Đề tài Đánh giá sự tương quan giữa tính bền cấu trúc và các đặc tính đất trồng rau màu ở Đồng bằng sông Cửu Long

Đất là một tài nguyên vô giá mà tự nhiên đã ban tặng cho con người để sinh tồn và phát triển. Đất là tư liệu sản xuất, là đối tượng lao động, là vật mang được đặc thù bởi tính chất độc đáo mà không vật thể tự nhiên nào có được – đó là độ phì nhiêu (Lê Văn Khoa, 2004). Đất được hình thành, phát triển và thoái hóa theo thời gian dưới tác động của điều kiện tự nhiên và các hoạt động của con người (Wada, 2000). Ngoài ra do dân số tăng nhanh do đó để đáp ứng nhu cầu lương thực trong nước và xuất khẩu thì việc áp dụng mô hình thâm canh tăng vụ ngày càng tăng dần trong khi nguồn dưỡng chất trong đất thì có hạn. Đồng bằng sông Cửu Long là vùng sản xuất lương thực trọng điểm của cả nước. Là nơi được xem là có mức độ đa dạng hóa cao trong sản xuất nông nghiệp với diện tích 3.993.132 ha, sản xuất khoảng 50% tổng sản lượng lúa của cả nước. và đóng góp khoảng 85% lượng gạo xuất khẩu của cả nước (Tôn Thất chiểu, 1991). Tuy nhiên, trong những năm gần đây nhu cầu lương thực thực phẩm ngày càng tăng trọng khá mạnh. Do đó, ngày càng có nhiều mô hình thâm canh tăng vụ để đáp ứng nhu cầu lương thực trong nước và xuất khẩu. Các mô hình thâm canh tăng vụ trên đất trồng lúa, đất trồng lúa kết hợp trồng màu hoặc chuyên canh cây màu và việc không sử dụng phân hữu cơ cũng làm cho đất ngày càng bị thoái hóa nghiêm trọng. Đất bị chai cứng, mất cấu trúc, trở nên nén dẽ dẫn đến hạn chế sự phát triển của rễ cây trồng cạn, giảm lượng nước hữu dụng, giảm sự thoáng khí trong đất từ đó ảnh hưởng đến năng suất cây trồng (Brady, 2002). Các nghiên cứu về sự thoái hóa đất về vật lý, hóa học, sinh học ở Đồng bằng sông Cửu Long cho thấy các vùng đất thâm canh 2-3vụ lúa /năm, trên đất chuyên màu và trên các vườn cây ăn trái nhiều năm tuổi bước đầu nghiên cứu cho thấy sự giảm hàm lượng chất hữu cơ, độ nén dẽ cao, hệ số thấm của nước thấp (Võ Thị Gương, 2004). Theo Foley (1994), đối với các loại đất bị thoái hóa về mặt lý học, hoá học, mất cấu trúc do hoạt động canh tác thì dưới tác động của mưa và việc tưới tiêu làm cho tập hợp đất bị phân rã thành nhiều phần tử nhỏ hơn làm đóng váng và kết cứng bề mặt canh tác khi đất khô. Từ đó làm tăng sự xói mòn, giảm tính thấm gây chảy tràn và rửa trôi dinh dưỡng. Còn theo Ramos (2003), thì ở Mỹ và Tây Ban Nha đã có một vài tác giả nghiên cứu về mối quan hệ giữa tác động của mô hình mưa và tính bền cấu trúc lên sự xói mòn của đất dốc. Đối với Đồng bằng sông Cửu Long đến nay vẫn chưa có nghiên cứu đánh giá một cách đầy đủ về tính bền cấu trúc và sự tương quan giữa tính bền cấu trúc với các đặc tính của đất trồng rau màu. Vì vậy, đề tài “Đánh giá sự tương quan giữa tính bền cấu trúc và các đặc tính đất trồng rau màu ở Đồng bằng sông Cửu Long” được thực hiện nhằm giải quyết vấn đề trên.

doc51 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2275 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đánh giá sự tương quan giữa tính bền cấu trúc và các đặc tính đất trồng rau màu ở Đồng bằng sông Cửu Long, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU Đất là một tài nguyên vô giá mà tự nhiên đã ban tặng cho con người để sinh tồn và phát triển. Đất là tư liệu sản xuất, là đối tượng lao động, là vật mang được đặc thù bởi tính chất độc đáo mà không vật thể tự nhiên nào có được – đó là độ phì nhiêu (Lê Văn Khoa, 2004). Đất được hình thành, phát triển và thoái hóa theo thời gian dưới tác động của điều kiện tự nhiên và các hoạt động của con người (Wada, 2000). Ngoài ra do dân số tăng nhanh do đó để đáp ứng nhu cầu lương thực trong nước và xuất khẩu thì việc áp dụng mô hình thâm canh tăng vụ ngày càng tăng dần trong khi nguồn dưỡng chất trong đất thì có hạn. Đồng bằng sông Cửu Long là vùng sản xuất lương thực trọng điểm của cả nước. Là nơi được xem là có mức độ đa dạng hóa cao trong sản xuất nông nghiệp với diện tích 3.993.132 ha, sản xuất khoảng 50% tổng sản lượng lúa của cả nước. và đóng góp khoảng 85% lượng gạo xuất khẩu của cả nước (Tôn Thất chiểu, 1991). Tuy nhiên, trong những năm gần đây nhu cầu lương thực thực phẩm ngày càng tăng trọng khá mạnh. Do đó, ngày càng có nhiều mô hình thâm canh tăng vụ để đáp ứng nhu cầu lương thực trong nước và xuất khẩu. Các mô hình thâm canh tăng vụ trên đất trồng lúa, đất trồng lúa kết hợp trồng màu hoặc chuyên canh cây màu và việc không sử dụng phân hữu cơ cũng làm cho đất ngày càng bị thoái hóa nghiêm trọng. Đất bị chai cứng, mất cấu trúc, trở nên nén dẽ dẫn đến hạn chế sự phát triển của rễ cây trồng cạn, giảm lượng nước hữu dụng, giảm sự thoáng khí trong đất từ đó ảnh hưởng đến năng suất cây trồng (Brady, 2002). Các nghiên cứu về sự thoái hóa đất về vật lý, hóa học, sinh học ở Đồng bằng sông Cửu Long cho thấy các vùng đất thâm canh 2-3vụ lúa /năm, trên đất chuyên màu và trên các vườn cây ăn trái nhiều năm tuổi bước đầu nghiên cứu cho thấy sự giảm hàm lượng chất hữu cơ, độ nén dẽ cao, hệ số thấm của nước thấp (Võ Thị Gương, 2004). Theo Foley (1994), đối với các loại đất bị thoái hóa về mặt lý học, hoá học, mất cấu trúc do hoạt động canh tác thì dưới tác động của mưa và việc tưới tiêu làm cho tập hợp đất bị phân rã thành nhiều phần tử nhỏ hơn làm đóng váng và kết cứng bề mặt canh tác khi đất khô. Từ đó làm tăng sự xói mòn, giảm tính thấm gây chảy tràn và rửa trôi dinh dưỡng.... Còn theo Ramos (2003), thì ở Mỹ và Tây Ban Nha đã có một vài tác giả nghiên cứu về mối quan hệ giữa tác động của mô hình mưa và tính bền cấu trúc lên sự xói mòn của đất dốc. Đối với Đồng bằng sông Cửu Long đến nay vẫn chưa có nghiên cứu đánh giá một cách đầy đủ về tính bền cấu trúc và sự tương quan giữa tính bền cấu trúc với các đặc tính của đất trồng rau màu. Vì vậy, đề tài “Đánh giá sự tương quan giữa tính bền cấu trúc và các đặc tính đất trồng rau màu ở Đồng bằng sông Cửu Long” được thực hiện nhằm giải quyết vấn đề trên. CHƯƠNG 1 LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU 1.1 Tầm quan trọng của rau màu đối với nền kinh tế xã hội 1.1.1 Gía trị dinh dưỡng Rau màu là loại thực phẩm rất cần thiết cho mọi người trong đời sống hàng ngày. Rau cũng là loại thực phẩm không thể thay thế. Bởi lẽ, cây rau cung cấp rất nhiều chất dinh dưỡng quan trọng cho sự phát triển của cơ thể con người như: Protein, lipit, vitamin, muối khoáng và nhiều chất quan trọng khác. Cây rau chứa hàm lượng vitamin và khoáng chất hơn hẳn một số cây trồng khác. Có thể nói rau là thành phần quan trọng trong mỗi bữa ăn hàng ngày của mỗi người. Chất khoáng từ rau màu chủ yếu là Canxi (Ca), photpho (P), sắt (Fe),... chúng có tác dụng điều hòa, cân bằng kiềm toan trong máu, là những chất cần thiết cho cấu tạo máu và xương. Rau thuộc về nhóm cây hàng năm: cà, ớt, cà chua, cây họ đậu...Cây hai năm như rau chân vịt, hành tây, tỏi, cải... và cây thân thảo lâu năm như măng...được trồng làm thực phẩm. Giá trị dinh dưỡng của các loại rau rất phong phú và đặc biệt quan trọng đối với đời sống của loài người (Tạ Thu Cúc, 2005). 1.1.2. Ý nghĩa kinh tế - Rau là loại cây trồng cho hiệu quả kinh tế cao. Giá trị sản xuất của 1ha rau gấp 2-3 lần so với 1ha lúa. Hiệu quả lớn hay nhỏ còn phụ thuộc vào trình độ người sản xuất, công nghệ sản xuất, kinh nghiệm và chủng loại rau màu. Nhìn chung, cây rau, màu có thời gian sinh trưởng ngắn, có thể gieo trồng nhiều vụ trong năm, do đó làm tăng sản lượng trên đơn vị diện tích. - Rau là loại cây lương thực. Như khoai tây được coi là một trong năm cây lương thực trên thế giới sau lúa, ngô, mỳ, mạch. Khoai tây là nguồn tinh bột chủ yếu của nhiều nước. Một vài loài cây trồng có hàm lượng cao cũng được sử dụng như lương thực: khoai, củ từ... - Rau là loại hàng hóa có giá trị xuất khẩu cao. Đây là mặt hàng xuất khẩu quan trọng, thu ngoại tệ mạnh của nhiều nước trên thế giới. - Rau là nguyên liệu chế biến thực phẩm phong phú và quan trọng. a. Giá trị y học Rau chẳng những có giá trị dinh dưỡng mà chúng còn được sử dụng như những cây dược liệu quý như: tỏi, hành hoa, gừng... Trong nhiều năm qua, các nhà khoa học trên thế giới đã nghiên cứu và phát hiện ra những khả năng kỳ diệu của một số loại rau trong phòng ngừa và trị một số bệnh nan y. Trước hết là tỏi sau đó là các loại hành tây... b. Giá trị xã hội Khi ngành sản xuất rau màu được phát triển nhanh chóng và vững chắc sẽ góp phần làm tăng thu nhập cho người lao động, thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng. Đồng thời đáp ứng yêu cầu của công cuộc xây dựng đất nước. Khi sản xuất rau màu được coi là một nghề, những khu chuyên canh rau màu được mở rộng sẽ có điều kiện để sắp xếp lao động một cách hợp lý, giải quyết việc làm cho nông dân trong những lúc nông nhàn. Phát triển ngành sản xuất rau màu còn có điều kiện để hỗ trợ đối với ngành khác trong nông nghiệp như cung cấp thức ăn và chất xanh cho chăn nuôi... (Tạ Thu Cúc, 2005). 1.2. Kỷ thuật canh tác rau màu Muốn trồng rau đạt năng suất cao, sản phẩm có giá trị hàng hóa cao, người trồng rau nhất thiết phải nắm vững những biện pháp kỹ thuật cơ bản của nghề trồng rau. Nó bao gồm một hệ thống liên hoàn các biện pháp kỹ thuật như làm đất, gieo hạt, bón phân, tưới nước, phòng trừ sâu bệnh đến kỹ thuật thu hái. 1.2.1. Thời kỳ vườn ươm Đặc điểm nổi bậc của nghề trồng rau là hầu hết hạt giống đều phải được ươm trước khi đưa ra ruộng sản xuất đại trà. Mặt khác, hầu hết các loại hạt giống rau, màu đều rất nhỏ, nên phải qua gieo ươm. Khi gieo trên diện tích nhỏ sẽ thuận tiện cho quá trình chăm sóc (Phạm Hồng Cúc và ctv, 2001). Ngoài kỹ thuật gieo ươm truyền thống (gieo ngoài đất trồng), hiện nay còn có nhiều cách gieo ươm đạt hiệu quả cao như gieo trong bầu, gieo hạt vào khai, gieo hạt trong nhà lưới... làm như vậy sẽ hạn chế được tác động của khí hậu thời tiết khắc nghiệt như nhiệt độ cao, mưa bão, ngập lụt... Mặt khác, ở thời kỳ 1-3 lá thật, hệ rễ yếu, khả năng hút nước và chất dinh dưỡng kém, diện tích lá nhỏ nên quang hợp kém. Ở thời kỳ vườn ươm, chúng ta cần chăm sóc hết sức cẩn thận, tỉ mỉ hồi phục cây trồng đạt tiêu chuẩn cao (Tạ Thu Cúc, 2005). 1.2.2. Thời vụ gieo trồng Rau màu là loại cây trồng rất mẫn cảm với sự thay đổi của điều kiện khí hậu thời tiết như: nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng, yêu cầu thời vụ rất nghiêm ngặt. Thời vụ không thích hợp làm giảm năng suất và chất lượng (Tạ Thu Cúc, 2005). Hơn nữa rau là loại cây trồng có thời gian sinh trưởng tương đối ngắn, nên có yêu cầu thời tiết khắt khe. Đảm bảo thời vụ là đảm bảo điều kiện tự nhiên tương tự như những điều kiện của chính quê hương của loài rau màu đó để cho cây sinh trưởng và phát triển thuận lợi nhất (Nguyễn Văn Thắng và ctv, 1999). Nói chung, các loại rau mùa Đông có yêu cầu cường độ ánh sáng và thời gian chiếu sáng tương đối ngắn (8-12 giờ) các loại rau mùa Hè lại yêu cầu ánh sáng có cường độ mạnh và thời gian chiếu sáng dài (12-14 giờ/ ngày) (Nguyễn Văn Thắng và ctv, 1999) Do đó, việc bố trí mùa vụ cũng như sắp xếp các cây trồng xen, gối cần tạo được chế độ ánh sáng thích hợp để cây rau sinh trưởng (Mai Thị Phương Anh và ctv, 1996). Theo Trần Thị Ba và ctv, 1999 ở Đồng bằng sông Cửu Long có bốn vụ gieo trồng chính: - Đông Xuân gieo trồng từ tháng 10- tháng 11 dương lịch thu hoạch vào tháng 12- tháng 1 dương lịch. - Xuân Hè gieo trồng từ tháng 12- tháng 1 dương lịch thu hoạch vào tháng 4-tháng 5 dương lịch. - Hè Thu gieo trồng từ tháng 4- tháng 5 dương lịch thu hoạch vào tháng 7 dương lịch. - Thu Đông gieo trồng từ tháng 8- tháng 9 dương lịch thu hoạch vào tháng 12-tháng 1 dương lịch. 1.2.3. Làm đất Bộ rễ các loài rau nói chung là ăn nông ở tầng mặt trong phạm vi 25-30 cm, do vậy tính chịu hạn, chịu úng rất kém và lại dễ bị nhiễm sâu bệnh (Mai Thị Phương Anh và ctv, 1996). Mặc dù đất nào cũng có thể trồng được rau, nhưng tốt nhất là chọn những chân đất cát pha thịt nhẹ hoặc thịt trung bình có tầng canh tác 20-30cm (Trịnh Thị Thu Hương, 2003). Theo Trần Thị Ba và ctv (1999), đất trồng rau màu phải có lý – hóa tính tốt: Đất tơi xốp, nhiều mùn, pH thích hợp (5,5-7), đất thịt nhẹ, thịt pha cát. Nếu là đất cát rời rạc, giữ nước kém cần bón thêm sét, bùn ao, phơi ải kết hợp với phân hữu cơ. Nếu là đất sét nặng khó thoát nước khó cày bừa cần bón thêm phân hữu cơ. Tuy nhiên, tuỳ theo loại đất mà cách làm đất khác nhau; cày sâu, bừa kỹ giúp rễ phát triển, nhưng không nên làm đất quá nhuyễn vì đất dễ bị lèn mặt sau này (Nguyễn Bảo Vệ và ctv, 2005). Theo Mai Thị Phương Anh và ctv, 1996 thì có hai cách làm đất: a. Làm đất vườn ươm: Vườn ươm là nơi cây con sinh trưởng đầu tiên, nó có vai trò quan trọng quyết định chất lượng giống do đó ảnh hưởng đến năng suất phẩm chất sau này. Đất vườn ươm nên chọn loại đất nhẹ, tầng canh tác có thể không sâu nhưng chế độ tưới tiêu tốt. b. Ruộng sản xuất: Bộ rễ loại rau nói chung là ăn nông ở tầng đất mặt trong phạm vi 25-30cm, do vậy tính chịu hạn, chịu úng rất kém và lại hay bị nhiễm sâu bệnh, cho nên đất trồng rau nhất thiết phải được chuẩn bị cẩn thận. Đất trồng rau cũng không đòi hỏi phải quá nhuyễn vì nếu các kết tập đất quá nhỏ sẽ lấp hết các khoảng trống chứa khí cần thiết trong lòng luống rau. Nói chung lớp đất trên mặt luống chỉ nên làm với kích thước 1-3 hoặc 5cm. 1.2.4. Nhu cầu nước cho rau màu Rau là loại cây rất cần nước, đồng thời lại rất sợ úng. Hàm lượng nước trong cây rau rất lớn, chiếm từ 75-95%, vì vậy có thể nói nước là nguyên nhân hạn chế lớn nhất đến năng suất, chất lượng cây rau hơn bất kì yếu tố nào khác. Nếu thiếu nước cây rau sinh trưởng kém, thấp, còi cọc, dẫn đến năng suất và chất lượng giảm. Nếu thừa nước cây sinh trưởng mềm yếu, nồng độ đường và các chất hòa tan giảm. Mặt khác, nước dư thừa trong các bộ phận làm cho cây rau - màu trở nên non, mềm dễ bị hư hỏng (Dương Hồng Dật, 2003). Nước là thành phần cơ bản cấu tạo nên chất nguyên sinh, các quá trình trao đổi chất trong cây như: quá trình tổng hợp và phân giải chất hữu cơ, quá trình quang hợp, sự vận chuyển vật chất trong cây (Bùi Hiếu và ctv, 2000); là dung môi hòa tan các chất, duy trì độ căng tế bào, làm cho cây ở trạng thái cân bằng, nước còn có tác dụng quan trọng trong quá trình điều chỉnh sự đóng mở của khí khổng, sự giãn mở và lớn lên của lá (Tạ Thu Cúc, 2005). Có thể dùng công thức sau để xác định lượng nước tưới cho rau màu (Tạ Thu Cúc, 2005). m = 100*H*A(B-R) Trong đó: m: lượng nước cần tưới (m3/ha). H: độ sâu (m). A: tỷ trọng đất (tấn/m3). B: độ ẩm đồng ruộng (% đất khô tuyệt đối). R: độ ẩm đất (% đất khô tuyệt đối khi tưới). 1.2.5. Nhu cầu phân bón Rau là loại cây trồng có thời gian sinh trưởng tương đối ngắn nhưng lại cho một khối lượng sản phẩm (năng suất, sản lượng) rất cao, từ 20-60 tấn/ha. Do vậy cây rau màu đòi hỏi phải được bón nhiều phân và đất trồng rau phải là đất tương đối tốt (Mai Thị Phương Anh, 1999). Nguyên tắc chung khi bón phân cho rau là cần bón phối hợp phân hữu cơ và vô cơ, bón đúng liều lượng, cân đối và đúng thời kì. Bón phân hóa học vào đất sẽ làm thay đổi tính chất lý- hóa học của đất, đặc biệt làm thay đổi hóa tính của đất (Tạ Thu Cúc, 2005). Tất cả các loại rau màu đều cần dinh dưỡng rất lớn, do vậy nó cần phải cung cấp đầy đủ dinh dưỡng trong quá trình sinh trưởng, sự cung cấp này phụ thuộc vào lượng dinh dưỡng có trong đất và nguồn phân bón bổ sung (Nguyễn Văn Hòa, 2006). Ngoài ra, đối với loại đất nhẹ, tơi xốp thì có thể tăng cường bón đạm vô cơ, giảm khối lượng phân hữu cơ. Đối với đất nặng, chặt thì cần tăng cường bón phân hữu cơ giàu đạm là chủ yếu, đồng thời kết hợp với phân vô cơ để tăng hiệu quả của phân bón. Khi xác định liều lượng phân bón cần phải quan tâm đến hiệu quả kinh tế, chú ý đến lượng NO3- trong sản phẩm khi bón các dạng đạm từng chủng loại, hàm lượng N, P, K trong sản phẩm và trong đất, chất dinh dưỡng bị giữ lại trong đất hoặc bị rửa trôi (Tạ Thu Cúc, 2005). Bên cạnh đó, phân chuồng là loại phân bón tương đối đầy đủ các thành phần dinh dưỡng mà cây rau màu yêu cầu. Phân chuồng có tỷ lệ mùn cao, có tác dụng cải tạo đất, giữ nhiệt và khí cho tầng đất mặt, loại dinh dưỡng trong phân chuồng có tác dụng từ từ nên việc bón phân vô cơ bổ sung là biện pháp cần thiết, và phải hài hòa với lượng phân chuồng đã bón thì mới cho năng suất cao, phẩm chất tốt, đảm bảo không có lượng nitrate dư thừa trong cây quá nhiều ngoài ngưỡng cho phép (Mai Thị Phương Anh, 1996). Có hai cách bón phân cho rau màu: Bón lót: thường dùng với phân chuồng và phân vô cơ chậm tan như lân, kali và vôi (cung cấp cho cả quá trình sinh trưởng của cây) và một phần lượng phân đạm cung cấp cho rau màu ở giai đoạn cây con (khoảng 1/4-1/3 lượng phân đạm cần thiết). Bón thúc: là cách bón bổ sung vào những giai đoạn cây cần dinh dưỡng nhất để sinh trưởng, phát triển và tạo sản phẩm. Bón thúc thường dùng các loại phân dễ hòa tan, dễ tiêu như phân chuồng ngâm ủ, phân bắc nước giải ngâm mục, phân đạm và kali. Biện pháp bón phân ngoài rễ là biện pháp đang được sử dụng. Đó là phương pháp bón phân lên lá - sử dụng các loại phân đã được tổng hợp, với ưu điểm là tiết kiệm phân và hiệu quả cao. Tuy nhiên chỉ áp dụng tốt trong trường hợp đã được bón đầy đủ phân chuồng và các phân đa lượng khác (Mai Thị Phương Anh, 1996). Bảng 1. Lượng các nguyên tố dinh dưỡng chính và lượng cần bón cho một tấn sản phẩm (kg/ha) (theo Mai Thị Phương Anh, 1996). Loại rau Thời gian sinh trưởng (ngày) Lượng cây lấy đi Lượng cần bón N P K N P K Cải bắp Xà lách cuốn Rau bina Cà rốt Cà chua Dưa chuột 120 60 60 120 150 100 100 3,5 2,2 3,6 3,2 2,6 1,7 3,0 1,3 0,8 1,8 1,3 0,4 1,4 1,2 4,3 5,0 5,2 5,0 3,6 2,6 4,0 5 2,5 4 3,2 4,5 3,5 7 5 2,5 4 3 4,5 2,5 5 6 6 7 5 5 4 5 1.2.6. Phòng trừ sâu bệnh So với các loại cây trồng chuyên canh khác, rau màu là loại cây trồng có nhiều sâu bệnh hơn cả. Do nó là cây ngắn ngày, lại ít có những trợ thủ tự nhiên để làm thiên địch đối với các loại sâu bệnh hại. Mặt khác, chúng được gieo trồng suốt bốn mùa trong năm do đó sâu bệnh dễ tồn tại, tiềm năng, ẩn náo tạo điều kiện cho sâu bệnh thích nghi (Nguyễn Văn Thắng, 1999). Theo Phạm Hồng Cúc và ctv (2001), cho rằng nếu áp dụng các biện pháp phòng trừ sâu bệnh hữu hiệu thì năng suất rau màu có tăng thêm 30%. Theo Trần Thị Ba và ctv (1999), có nhiều biện pháp phòng trừ sâu bệnh như: khử hạt giống, cải thiện môi trường, luân canh, xen canh, sử dụng giống kháng, sử dụng thiên địch, tạo hình và dùng thuốc hóa học. 1.2.7. Thu hoạch Rau là loại cây trồng ngắn ngày lại có hàm lượng nước cao, sử dụng chủ yếu là sản phẩm tươi. Do vậy thu hoạch rau màu phải đúng lứa, đúng kỳ mới đảm bảo chất lượng. Không nên thu hoạch quá non hay quá già, nếu thu non giảm năng suất sản phẩm từ 20-30% đối với các loại rau ăn quả chín nếu thu quá già hàm lượng chất dinh dưỡng hay chất lượng sản phẩm giảm (Mai Thị Phương Anh và ctv, 1996). 1.3. Ảnh hưởng của việc canh tác rau màu đến môi trường 1.3.1. Ảnh hưởng của thuốc bảo vệ thực vật đến môi trường Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) với diện tích đất nông nghiệp trên 2 triệu ha, hàng năm cung cấp trên hai phần ba tổng sản lượng lương thực. Do đó, để sản xuất sản lượng lương thực lớn cho cả nước nông dân đã sử dụng một phần lớn thuốc bảo vệ thực vật, không chỉ riêng trên cây lương thực mà tất cả các loại cây trồng tại ĐBSCL đều sử dụng thuốc bảo vệ thực vật với liều lượng cao (Nguyễn Thị Thu Cúc, 1998). Trong thực tế, tình trạng sử dụng thuốc bảo vệ thực vật và phân hóa học một cách tùy tiện, liên tục, quá liều đã gây nên những ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe con người, môi trường nước, không khí, đặc biệt là môi trường đất (Hoàng Xuân Thực, 2005). Mặt khác, việc thâm canh tăng vụ, tăng năng suất cây trồng thì nó đòi hỏi một lượng lớn phân hóa học và thuốc bảo vệ thực vật. Nếu sử dụng đúng liều và đúng cách thì ít ảnh hưởng đến môi trường và sức khỏe con người. Thuốc bảo vệ thực vật là chế phẩm có nguồn gốc từ hóa chất, thực vật, động vật, vi sinh vật và các chế phẩm khác dùng để phòng trừ sinh vật gây hại tài nguyên thực vật. Đặc điểm của thuốc bảo vệ thực vật là chúng đều có khả năng gây ô nhiễm cho đất và hoạt tính của chúng sẽ là chất độc cho con người và động vật (Lê Huy Bá, 2000). Thuốc bảo vệ thực vật gồm thuốc trừ sâu, trừ nấm, côn trùng, tuyến trùng, diệt cỏ, kích thích..., là các hợp chất hóa học hữu cơ hay vô cơ. Trong đất nó làm cho cơ lý tính đất giảm sút, khả năng diệt khuẩn cao nên đồng thời cũng diệt nhiều vi sinh vật có ích trong đất. Đặc biệt, trên các vùng đất có trình độ thâm canh cao thường có sâu bệnh nhiều nên phải sử dụng một lượng lớn thuốc bảo vệ thực vật. Trong quá trình sử dụng thuốc thì lượng nước tưới hay mưa làm cho các loại thuốc này ngấm dần vào đất (Võ Thị Gương, 2003). Theo Raynet et al (1996) cho biết việc sử dụng nông dược một cách thường xuyên, liên tục với liều lượng lớn đã làm giảm sự phong phú về loài và số lượng quần thể của các loài vi sinh vật trong đất. 1.3.2. Ảnh hưởng của việc sử dụng phân hóa học đối với môi trường đất Mặc dù có thời gian sinh trưởng tương đối ngắn nhưng cây rau màu lại đòi hỏi một lượng dinh dưỡng rất lớn. Do vậy, để tăng năng suất người ta thường bón một lượng phân hóa học lớn chủ yếu là đạm, lân, kali. Nhưng trong đó phân đạm được dùng với liều lượng nhiều hơn. Tuy nhiên, nó cũng chính là nguyên nhân chủ yếu gây ô nhiễm môi trường đất, nhất là khi chúng ta không sử dụng đúng với liều lượng khuyến cáo, dẫn đến hiện tượng đất bị chua hóa, hàm lượng các chất vôi giảm, kết cấu đất kém, hoạt động của các vi sinh vật trong đất giảm, có sự tích động nitrat kim loại nặng một số vùng. Sự lạm dụng hoặc sử dụng phân bón không đúng cách dĩ nhiên có thể tạo các ảnh hưởng bất lợi cho đất như gây mặn cho đất, kém thoát thủy và tưới thừa (Ngô Ngọc Hưng và ctv, 2004). Khi cung cấp đạm cây chỉ sử dụng hữu hiệu tối đa 30%, số còn lại bị rửa trôi, phần thì nằm trong đất. Nếu cây trồng được bón phân đầy đủ sẽ tạo ra hệ thống rễ nhiều hơn và lượng dư thừa thực vật được phân hủy sẽ góp phần cải thiện cấu trúc đất, hàm lượng hữu cơ và khả năng giữ nước, và do dó nó cải thiện độ phì nhiêu đất. Ngược lại lượng phân hóa học được bón vào đất không được cây trồng hút hoàn toàn. Một số lượng dưỡng chất được giữ lại trong đất và tiếp tục cung cấp cho cây trồng vụ sau, một số bị chảy tràn hoặc rửa trôi do mưa (Ngô Ngọc Hưng và ctv, 2004). Khi tích lũy các hóa chất dạng phân bón cũng gây hại cho đất về mặt cơ lý tính, đất nén chặt, độ trương co kém, kết cấu vững chắc, không tơi xốp mà trở nên chai cứng, vi sinh vật ít đi và bị hóa chất hủy diệt (Đỗ Thị Thanh Ren, 1999). 1.4. Các tính chất vật lý đất trên đất trồng rau màu 1.4.1 Thành phần cơ giới Thành phần cơ giới là tỷ lệ giữa các cấp hạt cát, thịt, sét trong đất (Henry D.Foth, 1990). Theo Trần Kông Tấu (2005), thành phần cơ giới (còn gọi là thành phần cấp hạt) của đất là hàm lượng phần trăm (%) của những nguyên tố cơ học có kích thước khác nhau khi đoàn lạp đất ở trong trạng thái bị phá hủy. Thành phần cơ giới khác nhau sẽ dẫn đến sự khác nhau về tỷ trọng, dung trọng đất, tính kết dính, khả năng hấp phụ trao đổi ion và khả năng dự trữ dinh dưỡng trong đất (Mai văn Quyền và ctv, 2005). Đất có thành phần cơ giới nặng, giàu cấp hạt sét làm cho khả năng giữ nước của đất tốt, hấp phụ được nhiều chất dinh dưỡng, có khả năng chống rửa trôi. Ngược