I. Lý do chọn đề tài
Cùng với sự phát triển chung của đất nước, hệ thống Ngân hàng thương mại Việt 
Nam trong những năm gần đây đã có những bước phát triển vượt bật về số lượng cũng 
như chất lượng các dịch vụ cung ứng. 
Bên cạnh chức năng trung gian tài chính, vốn là cơ sở mang lại nguồn thu nhập chủ 
yếu của các Ngân hàng thương mại, thì doanh thu từ việc thực hiện chức năng trung gian 
thanh toán đang có xu hướng ngày càng tăng trong cơ cấu tổng doanh thu của các ngân 
hàng. 
Trong số các dịch vụ thanh toán mà ngân hàng cung cấp hiện nay, thẻ thanh toán ngày 
càng được khách hàng sử dụng rộng rãi do những tiện ích mà nó mang lại. Tuy nhiên, 
công dụng của thẻ thanh toán vẫn chưa được khai thác một cách triệt để. Việc liên kết thẻ 
thanh toán giữa các ngân hàng ở Việt Nam, một nội dung cốt lõi để nâng cao tính tiện ích 
và chất lượng dịch vụ thẻ, vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập đối với các ngân hàng và người 
sử dụng.
Trong bối cảnh đó, đề tài “Giải pháp liên kết thẻ thanh toán giữa các ngân hàng 
ở Việt Nam” được lựa chọn nghiên cứu thực hiện luận đề tài khoa học, nhằm tìm hiểu 
sâu về thẻ thanh toán và liên kết thẻ thanh toán giữa các Ngân hàng thương mại ở Việt 
Nam, đóng góp ý kiến vào lĩnh vực này, đồng thời góp phần nâng cao chất lượng dịch vụ 
thanh toán ở các ngân hàng và mang lại tiện ích tối ưu cho khách hàng sử dụng.
II. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu của đề tài:
+ Nghiên cứu quá trình ra đời, phát triển thẻ thanh toán ở Việt Nam và những vấn 
đề cơ bản về thẻ thanh toán, liên kết thẻ thanh toán. 
+ Phân tích thực tiễn thẻ thanh toán và liên kết thẻ thanh toán tại một số Ngân 
hàng thương mại ở Việt Nam để tìm ra những hạn chế trong liên kết thẻ hiện nay.
+ Trên cơ sở những hạn chế còn tồn tại trong việc liên kết thẻ thanh toán hiện nay 
ở Việt Nam, nghiên cứu kinh nghiệm liên kết thẻ ở các nước phát triển trên thế giới 
kết hợp với thực tiễn ở các ngân hàng Việt Nam, từ đó tìm ra giải pháp liên kết thống 
nhất thẻ thanh toán giữa tất cả các ngân hàng trong cả nước.
- Đối tượng nghiên cứu: thẻ thanh toán và liên kết thẻ thanh toán.
- Phạm vi nghiên cứu: Một số Ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn 
hiện nay
III. Phương pháp nghiên cứu:
Trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩa 
duy vật lịch sử, các phương pháp được sử dụng trong quá trình nghiên cứu là: phương 
pháp thu thập, thống kê, tổng hợp số liệu, so sánh và phân tích kinh tế.
IV. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài 
Đưa ra những lý luận tổng quan về thẻ thanh toán, liên kết thẻ thanh toán: quá 
trình ra đời phát triển, đặc tính, công dụng, những lợi ích mà thẻ thanh toán và việc 
liên kết thẻ thanh toán mang lại.
Bên cạnh những lý luận khoa học, đề tài mang ý nghĩa thực tiễn qua việc 
nghiên cứu thực trạng phát triển thẻ thanh toán và liên kết thẻ thanh toán ở Việt Nam, 
tìm ra những điểm hạn chế, bất cập trong hoạt động này và vận dụng kinh nghiệm của 
các nước có hệ thống ngân hàng phát triển, từ đó đưa ra giải pháp liên kết thẻ thanh 
toán giữa tất cả các ngân hàng thương mại nước ta theo hướng tối ưu nhất.
V. Kết cấu đề tài
Tên đề tài “Giải pháp liên kết thẻ thanh toán giữa các ngân hàng ở Việt Nam”
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài kết cấu theo 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về thẻ thanh toán và liên kết thẻ thanh toán
Chương 2: Thực trạng phát triển thẻ thanh toán ở Việt Nam
.Chương 3: Giải pháp liên kết thẻ thanh toán ở Việt Nam.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 26 trang
26 trang | 
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2844 | Lượt tải: 1 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp liên kết thẻ thanh toán giữa các ngân hàng ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TÊN CÔNG TRÌNH: 
GIẢI PHÁP LIÊN KẾT THẺ THANH TOÁN GIỮA 
CÁC NGÂN HÀNG Ở VIỆT NAM 
LỜI MỞ ĐẦU 
 I. Lý do chọn đề tài 
Cùng với sự phát triển chung của đất nước, hệ thống Ngân hàng thương mại Việt 
Nam trong những năm gần đây đã có những bước phát triển vượt bật về số lượng cũng 
như chất lượng các dịch vụ cung ứng. 
Bên cạnh chức năng trung gian tài chính, vốn là cơ sở mang lại nguồn thu nhập chủ 
yếu của các Ngân hàng thương mại, thì doanh thu từ việc thực hiện chức năng trung gian 
thanh toán đang có xu hướng ngày càng tăng trong cơ cấu tổng doanh thu của các ngân 
hàng. 
Trong số các dịch vụ thanh toán mà ngân hàng cung cấp hiện nay, thẻ thanh toán ngày 
càng được khách hàng sử dụng rộng rãi do những tiện ích mà nó mang lại. Tuy nhiên, 
công dụng của thẻ thanh toán vẫn chưa được khai thác một cách triệt để. Việc liên kết thẻ 
thanh toán giữa các ngân hàng ở Việt Nam, một nội dung cốt lõi để nâng cao tính tiện ích 
và chất lượng dịch vụ thẻ, vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập đối với các ngân hàng và người 
sử dụng. 
Trong bối cảnh đó, đề tài “Giải pháp liên kết thẻ thanh toán giữa các ngân hàng 
ở Việt Nam” được lựa chọn nghiên cứu thực hiện luận đề tài khoa học, nhằm tìm hiểu 
sâu về thẻ thanh toán và liên kết thẻ thanh toán giữa các Ngân hàng thương mại ở Việt 
Nam, đóng góp ý kiến vào lĩnh vực này, đồng thời góp phần nâng cao chất lượng dịch vụ 
thanh toán ở các ngân hàng và mang lại tiện ích tối ưu cho khách hàng sử dụng. 
II. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu 
 - Mục đích nghiên cứu của đề tài: 
 + Nghiên cứu quá trình ra đời, phát triển thẻ thanh toán ở Việt Nam và những vấn 
đề cơ bản về thẻ thanh toán, liên kết thẻ thanh toán. 
 + Phân tích thực tiễn thẻ thanh toán và liên kết thẻ thanh toán tại một số Ngân 
hàng thương mại ở Việt Nam để tìm ra những hạn chế trong liên kết thẻ hiện nay. 
 + Trên cơ sở những hạn chế còn tồn tại trong việc liên kết thẻ thanh toán hiện nay 
ở Việt Nam, nghiên cứu kinh nghiệm liên kết thẻ ở các nước phát triển trên thế giới 
kết hợp với thực tiễn ở các ngân hàng Việt Nam, từ đó tìm ra giải pháp liên kết thống 
nhất thẻ thanh toán giữa tất cả các ngân hàng trong cả nước. 
 - Đối tượng nghiên cứu: thẻ thanh toán và liên kết thẻ thanh toán. 
 - Phạm vi nghiên cứu: Một số Ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn 
hiện nay 
III. Phương pháp nghiên cứu: 
 Trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩa 
duy vật lịch sử, các phương pháp được sử dụng trong quá trình nghiên cứu là: phương 
pháp thu thập, thống kê, tổng hợp số liệu, so sánh và phân tích kinh tế. 
IV. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài 
 Đưa ra những lý luận tổng quan về thẻ thanh toán, liên kết thẻ thanh toán: quá 
trình ra đời phát triển, đặc tính, công dụng, những lợi ích mà thẻ thanh toán và việc 
liên kết thẻ thanh toán mang lại. 
 Bên cạnh những lý luận khoa học, đề tài mang ý nghĩa thực tiễn qua việc 
nghiên cứu thực trạng phát triển thẻ thanh toán và liên kết thẻ thanh toán ở Việt Nam, 
tìm ra những điểm hạn chế, bất cập trong hoạt động này và vận dụng kinh nghiệm của 
các nước có hệ thống ngân hàng phát triển, từ đó đưa ra giải pháp liên kết thẻ thanh 
toán giữa tất cả các ngân hàng thương mại nước ta theo hướng tối ưu nhất. 
V. Kết cấu đề tài 
Tên đề tài “Giải pháp liên kết thẻ thanh toán giữa các ngân hàng ở Việt Nam” 
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài kết cấu theo 3 chương: 
Chương 1: Lý luận chung về thẻ thanh toán và liên kết thẻ thanh toán 
Chương 2: Thực trạng phát triển thẻ thanh toán ở Việt Nam 
.Chương 3: Giải pháp liên kết thẻ thanh toán ở Việt Nam. 
Chương 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ THẺ THANH TOÁN 
VÀ LIÊN KẾT THẺ THANH TOÁN 
1. Sơ lược quá trình ra đời, phát triển của thẻ thanh toán 
a. Trên thế giới 
Lịch sử hình thành phương thức thanh toán bằng thẻ nói chung được ghi nhận vào năm 
1914. Khi đó một Công ty của Mỹ là Western Union đã cung cấp một dịch vụ thanh 
toán theo yêu cầu của khách hàng, Công ty này đã phát hành 1 tấm thẻ bằng kim loại 
với 1 số thông tin được in nổi lên trên tấm thẻ kim loại này để đảm bảo 2 chức năng cơ 
bản: 
- Nhận dạng được khách hàng 
- Có thể lưu giữ lại các thông tin được in nổi trên tấm kim loại 
Với tấm thẻ kim loại bỏ túi này, khách hàng sử dụng có thể thanh toán cho mọi chi phí 
phát sinh của mình tại các điểm giao dịch của ngân hàng ở mọi nơi mà không phải sử 
dụng tiền mặt hay 1 số giấy tờ liên quan rườm rà khác như trước đây. 
Chính vì thấy được sự tiện lợi về thẻ Western Union, Công ty General Petroleum của 
Mỹ cũng đã phát hành thẻ xăng dầu đầu tiên vào năm 1924, theo đó cho phép các khách 
hàng của công ty này có thẻ được mua xăng dầu của công ty trên đất nước Mỹ. Như vậy 
có thể nói những tấm thẻ kim loại là nền tảng cho việc ra đời những tấm thẻ nhựa sau 
này. 
Tấm thẻ nhựa đầu tiên được phát hành vào năm 1950 bởi Công ty Dinners Club. Khi đó 
ông Frank Mc Namana, người sáng lập ra công ty Dinners Club, đã hết sức bối rối sau 
khi tham dự 1 bữa tiệc tại nhà hàng đã phát hiện ra mình quên mang theo ví tiền. Chính 
từ đó ông đã có ý nghĩ là phát hành những tấm thẻ nhựa để cho phép khách hàng có thể 
thanh toán sau. 
Đến năm 1958, công ty American Express đã phát hành các thẻ nhựa, trong đó tập trung 
vào các lĩnh vực giải trí và du lịch - 1 lĩnh vực có tốc độ phát triển nhanh chóng tại Mỹ 
và Châu Âu trong thời kỳ này. 
Năm 1966, ngân hàng Bank of America chính thức trao quyền phát hành thẻ Bank 
Americard của mình cho các ngân hàng thông qua việc ký các hợp đồng đại lý, chính 
thức bắt đầu giai đoạn tăng tốc trong phát triển thẻ tín dụng này không chỉ mặc định 
dành cho những người giầu có và nổi tiếng mà dần trở thành phương tiện thanh toán 
thông dụng. Thương hiệu Bank Americard với 1 loạt sản phẩm có màu xanh, trắng, 
vàng đặc trưng ngày càng trở nên quen thuộc với người tiêu dùng. Tới năm 1977, thẻ 
của ngân hàng Bank of America thật sự được chấp nhận trên toàn cầu và thay vì tên 
Bank Americard, tên thẻ VISA ra đời với màu sắc đặc trưng vẫn là xanh lam, trắng và 
vàng 
Cũng vào năm 1966, ba nhóm ngân hàng lớn phía đông nước Mỹ quyết định hợp tác 
thành lập tập đoàn kinh doanh tín dụng riêng, có tên là Interbank Card Association 
(ICA), Sau này tên ICA được chuyển đổi thành Mastercard. 
Cho đến ngày nay, Thẻ thanh toán được sử dụng rộng rãi khắp mọi nơi trên thế giới, các 
công ty và các ngân hàng liên kết với nhau để khai thác lĩnh vực thu hút nhiều lợi nhuận 
này. Thẻ dần dần được xem như 1 phương tiện văn minh, thuận lợi trong các giao dịch 
mua bán. Bên cạnh các loại thẻ Master Card, Visa, thẻ Amex (ra đời năm 1958), thẻ 
JCB xuất phát từ Nhật Bản cũng vươn lên mạnh mẽ và được sử dụng trên toàn cầu. 
Cùng với sự phát triển nhanh chóng của nền văn minh nhân loại và khoa học phát triển 
như vũ bão, thẻ ngân hàng nói chung và thẻ thanh toán nói riêng ngày càng thu hút sự 
chú ý và nghiên cứu ứng dụng của nhiều nước, kể cả những nước đang phát triển. 
b. Ở Việt Nam 
Xu hướng liên kết giữa ngân hàng với các đơn vị sản xuất kinh doanh để phát hành thẻ 
thanh toán thay thế tiền mặt ngày càng phát triển. Tuy nhiên, chức năng chi trả của 
những chiếc thẻ này vẫn còn manh mún và nhiều hạn chế. 
Gần đây, tại TP HCM, một số ngân hàng đã đua nhau tung ra thị trường nhiều loại thẻ 
thanh toán thay thế tiền mặt bằng cách liên kết với doanh nghiệp. Ngân hàng thương 
mại cổ phần Á Châu (ACB) kết hợp với hệ thống siêu thị Citimart phát hành thẻ ACB - 
Citimart visa electron, cùng Công ty Én Việt cho ra đời thẻ Cát Đằng ACB e.Card. 
Ngân hàng Đông Á (EAB) cùng hãng taxi Mai Linh và Công ty bảo hiểm nhân thọ 
Manulife VN phát hành 2 loại thẻ thanh toán cùng tên. Dự kiến, trong thời gian tới, 
EAB còn liên kết với Công ty dệt may Việt Tiến và dịch vụ viễn thông Viettel. 
Hàng chục loại thẻ được các ngân hàng liên kết với doanh nghiệp phát hành ra thị 
trường để thanh toán, tên gọi không thống nhất và chức năng cũng bị hạn chế. Chủ thẻ 
ACB - Citimart visa electron chỉ sử dụng được trong hệ thống siêu thị, các điểm bán lẻ, 
nhà hàng... trong hệ thống các điểm chấp nhận thanh toán thẻ Visa electron, không thể 
dùng ở những nơi không có máy chấp nhận loại thẻ này hay dùng đi taxi Mai Linh. 
Ngược lại, những chiếc thẻ Đông Á - Mai Linh không thể dùng để mua sắm trong siêu 
thị, nơi không có điểm chấp nhận thẻ EAB. 
Thực trạng trên là do doanh nghiệp muốn quảng bá thương hiệu của mình nên mỗi loại 
thẻ mang một tên gọi khác, chứ thực chất chức năng là sử dụng để thanh toán ở các 
điểm chấp nhận thẻ của Đông Á. Ta phải thừa nhận, hạn chế đối với thị trường thẻ VN 
hiện nay là về thiết bị và công nghệ. Nhiều ngân hàng không thể đáp ứng hết nhu cầu 
của người dân. Một số điểm thanh toán chỉ chấp nhập các loại thẻ của ngân hàng này mà 
không thể chấp nhận thẻ của ngân hàng khác. Phương thức thanh toán bằng thẻ hạn chế 
nên người dân vẫn thích sử dụng tiền mặt.Theo ông Lê Vũ Kỳ, Phó giám đốc ACB, 
người dân ngày càng thích sử dụng thẻ để thanh toán trong mua bán, vì an toàn 
hơn giữ tiền mặt. Do số lượng tài khoản cá nhân tại ngân hàng còn rất khiêm tốn, nên 
việc liên kết với doanh nghiệp phát hành thẻ là biện pháp khuyến khích người dân giao 
dịch, thanh toán qua thẻ nhiều hơn. Tuy nhiên, các ngân hàng vẫn chưa nhận được sự 
hợp tác chặt chẽ của doanh nghiệp trong việc trả thu nhập qua thẻ 
Giám đốc tập đoàn Visa khu vực Đông Dương Gordon Cooper cho biết, theo kết quả 
nghiên cứu về thị trường thẻ VN, có 1,5 triệu người tham gia các giao dịch thanh toán 
có sử dụng thẻ. Với dân số trên 80 triệu người, trung bình cứ 54 người VN chỉ có một 
thẻ thanh toán. Con số chi tiêu của người VN qua thẻ Visa chỉ đạt 0,13% tổng chi tiêu, 
trong khi tỷ lệ này ở Malaysia là 7% và Philipines là 5%. "Điều này cho thấy, thị trường 
thanh toán bằng thẻ của VN vẫn bị bỏ ngỏ. Các ngân hàng VN vì nhiều lý do đang khai 
thác thị trường thẻ một cách lẻ tẻ, manh mún và thiếu hợp tác" 
2. Khái niệm, đặc điểm thẻ thanh toán 
Khái niệm: Thẻ - tiền điện tử là một phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt tiên 
tiến và hiện đại. Thẻ ra đời không những đạt được hai mục tiêu là tiện lợi và an toàn cho 
việc thanh toán mà còn thể hiện được tính văn minh, hiện đại của thời kỳ hiện đại hoá 
và toàn cầu hoá. 
Thẻ là phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt do ngân hàng phát hành, thẻ cấp cho 
khách hàng sử dụng để thanh toán tiền hàng hoá dịch vụ tại các điểm cung ứng hàng hoá 
dịch vụ có ký hợp đồng thanh toán với ngân hàng; rút tiền mặt tại các máy rút tiền mặt 
tự động hay các ngân hàng đại lý trong phạm vi số dư tiền gửi của mình hoặc hạn mức 
tín dụng đã được cấp. Ngoài ra, thẻ còn được sử dụng để thực hiện nhiều dịch vụ khác 
thông qua hệ thống giao dịch tự động ATM như chuyển khoản, tra vấn thông tin tài 
khoản,thông tin các khoản chi phí sinh hoạt... 
Đặc điểm của thẻ thanh toán 
Xuất phát từ đặc tính của mình, thẻ thanh toán có những đặc điểm như sau: 
- Tính linh hoạt: Với nhiều loại thẻ đa năng phong phú, thẻ thích hợp với mọi đối tượng 
khách hàng, từ những khách hàng có thu nhập thấp (thẻ thường) đến những khách hàng 
có thu nhập cao (thẻ vàng). Nó đáp ứng những nhu cầu khác nhau của chủ thẻ như rút 
tiền mặt, nhu cầu du lịch, giải trí, thanh toán chi phí sinh hoạt ... 
- Tính tiện lợi: Chủ thẻ có thể giao dịch 24/24h trong tất cả các ngày trong tuần. Thẻ 
cung cấp cho khách hàng sự tiện lợi mà không 1 phương tiện thanh toán nào có thể 
mang lại được, đặc biệt là những người đi ra nước ngoài công tác hay du lịch, thẻ có thể 
giúp họ thanh toán ở bất cứ nơi nào mà họ không cần phải đem theo nhiều tiền mặt hay 
séc du lịch 
- Tính an toàn: Chủ thẻ có thể yên tâm về số tiền của mình trước nguy cơ bị mất cắp, 
thậm chí khi mình bị mất thẻ, ngân hàng cũng có thể bảo vệ tiền của chủ thẻ bẵng mã 
PIN, ảnh, chữ ký trên thẻ... nhằm tránh khả năng rút tiền của kẻ trộm 
3. Công dụng của thẻ thanh toán 
* Đối với nền kinh tế - xã hội 
- Giảm khối lượng tiền mặt trong lưu thông 
Là 1 phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt, thẻ có vai trò làm giảm khối lượng 
tiền mặt trong lưu thông. Ở các nước có nền kinh tế phát triển, khối lượng tiền mặt trong 
lưu thông rất nhỏ, các giao dịch thương mại, dịch vụ chủ yếu được thanh toán bằng 
chuyển khoản, thông qua hệ thống ngân hàng như: sử dụng thẻ thanh toán, thẻ tín 
dụng... nhờ đó họ kiểm soát chặt chẽ nguồn thu, hạn chế thất thu thuế và gian lận trong 
thương mại. 
- Tăng nhanh khối lượng chu chuyển, thanh toán trong nền kinh tế 
Hầu hết mọi giao dịch thẻ trong phạm vi quốc gia hay toàn cầu đều được thực hiện và 
thanh toán trực tuyến, vì vậy tốc độ chu chuyển, thanh toán nhanh hơn nhiều so với 
những giao dịch qua các phương tiện thanh toán khác như: tiền mặt, séc, uỷ nhiệm chi.... 
thay vì thực hiện các giao dịch trên giấy tờ, với giao dịch thẻ, mọi thông tin đều được xử 
lý qua hệ thống máy móc điện tử thuận tiện, nhanh chóng và an toàn. 
- Thực hiện chính sách quản lý vĩ mô của nhà nước 
Trong thanh toán thẻ, các giao dịch đều nằm dưới sự kiểm soát của ngân hàng, nhờ đó 
các ngân hàng có thể dễ dàng kiểm soát được mọi giao dịch, tạo nền tảng cho công tác 
quản lý thu nhập của xã hội, quản lý thuế của Nhà nước, thực hiện chính sách quản lý 
ngoại hối quốc gia 
* Đối với Ngân hàng 
- Đa dạng hóa các loại hình dịch vụ ngân hàng 
Thẻ ra đời mang đến 1 phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt mới hiện đại, đa 
tiện ích, thoả mãn tốt nhất nhu cầu của khách hàng. Việc phát triển dịch vụ phát hành và 
thanh toán thẻ ngân hàng có thêm cơ hội để phát triển các dịch vụ khác như đầu tư hoặc 
bảo hiểm cho các sản phẩm. 
- Gia tăng thu nhập cho ngân hàng 
Thu nhập mà ngân hàng có được từ việc phát triển dịch vụ thẻ đó là phí sử dụng thẻ, lãi 
suất cho khoản tín dụng mà chủ thẻ chậm thanh toán. Ngoài ra, khi sử dụng thẻ, khách 
hàng phải mở tài khoản và sử dụng các dịch vụ kèm theo, làm gia tăng doanh thu cho 
ngân hàng từ các dịch vụ kèm theo này. 
- Tạo khả năng cung cấp dịch vụ toàn cầu: là thành viên của tổ chức thẻ quốc tế, các 
ngân hàng cũng có thể cung cấp cho khách hàng 1 phương tiện thanh toán quốc tế có 
chất lượng, giúp ngân hàng tham gia vào quá trình thanh toán toàn cầu hoá, hội nhập với 
cộng đồng quốc tế. 
- Tạo nguồn vốn với chi phí rẻ cho ngân hàng: Khi sử dụng thẻ, các khách hàng phải mở 
tài khoản tại ngân hàng và duy trì 1 số dư nhất định trên tài khoản tiền gửi, số dư trên tài 
khoản tiền gửi này chỉ được hưởng lãi không kỳ hạn, thêm vào đó, với lượng giao dịch 
thẻ ngày 1 nhiều, sẽ góp phần tạo nền nguồn vốn lớn với giá rẻ cho ngân hàng. 
* Đối với người sử dụng thẻ 
Công dụng nổi bật cho người sử dụng thẻ là sự tiện lợi và tính linh loạt hơn hẳn các 
phương tiện thanh toán khác. 
Với thẻ thanh toán, chủ thẻ có thể tiết kiện thời gian mua hàng và giá trị thanh toán cao 
hơn nhờ được cấp tín dụng tự động, với thẻ tin dụng, chủ thẻ được phép chi tiêu trước 
trả tiền sau, tài khoản của thẻ chỉ bị ghi nợ khi nào chủ thẻ thực sự chi tiêu và thanh toán 
bằng thẻ. Thêm nữa, tỷ giá khi thanh toán bằng thẻ cũng thường có lợi hơn so với sử 
dụng tiền mặt hay Séc du lịch. 
Chủ thẻ có thể rút tiền mặt ở bất cứ nơi nào, vào bất cứ lức nào tại ngân hàng hay máy 
rút tiền tự động (ATM) và sử dụng 1 số dịch vụ khách do máy ATM cung cấp như: trả 
nợ vay, chuyển khoản, xem số dư tài khoản... Không những vậy, với bảng sao kê hàng 
tháng do ngân hàng gửi đến, chủ thẻ có thể kiếm soát được chi tiêu của mình trong 
tháng, đồng thời tính toán được phí và lãi nếu có phải trả cho mỗi khoản giao dịch 
Ngoài ra, thẻ còn là phương tiện hữu dụng, gọn nhẹ, an toàn cho nững người đi công 
tác, học tập ở nước ngoài mà không cần mang theo tiền mặt hay séc du lịch. 
* Đối với đơn vị chấp nhận thẻ 
Việc chấp nhận thanh toán bằng thẻ đã mang lại cho đơn vị bán hàng nhiều công dụng 
hơn so với hình thức thanh toán khác 
Một là, đảm bảo an toàn, giảm chi phí bán hàng, tiết kiệm thời gian giao dịch: 
Thông qua việc thanh toán tự động và ghi Có vào tài khoản ngân hàng, các đơn vị chấp 
nhận thẻ đã tiết kiệm thời gian giao dịch và giảm được các chi phí trong việc kiểm đếm, 
bảo quản tiền, ghi chép sổ sách, ....Ngoài ra, đơn vị chấp nhận thẻ được ngân hàng cung 
cấp và bảo quản miễn phí các máy móc thiết bị thanh toán thẻ. 
Hai là, tăng nhanh khả năng sử dụng vốn: Khi dữ liệu về giao dịch thẻ được truyền đến 
ngân hàng hoặc đơn vị chấp nhận thẻ nộp hoá đơn thanh toán thẻ cho ngân hàng thì tài 
khoản của đơn vị chấp nhận thẻ được ghi Có ngay, số tiền này họ được tính lãi suất tiền 
gửi và có thể sử dụng linh hoạt để quay vòng vốn cho các mục đích sử dụng khác. 
Ba là, nâng cao khả năng cạnh tranh: chấp nhận thanh toán thẻ là cung cấp cho khách 
hàng 1 phương tiện thanh toán nhanh chóng tiện lợi, do vậy khả năng thu hút khách 
hàng sẽ tăng lên, doanh số cung ứng hàng hoá dịch vụ của đơn vị chấp nhận thẻ cũng 
tăng lên. Do đó, thẻ thanh toán tạo cho đơn vị chấp nhận thẻ 1 khả năng cạnh tranh lớn 
hơn so với các đối thủ khác. 
Chương 2: THỰC TRẠNG 
PHÁT TRIỂN THẺ THANH TOÁN Ở VIỆT NAM 
1. Tính tất yếu của việc liên kết thẻ thanh toán ở Việt Nam 
* Mục tiêu tổng thể 
Đề án thanh toán không sử dụng tiền mặt, được đặt trong mối quan hệ với kế hoạch phát 
triển kinh tế - xã hội theo kế hoạch 5 năm 2006 - 2010 của Chính phủ và phù hợp với Đề 
án phát triển ngành ngân hàng đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 ở Việt Nam, 
nhằm tạo sự chuyển biến mạnh về chất và lượng trong thanh toán không dùng tiền mặt 
với các mục tiêu: đáp ứng nhu cầu thanh toán của nền kinh tế với các phương tiện thanh 
toán không dùng tiền mặt an toàn, hiệu quả, sử dụng thuận tiện, có khả năng từng bước 
thay thế tiền mặt trong lưu thông; tăng cường năng lực cạnh tranh của các tổ chức cung 
ứng dịch vụ thanh toán trên thị trường; góp phần thực thi có hiệu quả chính sách tiền tệ 
quốc gia; nâng cao hiệu quả giám sát của các cơ quan quản lý nhà nước, minh bạch hóa 
nền kinh tế, góp phần tích cực vào công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí; thúc đẩy 
đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam; đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. 
Phấn đấu đạt được môi trường thanh toán hiện đại, an toàn, hiệu quả và vững chắc về cơ 
sở pháp lý ở Việt Nam vào năm 2020. 
- Một số chỉ tiêu về hoạt động thanh toán đến năm 2020 
- Đến cuối năm 2010 đạt mức phát hành 15 triệu thẻ, 70% các trung tâm thương mại, siêu 
thị, nhà hàng, khách sạn, cửa hàng tự chọn v.v... lắp đặt các thiết bị chấp nhận thanh toán 
thẻ. Phấn đấu đến năm 2020 con số này đạt lần lượt là 30 triệu thẻ và 95%. 
- Đến năm 2010 tỷ lệ tiền mặt/tổng phương tiện thanh toán không quá 18%. Đến năm 
2020 tỷ lệ này phấn đấu khoảng 15%. 
- Đạt mức 20 triệu tài khoản cá nhân vào cuối năm 2010; 70% cán bộ hưởng lương ngân 
sách và 50% công nhân lao động trong khu vực doanh nghiệp, tư nhân thực hiện trả 
lương qua tài khoản. Đến năm 2020 đưa những con số này lên lần lượt là 45 triệu tài 
khoản cá nhân (bình quân mỗi người có 0.5 tài khoản - ở một số nước phát triển mỗi 
người hiện có hơn 1 tài khoản); 95% cán bộ hưởng lương ngân sách và 80% lao động 
được trả lương qua tài khoản. 
- Đạt mức 80% các khoản thanh toán giữa các doanh nghiệp với nhau thực hiện qua tài 
khoản tại Ngân hàng đến cuối năm 2010 và đạt 95% đến năm 2020. 
 * Định hướng phát triển thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam đến năm 2020 
- Phát triển thanh toán không dùng tiền mặt phải phù hợp với trình độ phát triển của nền 
kinh tế, hạ tầng kỹ thuật công nghệ và hệ thống thanh toán. Các giải pháp xây dựng trong 
Đề án không mang tính hành chính, áp đặt, gây tác động tiêu cực kìm hãm sự phát triển 
các hoạt động kinh tế - xã hội; 
- Phát triển thanh toán không dùng tiền mặt đặt trong mối quan hệ cân bằng giữa lợi ích 
chung của cộng đồng và lợi ích của người sử dụng dịch vụ thanh toán, của các tổ chức 
cung ứng dịch vụ thanh toán; những biện pháp hỗ trợ của Nhà nước chỉ mang tính chất 
ngắn hạn,