình hoạt động của BIDV Huế, em sẽ tiến hành phân tích trong khoảng thời gian 3 năm từ năm 2008 đến năm 2010.
♦Địa điểm: BIDV Huế - Số 41 Hùng Vương, TP Huế.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành luận văn này, trong quá trình phân tích em đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
♦Phương pháp phỏng vấn trực tiếp: Hỏi trực tiếp những cán bộ trong phòng QHKHCN và các phòng có liên quan thông qua bảng hỏi.
♦Phương pháp điều tra thu thập số liệu: Thu thập những thông tin, dữ liệu cần thiết cho việc nghiên cứu. Đây là phương pháp được sử dụng để tập hợp những thông tin, số liệu thực sự cần thiết cho đề tài.
♦Phương pháp thống kê mô tả: Thống kê, xử lý các phiếu điều tra được phát cho các nhân viên tín dụng của các ngân hàng trên địa bàn Thừa Thiên Huế.
♦Phương pháp thống kê: Thống kê, sắp xếp những thông tin, dữ liệu thu thập được để hoàn thành công việc nghiên cứu.
♦Phương pháp so sánh: Dựa vào những số liệu để tiến hành so sánh, đối chiếu(cả về tương đối lẫn tuyệt đối), thường là so sánh giữa hai năm để tìm ra sự tăng giảm của giá trị giúp cho quá trình phân tích kinh doanh cũng như các quá trình khác.
Do nhiều hạn chế về kiến thức và kinh nghiệm nghiên cứu, hạn chế về số liệu nên Luận văn không tránh khỏi những thiếu sót.Vì vậy, em kính mong nhận được sự quan tâm đóng góp ý kiến từ quý thầy cô giáo, Ban Lãnh đạo Ngân hàng cùng bạn đọc để Luận văn được hoàn thiện hơn.
6. Tính mới của đề tài
Theo sự tìm hiểu của riêng cá nhân em, hiện nay các đề tài về cho vay tín chấp hoặc cho vay tiêu dùng của các ngành như quản trị hoặc tài chính ngân hàng đã có nhưng với chuyên ngành kế toán kiểm toán em đang theo học thì hầu như chưa có sinh viên nào làm về đề tài này. Nguyên nhân này có thể xuất phát từ nhiều lý do như đây là hoạt động mới, ít có các lý thuyết liên quan và việc kiểm soát rủi ro cho vay chủ yếu dựa trên tính tự kiểm tra, kiểm soát của quy trình và các văn bản quy định. Ngoài ra, vai trò của phòng kiểm toán nội bộ (phòng quản lý rủi ro) ít quan trọng hơn mà chủ yếu là sự kiểm tra qua lại giữa các phòng với nhau, cụ thể là giữa phòng QHKHCN và PQTTD, phòng QHKHCN và phòng QLRR. Theo em, hệ thống kiểm soát nội bộ ảnh hưởng và bao trùm lên toàn bộ các hoạt động của ngân hàng nên hoạt động cho vay tín chấp tiêu dùng cũng không phải là ngoại lệ. Cũng xuất phát từ sự quan tâm của chính mình nên em đã quyết định chọn đề tài này.
PHẦN II- NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG 1: Cơ sở lý luận chung về hệ thống kiểm soát nội bộ và các vấn đề liên quan đến hoạt động cho vay tín chấp tiêu dùng tại các NHTM.
Tổng quan về NHTM
Khái niệm, chức năng của NHTM
♦ Khái niệm NHTM
NHTM là tổ chức kinh doanh tiền tệ tín dụng có vị trí quan trọng nhất trong nền kinh tế thị trường ở các nước. Có nhiều khái niệm khác nhau về NHTM:
Ở Mỹ: NHTM là công ty kinh doanh tiền tệ, chuyên cung cấp dịch vụ tài chính và hoạt động trong ngành công nghiệp dịch vụ tài chính.
Ở Ấn Độ: NHTM là cơ sở nhận các khoản ký thác để cho vay hay tài trợ đầu tư.
Theo Pháp lệnh ngân hàng năm 1990 của Việt Nam: “NHTM là một tổ chức kinh doanh tiền tệ mà nghiệp vụ thường xuyên và chủ yếu là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, chiết khấu và làm phương tiện thanh toán.
Theo Luật các Tổ chức Tín dụng Việt Nam có hiệu lực vào tháng 10/1998: “NHTM là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng bao gồm: NHTM, ngân hàng đầu tư, ngân hàng phát triển, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác và các loại ngân hàng khác”.
Trong các ngân hàng trung gian, NHTM là loại hình kinh doanh điển hình. Hệ thống các NHTM chiếm vị trí quan trọng nhất về quy mô tài sản và về thành phần các nghiệp vụ. Hoạt động của NHTM bao gồm 3 lĩnh vực: nghiệp vụ nợ (huy động vốn), nghiệp vụ có (cho vay kinh doanh) và nghiệp vụ môi giới trung gian (dịch vụ thanh toán, đại lí, tư vấn, thông tin, giữ hộ chứng từ có giá…). Ba loại nghiệp vụ đó có quan hệ mật thiết, tác động hỗ trợ, thúc đẩy nhau phát triển, tạo nên uy tín cho ngân hàng.
♦ Chức năng của NHTM
NHTM có các chức năng chủ yếu sau:
NHTM là một định chế tài chính trung gian:
NHTM thực hiện chức năng trung gian tài chính khi ngân hàng đứng giữa thu nhận tiền gửi của người gửi tiền để cho vay người cần tiền vay tiền hoặc làm môi giới cho người đầu tư. Ở đây, NHTM vừa là người cho vay vừa là người đi vay. NHTM góp phần tạo lợi ích công bằng cho cả 3 bên trong quan hệ: Người gửi tiền, ngân hàng và người vay. Thông qua chức năng này, NHTM thực sự huy động được sức mạnh tổng hợp của nền kinh tế vào quá trình sản xuất và lưu thông hàng hóa, thực hiện các dịch vụ tiện ích cho xã hội, góp phần thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế.
NHTM vừa là thủ quỹ vừa là trung gian thanh toán của khách hàng
Trong quan hệ kinh doanh thương mại, nếu khối lượng giao dịch lớn thì việc thanh toán sẽ gặp khó khăn và cần có một tổ chức đứng ra đảm nhiệm công việc này. NHTM đã đứng ra thực hiện công việc đó nên nó có ý nghĩa rất lớn trong việc thuc đẩy quá trình lưu thông hàng hóa, an toàn và tiết kiệm chi phí. Nó tạo ra mối quan hệ khăng khít giữa ngân hàng và khách hàng. Vì vậy, quan hệ này đã tạo ra những tác động tích cực đối với tiến trình tăng trưởng và phát triển kinh tế. Qua việc thực hiện nghiệp vụ thanh toán hộ thì ngân hàng đã trở thành thủ quỹ cho khách hàng thông qua việc mở tài khoản tiền gửi thanh toán cho khách hàng tại ngân hàng. Việc thanh toán giữa các khách hàng được thực hiện bằng cách trích chuyển tiền từ tài khoản của người này sang tài khoản của người khác thông qua nghiệp vụ kế toán ngân hàng.
Chức năng tạo tiền:
NHTM ngoài việc thu hút tiền gửi và cho vay trên số tiền gửi đó còn tạo tiền khi phát tín dụng. Bút tệ hay tiền ghi sổ chỉ tạo ra khi phát tín dụng và thông qua tài khoản tại ngân hàng. Nó không có hình thái vật chất, nó chỉ là những con số trả tiền hay chuyển tiển thể hiện trên tài khoản ngân hàng. Thực chất bút tệ là tiền phi vật chất, ngoài những tính chất như tiền giấy là được sử dụng trong thanh toán, qua các công cụ thanh toán của ngân hàng như: séc, lệnh chuyển tiền…mà còn có những ưu điểm hơn tiền giấy, đó là an toàn hơn, chuyển đổi ra tiền giấy dễ dàng, thanh toán rất thuận tiện, kiểm nhận nhanh chóng, di chuyển dễ dàng, nó được sử dụng một cách phổ biến, điều này đã nói lên sức mua của đồng tiền ghi sổ hay bút tệ. Quá trình tạo tiền ghi sổ của ngân hàng được thực hiện thông quá hoạt động tín dụng và tổ chức thanh toán trong hệ thống ngân hàng.
Chức năng trung gian trong việc thực hiện chính sách tiền tệ
Hệ thống NHTM mặc dù mang tính chất độc lập nhưng nó luôn chịu sự quản lý chặt chẽ của ngân hàng trung ương về các mặt. Đặc biệt, NHTM phải luôn tuân theo các quyết định của ngân hàng trung ương về việc thực hiện chính sách tiền tệ, là các chủ thể đóng vai trò quan trọng trong quá trình thực hiện chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương.
Các nghiệp vụ cơ bản của NHTM
♦Hoạt động huy động vốn
Ngân hàng được nhận tiền gửi của tổ chức, cá nhân và các tổ chức tín dụng khác dưới các hình thức tiền gửi không kì hạn và các loại tiền gửi khác. Khi được Thống đốc ngân hàng Nhà nước chấp thuận, tổ chức tín dụng được phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu và giấy tờ có giá trị khác để huy động vốn của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước. Tổ chức tín dụng được vay vốn của nhau và của tổ chức tín dụng nước ngoài. Tổ chức tín dụng là ngân hàng thì được vay vốn của ngân hàng Nhà nước dưới hình thức tái cấp vốn (NHNN thực hiện tái cấp vốn cho các ngân hàng theo những hình thức: cho vay lại theo hồ sơ tín dụng; chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá ngắn hạn khác; cho vay có đảm bảo bằng cầm cố thương phiếu và giấy tờ có giá ngắn hạn khác).
♦ Hoạt động tín dụng
Ngân hàng thực hiện cấp tín dụng cho tổ chức, cá nhân dưới hình thức cho vay, chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá khác, bảo lãnh ngân hàng, cho thuê tài chính và các hình thức khác theo quy định của ngân hàng Nhà nước. Ngân hàng cho các tổ chức, cá nhân vay ngắn hạn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn sản xuất kinh doanh, dịch vụ, đời sống; cho vay trung và dài hạn nhằm thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh. Ngân hàng được phép cấp tín dụng dưới hình thức chiết khấu và tái chiết khấu, cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có giá khác. Ngân hàng được bảo lãnh bằng uy tín và khả năng tài chính của mình đối với tổ chức, cá nhân được thực hiện qua công ty cho thuê tài chính.
♦Hoạt động dịch vụ thanh toán và ngân quỹ
NHTM được phép mở tài khoản tại ngân hàng Nhà nước, tại các tổ chức tín dụng. NHTM được phép thực hiện các dịch vụ thanh toán trong nước cho khách hàng, thực hiện dịch vụ thanh toán quốc tế khi được ngân hàng Nhà nước cho phép, thực hiện dịch vụ thu hộ và chi hộ, thực hiện các dịch vụ thanh toán do ngân hàng Nhà nước quy định. Ngân hàng được tổ chức thanh toán nội bộ và tham gia hệ thống thanh toán liên ngân hàng trong nước. Việc tham gia các hệ thống thanh toán quốc tế phải được ngân hàng Nhà nước cho phép. NHTM được thực hiện dịch vụ thu, phát tiền mặt cho khách hàng và thực hiện các dịch vụ ngân quỹ khác.
Khái quát về hoạt động tín dụng của NHTM
Khái niệm tín dụng ngân hàng
Theo PGS.TS Lê Văn Tề: “Tín dụng ngân hàng là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hóa) giữa bên cho vay (Ngân hàng và các định chế tài chính khác) và bên đi vay (cá nhân, doanh nghiêp và các chủ thể khác) Trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời hạn nhất định theo thỏa thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán”.
Phân loại tín dụng ngân hàng
Tín dụng ngân hàng được phân loại theo
Theo hình thức cấp tín dụng
Theo thời hạn tín dụng
Theo mức độ rủi ro
Theo tính chất bảo đảm tín dụng
Theo mục đích tín dụng
Cụ thể là:
♦ Theo hình thức cấp tín dụng: hoạt động tín dụng được chia thành 4 loại.
+ Chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và các GTCG khác:
Là hình thức tín dụng được thực hiện thông qua cơ chế hợp đồng. TCTD thỏa thuận mua thương phiếu hay GTCG khác của khách hàng trước khi đến hạn thanh toán. Giá mua là giá sau khi đã được khấu trừ một lượng tiền tính theo lãi suất chiết khấu, thời gian chiết khấu và số tiền xin chiết khấu.
+ Cho vay:
Cho vay là một quan hệ giao dịch giữa hai chủ thể trong đó có một bên chuyển giao tiền cho bên kia sử dụng dựa trên nguyên tắc có sự hoàn trả cả vốn lẫn lãi trong thời hạn đã thỏa thuận. Nghiệp cụ cho vay mang lại thu nhập chủ yếu cho ngân hàng. Chính vì lợi nhuận thu được từ nghiệp vụ này rất lớn nên rủi ro tiềm ẩn mà nó mang lại thường cao hơn so với các nghiệp vụ khác của ngân hàng
+ Cho thuê tài chính:
Cho thuê tài chính là hình thức cấp tín dụng trung hạn và dài hạn giữa cá ngân hàng với khách hàng là các tổ chức kinh tế, cá nhân kinh doanh. Nghiệp vụ này được thực hiện thông qua hình thức pháp lý là hợp đồng cho thuê tài chính.
Hợp đồng cho thuê tài chính là sự thỏa thuận bằng văn bản giữa bên cho thuê và bên thuê. Theo đó, bên cho thuê có nghĩa vụ mua tài sản và chuyển giao cho bên thuê sử dụng trong một thời hạn nhất định theo yêu cầu của bên thuê để được hưởng tiền thuê theo thỏa thuận. Bên thuê có nghĩa vụ hoàn trả toàn bộ tiền thuê khi hợp đồng đáo hạn hoặc khi hợp đồng cho thuê bị vi phạm bởi hành vi có lỗi của bên thuê.
+ Bảo lãnh ngân hàng
Là cam kết của ngân hàng (bên bảo lãnh) với bên có quyền ( bên nhận bảo lãnh) về việc thực hiên nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng (bên được bảo lãnh) khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ ssax cam kết với bên nhận bão lãnh. Khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho ngân hàng số tiền đã được trả thay.
♦ Theo thời hạn tín dụng
Theo quy định của ngân hàng nhà nước Việt Nam thì có 3 loại:
●Tín dụng ngắn hạn: có thời hạn từ 1 năm trở xuống
●Tín dụng trung hạn: có thời hạn từ trên 1 năm đến 5 năm
●Tín dụng dài hạn: có thời hạn trên 5 năm
♦ Theo mức độ rủi ro:
Phân loại theo mức độ rủi ro giúp cho các ngân hàng đánh giá được mức độ an toàn của các khoản tín dụng, dựa vào đó trích lập dự phòng một cách hợp lý nhất.
Ngân hàng phân loại nợ theo 5 nhóm:
●Nhóm 1: Nợ đủ tiêu chuẩn (Trích lập dự phòng 0%)
●Nhóm 2: Nợ cần chú ý (Trích lập dự phòng 5%)
●Nhóm 2: Nợ dưới tiêu chuẩn (Trích lập dự phòng 20%)
●Nhóm 2: Nợ nghi ngờ (Trích lập dự phòng 50%)
●Nhóm 2: Nợ có khả năng mất vốn (Trích lập dự phòng 100%)
♦ Theo tính chất bảo đảm tín dụng
●Tín dụng có đảm bảo: là khoản tín dụng có tài sản cầm cố, thế chấp hay bảo lãnh bởi bên thứ ba.
● Tín dụng không có đảm bảo: là khoản tín dụng không có tài sản cầm cố, thế chấp hay bảo lãnh bởi bên thứ ba. Cho vay tín chấp tiêu dùng là một dạng của tín dụng không có đảm bảo.
♦ Theo mục đích tín dụng:
Tín dụng được phân thành các dạng sau:
●Tín dụng công thương nghiệp: Khoản tín dụng cấp cho doanh nghiệp để trang trải chi phí như mua hàng hóa, nguyên vật liệu, chi trả lương, nộp thuế…
●Tín dụng nông nghiệp: Khoản tín dụng cấp cho nông dân nhằm hỗ trợ cho họ có đủ vốn để trồng trọt, chăn nuôi gia súc gia cầm…
●Tín dụng Bất động sản: Khoản tín dụng được đảm bảo bằng bất động sản.
●Tín dụng cho các tổ chức tài chính: Khoản tín dụng cấp cho các công ty bảo hiểm, công ty tài chính và các tổ chức tài chính khác.
●Tín dụng tiêu dùng: khoản cho vay nhằm tài trợ cho mục đích tiêu dùng của cá nhân và hộ gia đình
1.2. Tổng quan về hệ thống KSNB
1.2.1. Khái niệm
Theo chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 400- đánh giá rủi ro và kiểm soát nội bộ: "Hệ thống KSNB là các quy định và các thủ tục kiểm soát do đơn vị được kiểm toán xây dựng và áp dụng nhằm đảm bảo cho đơn vị tuân thủ pháp luật và các quy định, để kiểm tra-kiểm soát, ngăn ngừa và phát hiện gian lận, sai sót; để lập BCTC trung thực và hợp lý; nhằm bảo vệ, quản lý và sử dụng hiệu quả tài sản của đơn vị. Hệ thống KSNB bao gồm: môi trường kiểm soát, hệ thống kế toán và các thủ tục kiểm toán".
Theo TS Võ Anh Dũng: "KSNB là một hệ thống gồm các chính sách, thủ tục được thiết lập tại đơn vị nhằm đảm bảo hợp lý cho các nhà quản lý đạt được các mục đích sau đây:
- Bảo vệ hữu hiệu và sử dụng hiệu quả về mọi nguồn lực, ngăn ngừa và phát hiện mọi hành vi lãng phí, gian lận, sử dụng tài sản không đúng mục đích, hoặc vượt quá thẩm quyền.
- Cung cấp những thông tin đáng tin cậy.
- Định kỳ đánh giá kết quả hoạt động để nâng cao hiệu quả điều hành.
- Mọi thành viên trong đơn vị phải tuân thủ các chính sách và quy định nội bộ"
Từ những khái niệm trên ta thấy rằng hệ thống KSNB bao gồm nhiều hoạt động, biện pháp, kế hoạch, nội quy, quan điểm được nhà quản lý thiết lập để điều hành nhân viên và thực hiện những hoạt động trong tổ chức. KSNB không chỉ giới hạn trong chức năng tài chính và kế toán mà còn phải kiểm soát mọi chức năng khác như về hành chính, quản lý sản xuất...
1.2.2. Mục tiêu của hệ thống KSNB
Hệ thống KSNB có 4 mục tiêu cơ bản sau:
Bảo vệ tài sản của đơn vị: Bảo vệ tài sản là không để xảy ra các rủi so trong quá trình sử dụng và quản lý tài sản. Tài sản trong đơn vị gồm cả tài sản hữu hình và vô hình. Tùy từng loại tài sản phải thiết kế hệ thống quản lý phù hợp.
Bảo đảm độ tin cậy của thông tin: hoạt động của đơn vị là liên tục. Do đó hàng ngày, hàng giờ có rất nhiều luồng thông tin vào ra. Nhà quản lý cần có những thông tin phục vụ cho việc ra quyết định. Vì vậ