Đề tài gia đình là một đề tài lớn
trong văn học Việt Nam hiện đại. Từ
những năm ba m-ơi của thế kỷ XX, các
nhà văn Tự lực văn đoànđã khai thác
rất thành công đề tài này. Những tác
phẩm hay nhất, có nhiều đóng góp
nhất cho nền văn học n-ớc nhà của Tự
lực văn đoàn là những tác phẩm đấu
tranh giải phóng cá nhân, đấu tranh
cho tự do hôn nhân, cho quyền sống
của ng-ời phụ nữ chống lại sự ràng
buộc khắt khe của lễ giáo phong kiến
trong đại gia đình phong kiến.
Sau Cách mạng tháng Tám, đất
n-ớc ta phải trải qua 30 năm chiến
tranh giải phóng dân tộc. Lúc này vận
mệnh đất n-ớc đ-ợc đặt lên hàng đầu.
Nhiệm vụ chủ yếu của cách mạng Việt
Nam (trong đó có văn học nghệ thuật)
là phục vụ công cuộc kháng chiến kiến
quốc, cổ vũ chiến đấu. Các nhà văn trở
thành ng-ời chiến sĩ, chuốt nhọn vũ khí
văn ch-ơng để phục vụ cho cách mạng.
Họ không ngần ngại làm anh “tuyên
truyền viên nhãi nhép”, hoà mình vào
cuộc sống công- nông-binh, ca ngợi nhân
dân, ca ngợi anh bộ đội, ca ngợi những
chiến công vang dội của dân tộc. Đề tài
hôn nhân- gia đình không thích hợp
trong thời chiến nên đ-ợc gác lại.
10 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 6506 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tàI gia đình trong văn học Việt Nam sau 1975, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 2b-2007
59
đề tàI gia đình trong văn học việt nam sau 1975
Nguyễn Công Thanh (a)
Tóm tắt. Từ việc phân tích một số tác phẩm văn học tiêu biểu viết về đề tài gia
đình trong văn học Việt Nam sau 1975, bài báo góp phần khẳng định đề tài gia đình
là một trong những đề tài lớn đang đ−ợc các nhà văn quan tâm khai thác và gặt hái
nhiều thành công.
1. Đề tài gia đình là một đề tài lớn
trong văn học Việt Nam hiện đại. Từ
những năm ba m−ơi của thế kỷ XX, các
nhà văn Tự lực văn đoàn đã khai thác
rất thành công đề tài này. Những tác
phẩm hay nhất, có nhiều đóng góp
nhất cho nền văn học n−ớc nhà của Tự
lực văn đoàn là những tác phẩm đấu
tranh giải phóng cá nhân, đấu tranh
cho tự do hôn nhân, cho quyền sống
của ng−ời phụ nữ chống lại sự ràng
buộc khắt khe của lễ giáo phong kiến
trong đại gia đình phong kiến.
Sau Cách mạng tháng Tám, đất
n−ớc ta phải trải qua 30 năm chiến
tranh giải phóng dân tộc. Lúc này vận
mệnh đất n−ớc đ−ợc đặt lên hàng đầu.
Nhiệm vụ chủ yếu của cách mạng Việt
Nam (trong đó có văn học nghệ thuật)
là phục vụ công cuộc kháng chiến kiến
quốc, cổ vũ chiến đấu. Các nhà văn trở
thành ng−ời chiến sĩ, chuốt nhọn vũ khí
văn ch−ơng để phục vụ cho cách mạng.
Họ không ngần ngại làm anh “tuyên
truyền viên nhãi nhép”, hoà mình vào
cuộc sống công- nông-binh, ca ngợi nhân
dân, ca ngợi anh bộ đội, ca ngợi những
chiến công vang dội của dân tộc... Đề tài
hôn nhân- gia đình không thích hợp
trong thời chiến nên đ−ợc gác lại. Vì
vậy, những vấn đề tình yêu - hôn nhân -
gia đình d−ờng nh− không đ−ợc đề cập
nh− một mảng sáng tác lớn trong văn
học cách mạng Việt Nam 1945 - 1975.
Sau chiến thắng 30/4/1975, đất
n−ớc ta hoàn toàn độc lập, thống nhất.
Lịch sử sang trang nh−ng văn học vẫn
tr−ợt theo quán tính một thời gian nữa.
Đề tài chiến tranh cách mạng vẫn là đề
tài −a thích của văn nghệ sĩ. Cảm hứng
ca ngợi vẫn là cảm hứng chủ đạo của
phần lớn tác phẩm ra đời tr−ớc 1980.
Nhà văn say s−a viết, say s−a ca ngợi
chủ nghĩa anh hùng cách mạng nh−ng
độc giả đột nhiên lạnh nhạt, thờ ơ với
văn học. “Ng−ời đọc mới hôm qua còn
mặn mà thế bỗng d−ng bây giờ quay
l−ng lại với anh. Họ không thèm đọc
anh nữa. Sách anh viết ra, hăm hở dày
cộp nằm mốc trên quầy. Ng−ời ta bỏ
anh. Ng−ời ta đi đọc sách Tây và đọc
Nguyễn Du [12, tr. 9].
Đến thập kỷ 80, đặc biệt sau Đại
hội Đảng lần thứ VI (1986), không khí
đổi mới - dân chủ tác động mạnh mẽ
đến đời sống văn học nghệ thuật. Văn
nghệ sĩ đ−ợc “cởi trói” tự do sáng tác.
Họ có nhiều trăn trở về trách nhiệm của
ng−ời cầm bút trong sự nghiệp đổi mới
nền văn học n−ớc nhà. Khuynh h−ớng
sử thi, cảm hứng lãng mạn trong văn
học 1945-1975 đ−ợc thay thế bằng cảm
hứng đạo đức - thế sự. Con ng−ời "sử
thi” trong văn học tr−ớc 1975 đ−ợc thay
thế bằng con ng−ời "nếm trải”. Vấn đề
.
Nhận bài ngày 21/11/2006. Sửa chữa xong 23/4/2007.
Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 2b-2007
60
đời t−, bản thể, tự do luyến ái, đời sống
tình dục... đ−ợc đề cao. Đề tài, chủ đề
không còn bó hẹp, thiên về khai thác
các vấn đề liên quan đến những nhiệm
vụ chính trị tr−ớc mắt mà đ−ợc mở rộng
từ đề tài gia đình, thân phận tình yêu,
số phận con ng−ời đến chiến tranh cách
mạng, sản xuất xây dựng... Các nhà văn
không né tránh, ngại ngùng khi khai
thác các mặt trái, góc khuất, phần chìm
của hiện thực cuộc sống.
2. Đề tài gia đình có phần bị chìm
lấp sau Cách mạng tháng Tám đ−ợc
khơi nguồn trở lại, tạo thành dòng chảy
chính và thu đ−ợc những thành tựu
đáng kể. Có thể nói ch−a bao giờ đề tài
gia đình lại giành đ−ợc sự quan tâm của
đông đảo giới cầm bút nh− hiện nay. Từ
các thế hệ nhà văn đã thành danh trong
văn học cách mạng Việt Nam tr−ớc
1975 đến các thế hệ cầm bút tr−ởng
thành sau 1975, thậm chí có những
ng−ời còn rất trẻ, tuổi mới ngoài hai
m−ơi nh− Nguyễn Ngọc T−, Đỗ Hoàng
Diệu... đều có tác phẩm viết về đề tài
gia đình. Mặt khác, đề tài gia đình
không chỉ xuất hiện trong tiểu thuyết,
truyện ngắn mà còn xuất hiện trong cả
trong tản văn (Chẳng hạn: Tập tản văn
Nhân chuyện chị Thỏ Bông của Thảo
Hảo, đã m−ợn hình t−ợng chị Thỏ Bông
để nói chuyện gia đình Việt Nam hiện
đại). Văn học thời kỳ này xuất hiện với
mật độ dày đặc tác phẩm viết về đề tài
gia đình hoặc có liên quan đến vấn đề
gia đình nh− Mùa lá rụng trong v−ờn,
Côi cút giữa cảnh đời, Trung du, chiều
m−a buồn, Trái chín mùa thu, Mẹ già,
Mẹ và con, Mất điện, Kiểm, chú bé, con
ng−ời, Một chốn n−ơng thân, Heo may
gió lộng, Bồ nông ở biển, Trăng soi sân
nhỏ, Anh thợ chữa khoá, Chọn chồng,
Anh cả tôi, ng−ời sung s−ớng, Nợ đời,
Suối mơ, Gái có con, Phép lạ th−ờng
ngày, Đất mầu, Nhan sắc đàn bà, Cỏ
dại... (Ma Văn Kháng), Cha và con và...,
Một cõi nhân gian bé tí (Nguyễn Khải),
Thời xa vắng, Hai nhà, Sóng ở đáy sông
(Lê Lựu), Bến không chồng (D−ơng
H−ớng), Nỗi buồn chiến tranh (Bảo
Ninh), Mảnh đất lắm ng−ời nhiều ma
(Nguyễn Khắc Tr−ờng), T−ớng về h−u,
Không có vua, Tâm hồn mẹ (Nguyễn
Huy Thiệp) Phố, Ăn mày dĩ vãng (Chu
Lai), Tiễn biệt những ngày buồn (Trung
Trung Đỉnh), Một nửa cuộc đời, Mi-nu
xinh đẹp, N−ớc mắt đàn ông, Hậu thiên
đ−ờng (Nguyễn Thị Thu Huệ), Hồn
trinh nữ (Võ Thị Hảo), B−ớc qua lời
nguyền, Lão khổ, Thiên thần sám hối
(Tạ Duy Anh), Gia đình bé mọn (Dạ
Ngân), Cánh đồng bất tận (Nguyễn
Ngọc T−), Bóng đè, Dòng sông hủi, Vu
quy, Bốn ng−ời đàn bà và một đám tang
(Đỗ Hoàng Diệu), Cõi ng−ời rung
chuông tận thế (Hồ Anh Thái), Dòng
sông mía (Đào Thắng)... Trong đó có
nhiều tác phẩm xuất sắc, đạt các giải
th−ởng cao của Hội Nhà văn và để lại
nhiều d− âm trong lòng độc giả nh−
Mùa lá rụng trong v−ờn, Thời xa vắng,
Bến không chồng, Mảnh đất lắm ng−ời
nhiều ma, Nỗi buồn chiến tranh, Thiên
thần sám hối, Gia đình bé mọn, Cánh
đồng bất tận.
3. Các tác phẩm viết về đề tài gia
đình trong văn học Việt Nam sau 1975
đã đi sâu khai thác các mối quan hệ
phức tạp, đa chiều của gia đình Việt
Nam trong thời mở cửa. Nhà văn tập
trung phản ánh cuộc sống cá nhân
trong mối quan hệ với gia đình và xã
hội. Vấn đề cá tính đ−ợc tôn trọng, đ−ợc
đề cao. Nếu nh− văn học cách mạng
1945 - 1975 th−ờng đặt lợi ích quốc gia,
dân tộc, cộng đồng lên trên lợi ích cá
nhân thì các sáng tác về đề tài gia đình
sau 1975 lại có xu h−ớng nghiêng về thể
hiện vai trò của văn học đối với cá nhân
- gia đình.
Một trong những vấn đề đ−ợc khá
nhiều nhà văn quan tâm là gia đình
Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 2b-2007
61
Việt Nam tr−ớc thách thức của nền
kinh tế thị tr−ờng. Liệu quan niệm
“một túp lều tranh hai trái tim vàng”
một thời đ−ợc coi là lý t−ởng có còn
đứng vững tr−ớc lối sống thực dụng,
chạy theo đồng tiền, coi trọng vật chất
đang từng ngày, từng giờ luồn lách
khắp hang cùng ngõ hẽm của xã hội
Việt Nam?
Trong Tiễn biệt những ngày buồn
vợ chồng Xoay - S−ơng nhiều năm chỉ
sống bằng một sổ gạo, một suất l−ơng
thế mà êm ấm. Nh−ng khi S−ơng tìm
đ−ợc việc làm tốt, thu nhập cao, đời
sống vật chất ngày một cải thiện thì gia
đình họ tan vỡ. S−ơng thay đổi từ cách
ăn mặc, nói năng, cử chỉ và cuối cùng từ
giã căn phòng tập thể, “tiễn biệt” ng−ời
chồng thừa tình yêu, nhân hậu nh−ng
thiếu tiền tài, của cải để tìm cuộc sống
mới. Câu nói cuối cùng của S−ơng với
các bạn Xoay: “Em không thể chờ anh
Xoay đ−ợc. Bố em cũng không thể chờ
chàng rể đem thuốc tốt bụng về chữa
bệnh (...). Bây giờ thì em tự quyết định
lấy cuộc sống của mình, hạnh phúc của
mình”, đã khẳng định quan niệm về
hạnh phúc của cô.
Cùng cảnh ngộ nh− Xoay nh−ng
Nam trong Phố của Chu Lai còn đắng
cay, xót xa hơn nhiều. Tình yêu của họ
đ−ợc thử thách nơi hòn tên mũi đạn và
ngàn ngày đằng đẵng xa nhau. Hạnh
phúc t−ởng nh− ở trong tầm tay khi
Thảo “nguyên vẹn” trở về, tiền bạc dồi
dào, nhà cao cửa rộng, đời sống sung
túc. Vậy mà, sóng gió lại xuất hiện.
Ch−a đầy năm sau, bi kịch đã giáng
xuống gia đình họ. Chị bỏ mạng nơi
biển Sầm Sơn một ngày dông gió trong
chuyến “píc níc” với tình nhân. Anh
điên loạn, phẫn uất khi nhận ra mình
bị phản bội. Còn cháu Niên Thảo quặn
nỗi đau mất mẹ và hứng chịu những
cơn thịnh nộ của bố.
Do đâu mà hạnh phúc gia đình tan
vỡ? Nhiều ng−ời đã nói đến lối sống Âu
- Mỹ, ảo vọng giàu sang, những dục
vọng thấp hèn... đã tiêm nhiễm vào con
ng−ời Thảo. Tác giả m−ợn lời nhân vật
trong truyện cho rằng Thảo sa ngã vì
“nín nhịn bên đó để về bên này chị hụt
hơi” và “chị giữ gìn đ−ợc thể xác nh−ng
linh hồn chị đã bị nhiễm độc rồi”. Nhà
văn không những nhiều lần nhấn mạnh
hành vi bạo liệt của tay Việt kiều luôn
là nỗi ám ảnh trong con ng−ời Thảo mà
còn trực tiếp bộc lộ quan niệm của
mình: “Thế gian điên đảo đang tràn lan
những căn bệnh thời vi tính, những căn
bệnh vô thức của thế kỷ bùng nổ tình
dục. Ng−ời bị hiếp dâm ám ảnh đứa
hiếp mình, kẻ bị bắt cóc đâm ra phải
lòng kẻ bắt cóc nó ...”.
Quan niệm trên, mang nặng tính
chủ quan, thiếu sức thuyết phục. Nếu
phân tích thấu đáo khó chấp nhận.
Theo chúng tôi, gia đình họ tan vỡ
không chỉ vì Thảo “bị nhiễm độc” bởi lối
sống Âu hoá mà một phần do Nam
không bắt kịp với cuộc sống mới thời mở
cửa và do họ ch−a thật sự hiểu nhau
tr−ớc khi lấy nhau. Thảo đến với Nam
chủ yếu vì tò mò, vì tự ái. Sau khi lấy
nhau, mọi tâm lực của họ dồn vào việc
“kiếm ăn từng bữa toát mồ hồi” của thời
kỳ đất n−ớc cực kỳ khó khăn sau chiến
tranh. Ba năm sang châu Âu, tiếp xúc
với cuộc sống ph−ơng Tây, tầm mắt
đ−ợc mở rộng, quan niệm về thẩm mỹ,
về hạnh phúc, về giá trị cuộc sống ở chị
có nhiều đổi thay. Trong lúc, Nam vẫn
kh− kh− giữ nếp x−a, kém thích ứng với
cuộc sống mới thì Thảo lại vui thích
cuộc sống hiện tại. Sống với một con
ng−ời nh− thế, Thảo càng ngày càng
cảm thấy buồn tẻ, nhàm chán. Vì thế,
khi Hai Hùng xuất hiện chị nhận ra
đây là con ng−ời trong mộng của mình.
Chị ngã gục tr−ớc tình yêu của Hai
Hùng là một hệ quả tất yếu.
Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 2b-2007
62
Những tác phẩm viết về đề tài gia
đình hoặc có liên quan đến vấn đề gia
đình của Lê Lựu th−ờng kết thúc bi
kịch. Sự đổ vỡ đó chủ yếu do sự cách
biệt về quan niệm sống, về cách ứng xử,
các mối quan hệ trong giao tiếp và đặc
biệt hôn nhân không xuất phát từ tình
yêu giữa ng−ời vợ và ng−ời chồng. Nhân
vật nam trong các tác phẩm của ông
th−ờng là những ng−ời xuất thân từ
nông thôn. Dù trở thành anh hùng hay
trí thức thì bản chất nông dân vẫn ăn
sâu trong con ng−ời họ. Ng−ợc lại, nhân
vật nữ th−ờng là những trí thức thành
thị xinh đẹp, sành điệu và lõi đời. Do
đó, các chàng trí thức tỉnh lẻ ngu ngơ bị
các cô gái lọc lõi dắt mũi, dẫn dụ vào
những cạm bẫy ái tình khi họ đang cần
một ng−ời chồng cho chính danh cái bào
thai đang lớn dần trong bụng. Sài trong
Thời xa vắng; Tâm, ông Địa trong Hai
nhà là những nạn nhân chuyên làm
nhiệm vụ “tráng men” cho loại đàn bà
đó.
D−ới góc độ hôn nhân - gia đình,
trong Thời xa vắng, vấn đề tình yêu và
hạnh phúc gia đình luôn là nỗi trăn trở,
day dứt khôn nguôi. Sài hai lần lấy vợ
đều rơi vào bi kịch. Cuộc đời Giang
Minh Sài là một chuỗi ngày đắng cay,
chua xót. Sau bao lần đổ vỡ đớn đau
anh đã ngậm ngùi tự đánh giá về cuộc
đời mình: “Nửa đời ng−ời phải yêu cái
ng−ời khác yêu, nửa còn lại đi yêu cái
mình không có”.
Lê Lựu đã đ−a ra cách biện giải
t−ơng đối hợp lý về bi kịch của cuộc đời
Sài. Sài vừa là nạn nhân của hoàn cảnh
nh−ng đồng thời anh cũng là thủ phạm
gây nên bi kịch cuộc đời mình. Anh phải
im lặng chịu đựng theo ý mọi ng−ời, để
đ−ợc coi là ng−ời tốt, g−ơng mẫu, nh−ng
mấy ai biết đ−ợc Sài đang tự đánh mất
bản ngã, không dám khẳng định mình,
đang gồng lên đẽo gọt mình cho phù
hợp với chuẩn mực của gia đình và xã
hội.
Nh− vậy, bi kịch cuộc đời Sài không
chỉ xuất phát từ sự áp đặt của gia đình,
xã hội, từ sự ích kỷ, dối trá của con
ng−ời mà còn do tính yếu đuối, nhu
nh−ợc, thiếu bản lĩnh của anh ta. Chính
Sài đã thú nhận: “Giá ngày ấy em cứ
sống với tình cảm của chính mình,
mình có thế nào cứ sống nh− thế, không
sợ ai, không chiều theo ý ai, sống hộ ý
định của ng−ời khác, cốt cho đẹp mặt
mọi ng−ời chứ không phải cho hạnh
phúc của mình”.
Trong Hai nhà, tính chất lăng loàn,
dâm đãng của ng−ời vợ đ−ợc Lê Lựu
đẩy lên một nấc thang mới. Cả Linh
Anh và bà Mỹ Nhân đều là những con
quỷ dâm dục. Họ lấy chồng để hợp thức
hoá cái “của nợ” với tình nhân trong
bụng. Sau khi có chồng họ vẫn ngoại
tình “nh− cơm bữa”. Kẻ thì lén lút “ngủ
với giai trong giờ làm việc cơ quan”, kẻ
thì công khai hành lạc ngoài công viên
giữa thanh thiên bạch nhật. Còn những
ông chồng là những kẻ nhu nh−ợc yếu
đuối, thiếu bản lĩnh. Họ tận tuỵ phục
vụ vợ con nh−ng lại bị vợ coi th−ờng.
Thỉnh thoảng mới đ−ợc “ban th−ởng”,
dù chỉ là “cơm thừa canh cặn” nh− kiểu
bố thí cho kẻ ăn mày mà “háo hức nh−
một đứa trẻ đ−ợc mẹ cho quà”. Gia đình
họ chỉ là sự “gá buộc”, chỉ chính danh
trên giấy tờ còn thực chất trong nhà là
quan hệ chủ - tớ.
Các nhân vật nữ trong Thời xa
vắng, Hai nhà là những con ng−ời hai
mặt. Bề ngoài là những ng−ời duyên
dáng, lịch thiệp, tế nhị, mẫu mực, hết
lòng yêu chồng, th−ơng con. Bên trong
lại chứa đựng bản chất ích kỷ, giả dối,
lăng loàn. Tuy nhiên, có những khái
quát về tính lăng loàn, dâm đãng của
phụ nữ ít nhiều gây phản cảm cho
ng−ời đọc, nhất là độc giả nữ. Chẳng
hạn: “Tâm nhận ra một điều đơn giản
Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 2b-2007
63
nh−ng mang tính qui luật là: Khi ng−ời
đàn bà gặp ai dù quen thân hay xa lạ
mà mở mồm ra là bêu riếu, than vãn về
sự xấu xa, lỗi lầm và những thói h− tật
xấu của chồng thì một trăm ng−ời nh−
thế không sót một ai là không ngoại
tình, không bồ bịch lang chạ, không chỉ
với một vài ng−ời đàn ông mà có đến
hàng chục ng−ời” [10, tr. 34 - 35]; “Bà
ấy tích trữ nhân tình nh− chị em mình
trữ cá khô phòng bão lụt ấy. Nhân tình
với cả bố nuôi 70 tuổi, với cả em nuôi
kém bà ấy hai chục tuổi. Thằng nào có
tiền, có quyền, có sức làm tình nh− trâu
chọi là ngả ra cân tất” [10, tr. 43].
Ra đời vào những năm cuối cùng
của thập kỷ 80, Bến không chồng của
D−ơng H−ớng, có cách nhìn mới về
chiến tranh, về hiện thực cuộc sống, về
tình yêu và hôn nhân - gia đình. Bến
không chồng giúp ng−ời đọc thấy đ−ợc
mặt trái của cuộc chiến tranh. Tác
phẩm không nói nhiều về chiến tr−ờng,
về hy sinh mất mát của ng−ời lính mà
chủ yếu nói về nỗi đau của những ng−ời
mẹ, ng−ời vợ, “ng−ời gái nhỏ hậu
ph−ơng”. Chồng hy sinh, họ trở thành
những goá phụ cực nhọc nuôi con, đêm
đêm tấm tức khóc cho số phận đơn côi.
Chồng biền biệt ngoài mặt trận họ thấp
thõm chờ mong trong vô vọng. Họ giữ
trọn lời thề với ng−ời đi xa để đến lúc
tuổi đã xế tà cũng là lúc nhận đ−ợc tin
anh không bao giờ về nữa. Và biết bao
cô gái trẻ, khát khao yêu đ−ơng, khát
khao hạnh phúc nh−ng tìm đâu ra
ng−ời đàn ông cho riêng mình. Họ hoặc
phải chịu cảnh “chết dần” theo năm
tháng hoặc phải lấy anh què anh thọt
hay làm lẽ một ông lão nào đang ‘khát”
con trai.
Đọc Bến không chồng, chúng ta
không cầm đ−ợc n−ớc mắt về nỗi đau
của con ng−ời, về thân phận của ng−ời
phụ nữ. Hạnh là một thiếu nữ đáng
yêu, đáng quý vô ngần. Hạnh dám
chống lại lời nguyền để yêu th−ơng
Nghĩa. Hạnh đã hy sinh tuổi xuân chờ
chồng, nuôi mẹ. Nh−ng Hạnh cũng sẵn
sàng rời xa chồng để anh đ−ợc hạnh
phúc và mẹ anh có con nối dõi. Hạnh
dám làm tất cả để khẳng định mình là
ng−ời phụ nữ có đủ khả năng làm vợ,
làm mẹ. Hạnh là một cô gái nhân hậu,
đoan trang nh−ng cũng rất c−ơng
quyết, táo bạo. Chính nhờ Hạnh mà tộc
họ Nguyễn bỏ đ−ợc lời nguyền x−a. Nhờ
có Hạnh mà cuộc đời Nghĩa thêm đẹp,
thêm cao cả. Chính có Hạnh mà cuốn
sách có lúc t−ởng nh− sắp rơi vào u ám
bỗng sáng bừng lên. Đó là ánh sáng của
tình ng−ời, tình đời, tình yêu và lẽ sống.
Bến không chồng có tố cáo, có phê
phán, có buồn đau... nh−ng nổi bật nhất
vẫn là ngợi ca lòng nhân ái, ngợi ca
phẩm chất cao cả của con ng−ời, nhất là
của những ng−ời mẹ, ng−ời vợ, ng−ời
phụ nữ Việt Nam trong những năm
tr−ớc và sau chiến tranh.
Thời mở cửa, bộ mặt đất n−ớc có
nhiều đổi thay nh−ng mặt trái của nền
kinh tế thị tr−ờng cũng có những tác
động tiêu cực đến truyền thống đạo đức
xã hội. Vì thế, những cô gái nhẹ dạ, cả
tin th−ờng dễ rơi vào bi kịch. Trong
Thiên thần sám hối, Tạ Duy Anh đã
phản ánh tình trạng lừa tình xảy ra
khá phổ biến hiện nay. Một khi cô gái
“ểnh bụng” những “thằng chó họ Sở”
tìm cách tẩu thoát. Còn những cô gái lỡ
làng “dở khóc dở c−ời” chỉ còn cách tống
tháo cái “của nợ”. Oái oăm thay khi dấu
vết t−ởng nh− đ−ợc xoá sạch thì nghiệp
ch−ớng lại đeo đẳng cuộc đời họ. Họ
luôn bị ám ảnh, dằn vặt về tội lỗi của
mình cho nên bao lần đơm hoa nh−ng
không một lần kết trái.
Nhiều tác phẩm văn học Việt Nam
sau 1975 đã diễn tả vấn đề tình yêu -
tình dục với tinh thần lành mạnh và
dân chủ. Những ng−ời đàn bà trong
truyện Đỗ Hoàng Diệu th−ờng là những
Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 2b-2007
64
ng−ời đàn bà “lãng mạn, yếu ớt và vô
cùng nhạy cảm”. Họ phải sống trong
cảnh cô đơn, thiếu thốn về tình cảm khi
“ng−ời chồng cứ biền biệt xa nhà”. Họ
sẵn sàng bỏ nhà bỏ cửa, bỏ chồng, bỏ
con chạy theo tiếng gọi của tình yêu.
Trong ng−ời họ lúc này “chỉ có khát
vọng đ−ợc sống cho chính mình”. Hoặc
họ phải sống trong không khí ngột ngạt,
bức bối, luôn bị đè nén, áp chế về tinh
thần. Ng−ời bàn bà trẻ trong Dòng sông
hủi lấy phải ng−ời chồng làm nghề
“kiểm tra trí nhớ của con ng−ời”. Mỗi
khi đi xa về là anh ta “xô ngã chị xuống
thảm”, lột truồng ra chăm chú soi mói,
kiểm tra tỉ mẩn từng sợi lông ở chỗ kín
trên cơ thể chị để “ngửi tìm dấu vết một
tội phạm”. Không thể chịu đựng đ−ợc
cuộc sống tù đày chị đành phải “cày bừa
trên cánh đồng luyến ái với một ng−ời
đàn ông khác” và cuối cùng trốn chạy
lên Tây Nguyên sống với ng−ời đàn ông
dị tật trong làng hủi.
Khác với Đỗ Hoàng Diệu thiên viết
về cuộc sống gia đình thành thị, nhà
văn đất Mũi Nguyễn Ngọc T− đi sâu
vào cuộc sống của những ng−ời dân
sông n−ớc nơi cùng trời cuối đất. Trong
Cánh đồng bất tận nhà văn kể về cuộc
đời nổi nênh của một gia đình quanh
năm suốt tháng lênh đênh trên những
cánh đồng bất tận, sống cuộc đời du
mục với đàn vịt thả đồng.
Cuộc đời sông n−ớc đã giúp ng−ời
đàn ông “nhặt” đ−ợc cô gái về làm vợ
nh−ng cũng chính cuộc đời nghèo đói,
túng thiếu đó đã không giữ đ−ợc ng−ời
đàn bà xinh đẹp “có cái c−ời láp lánh cả
khúc sông” ở lại với ông. Vì muốn khoác
“những khúc vải rực rỡ lên ng−ời” chị
đã phải “bán mình” cho gã th−ơng hồ và
rời xa chồng con mãi mãi. Chị bỏ chồng,
bỏ con dứt áo ra đi cũng “chẳng phải
suy nghĩ, đắn đo, không một chút trù
trừ, chỉ rũ một cái rột sạch trơn” nh−
khi chị đến. Quả thật, lấy chồng, có con
đối với ng−ời đàn bà này “chỉ quá giang
một khúc đời rồi đi” chứ chẳng phải yêu
đ−ơng, ăn đời ở kiếp. Chỉ tội ng−ời đàn
ông ngây thơ tin rằng: “Chỉ cần mình
hết lòng yêu th−ơng, gánh hết sự kiếm
sống nhọc nhằn thì sẽ đ−ợc đền đáp
xứng đáng” mà không biết rằng ng−ời
đàn bà thời nay chỉ yêu th−ơng không
đủ mà còn phải có nhà cao cửa rộng, ăn
ngon mặc đẹp, cuộc sống đủ đầy, ái ân
nồng thắm... Vì thế, khi mất vợ, ông
nh− ng−ời điên dại thiêu trụi ngôi nhà,
lang thang trên những cánh đồng bất
tận để trả thù đời. Nạn nhân của ông là
hai đứa trẻ và những ng−ời đàn bà vô
tội. Ông hành hạ, đánh đập lũ trẻ vì
chúng là con của “ng−ời đàn bà bội bạc”
và chúng “càng lớn càng giống má”. Ông
trút hận lên đầu những ng−ời phụ nữ
nhẹ dạ, cả tin vì họ là đàn bà. Ông “tính
toán rất vừa vặn, sao cho vừa đủ yêu,
vừa đủ đau, vừa đủ bẽ bàng và bỏ rơi họ
đúng lúc”; ông “mang họ đi một quãng
đ−ờng, vừa đủ để ng