Trên thế giới hiện nay đã và đang có rất nhiều quốc gia đẩy mạnh hoạt động ứng dụng CNTT vào công tác quản lý cư trú và đã đem lại những kết quả tích cực, quan trọng và nhiều quốc gia coi đây là yếu tố chủ lực của công tác quản lý cư trú. Đó là hướng đi mà không chỉ Việt Nam mà các nước chưa áp dụng cần nhanh chóng nghiên cứu, vận dụng vào thực tiễn của quốc gia mình.
Cùng với xu thế quốc tế hóa nền kinh tế thế giới và những thành tựu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hòa trong tình hình chung của cả nước trong những năm qua quận Đống Đa đã có những thay đổi nhanh chóng, theo đó các hoạt động cư trú, thay đổi nơi cư trú của người dân trong địa bàn quận, hoạt động đi lại làm ăn của người dân ở các quận huyện khác, người ngoại tỉnh và người nước ngoài tới làm ăn, sinh sống, bên cạnh đó còn có một bộ phận lớn học sinh, sinh viên tới học tập, tạm trú trên địa bàn. Do vậy đòi hỏi chúng ta phải có sự quản lý chặt chẽ và thường xuyên hơn. Tuy nhiên nếu vẫn duy trì áp dụng các phương pháp quản lý cũ mà chậm ứng dụng CNTT vào phục vụ cho công tác quản lý cư trú thì sẽ gặp rất nhiều khó khăn, vất vả, hiệu quả công tác không đáp ứng kịp tình hình.
Trong những năm gần đây, thấy được vai trò, tác dụng to lớn của hoạt động ứng dụng CNTT vào công tác quản lý cư trú Quốc hội, Chính phủ, Bộ Công an, UBND và lãnh đạo Công an các cấp đã ban hành nhiều văn bản pháp lý chỉ đạo công tác ứng dụng CNTT vào hoạt động của bộ máy nhà nước nói chung và phục vụ công tác quản lý cư trú nói riêng. Trên địa bàn quận Đống Đa, hoạt động này đã mang lại những hiệu quả đáng khích lệ, tuy vậy cho tới nay vẫn còn mang tính giản đơn là khai thác các giá trị cơ bản do CNTT mang lại nên chưa thực sự phát huy hết được những giá trị của nó mang lại, mặt khác đến nay tại các đơn vị thực hiện chức năng quản lý cư trú thuộc Công an quận Đống Đa vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn về mọi mặt.
Từ những vấn đề trên cho thấy cần thiết phải đưa ra các dự báo sát thực với tình hình và tìm ra các giải pháp cần thực hiện trong thời gian tới.
18 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2730 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác quản lý cư trú theo chức năng của lực lượng cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHƯƠNG 2
GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN VÀO CÔNG TÁC QUẢN LÝ CƯ TRÚ THEO CHỨC NĂNG CỦA LỰC LƯỢNG CẢNH SÁT QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH VỀ TRẬT TỰ XÃ HỘI
1. Dự báo một số tình hình liên quan tới hoạt động ứng dụng Công nghệ thông tin vào công tác quản lý cư trú trên địa bàn quận Đống Đa.
1.1. Cơ sở đưa ra dự báo.
Trên thế giới hiện nay đã và đang có rất nhiều quốc gia đẩy mạnh hoạt động ứng dụng CNTT vào công tác quản lý cư trú và đã đem lại những kết quả tích cực, quan trọng và nhiều quốc gia coi đây là yếu tố chủ lực của công tác quản lý cư trú. Đó là hướng đi mà không chỉ Việt Nam mà các nước chưa áp dụng cần nhanh chóng nghiên cứu, vận dụng vào thực tiễn của quốc gia mình.
Cùng với xu thế quốc tế hóa nền kinh tế thế giới và những thành tựu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hòa trong tình hình chung của cả nước trong những năm qua quận Đống Đa đã có những thay đổi nhanh chóng, theo đó các hoạt động cư trú, thay đổi nơi cư trú của người dân trong địa bàn quận, hoạt động đi lại làm ăn của người dân ở các quận huyện khác, người ngoại tỉnh và người nước ngoài tới làm ăn, sinh sống, bên cạnh đó còn có một bộ phận lớn học sinh, sinh viên tới học tập, tạm trú trên địa bàn. Do vậy đòi hỏi chúng ta phải có sự quản lý chặt chẽ và thường xuyên hơn. Tuy nhiên nếu vẫn duy trì áp dụng các phương pháp quản lý cũ mà chậm ứng dụng CNTT vào phục vụ cho công tác quản lý cư trú thì sẽ gặp rất nhiều khó khăn, vất vả, hiệu quả công tác không đáp ứng kịp tình hình.
Trong những năm gần đây, thấy được vai trò, tác dụng to lớn của hoạt động ứng dụng CNTT vào công tác quản lý cư trú Quốc hội, Chính phủ, Bộ Công an, UBND và lãnh đạo Công an các cấp đã ban hành nhiều văn bản pháp lý chỉ đạo công tác ứng dụng CNTT vào hoạt động của bộ máy nhà nước nói chung và phục vụ công tác quản lý cư trú nói riêng. Trên địa bàn quận Đống Đa, hoạt động này đã mang lại những hiệu quả đáng khích lệ, tuy vậy cho tới nay vẫn còn mang tính giản đơn là khai thác các giá trị cơ bản do CNTT mang lại nên chưa thực sự phát huy hết được những giá trị của nó mang lại, mặt khác đến nay tại các đơn vị thực hiện chức năng quản lý cư trú thuộc Công an quận Đống Đa vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn về mọi mặt.
Từ những vấn đề trên cho thấy cần thiết phải đưa ra các dự báo sát thực với tình hình và tìm ra các giải pháp cần thực hiện trong thời gian tới.
1.2. Dự báo tình hình cư trú trên địa bàn quận Đống Đa.
Cùng với những đổi thay mạnh mẽ về mọi mặt của đất nước, thành phố Hà Nội vừa mới mở rộng địa giới hành chính, quận Đống Đa là một trong những quận nội thành với đặc điểm đất chật, người đông; các hoạt động giao thương, buôn bán, đi lại… của người dân ngày càng sôi động và trở nên thường xuyên hơn do đó tình hình cư trú trên địa bàn quận Đống Đa sẽ tiếp tục có những diễn biến phức tạp. Nhu cầu thay đổi về chổ ở, làm hộ khẩu, nhập hộ khẩu, tách khẩu của người dân cũng sẽ tăng lên. Người ngoại tỉnh, người nước ngoài tới làm ăn, sinh sống, đặc biệt là người từ các tỉnh lân cận đổ về Hà Nội làm ăn có tính chất thời vụ sẽ có xu hướng tăng nhanh. Các trường Đại học, Cao đẳng, Trung cấp chuyên nghiệp ngày càng mở rộng quy mô đào tạo, số lượng học sinh, sinh viên từ các địa phương khác tới học tập, tạm trú trên địa bàn tăng lên; Đời sống vật chất ngày càng được cải thiện nên nhu cầu du lịch, thăm quan của người dân thập phương tới các địa điểm thăm quan tại các di tích văn hóa, lịch sử trên địa bàn quận cũng ngày một tăng do đó số lượng người tạm vắng, tạm trú và lưu trú trên địa bàn quận cũng sẽ ngày càng nhiều hơn.
1.3. Dự báo tình hình ứng dụng CNTT vào công tác quản lý cư trú.
Cùng với xu hướng chung của các nước trên thế giới, một số đơn vị trên cả nước đã bước đầu thực hiện thí điểm thành công về ứng dụng CNTT vào việc khai báo lưu trú, quản lý hộ khẩu qua mạng internet, với những kết quả bước đầu do hoạt động ứng dụng CNTT vào công tác quản lý cư trú trên địa bàn quận Đống Đa mang lại, và xuất phát các tình hình hoạt động cư trú của người dân trên địa bàn ngày càng trở nên phức tạp và những văn bản pháp lý chỉ đạo hoạt động này của Quốc hội, Chính phủ, UBND và lãnh đạo Công an các cấp trong thời gian qua có thể dự báo trong thời gian tới hoạt động ứng dụng CNTT vào công tác quản lý cư trú của Đội Cảnh sát QLHC về TTXH, Công an các phường, trạm trong cả nước và trên địa bàn quận sẽ ngày càng được tăng cường chỉ đạo, đầu tư thực hiện về mọi mặt, những giá trị từ hoạt động này mang lại sẽ ngày càng có ý nghĩa to lớn hơn.
Trong cả nước các đơn vị khác cũng sẽ không ngừng tăng cường phát triển lĩnh vực này và tăng cường quan hệ hợp tác, trao đổi với nhau trong quá trình vận hành, khai thác các phần mềm ứng dụng CNTT vào công tác quản lý cư trú, tiến tới xây dựng “trung tâm cơ sở dữ liệu dân cư quốc gia” và hoạt động cư trú của người dân sẽ được giám sát, quản lý thống nhất từ cấp Trung ương tới địa phương, đảm bảo vừa tính chặt chẽ nhưng cũng ngày càng thông thoáng, thuận tiện tối đa cho nhân dân.
2. Các giải pháp cụ thể.
2.1. Giải pháp về công tác xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật.
Công tác ứng dụng CNTT vào công tác quản lý cư trú nhất thiết phải được thực thi bằng hệ thống pháp luật cụ thể. Không thể có một địa bàn, một khâu nào có thể tách rời khỏi pháp luật, vì nếu tách rời pháp luật sẽ dẫn tới sự quản lý lỏng lẻo, kém hiệu quả và sai lệch với quan điểm chính sách của Đảng, Nhà nước. Một hệ thống thông tin về quản lý cư trú cho dù được áp dụng công nghệ tiên tiến nhưng không tuân thủ theo hệ thống pháp luật, các quy định trong quá trình vận hành sẽ đồng nghĩa với một hệ thống thiếu định hướng, thiếu thống nhất và thiếu tính pháp lý. Chính vì vậy:
- Chính phủ, lãnh đạo Bộ Công an cần nghiên cứu ban hành các văn bản pháp lý có liên quan đến quản lý cư trú và hoạt động ứng dụng CNTT vào công tác quản lý cư trú để các đơn vị cấp dưới triển khai vào thực tiễn.
+ Đối với Ban chỉ huy Công an quận cần chỉ đạo chặt chẽ quá trình thực hiện các văn bản pháp lý về ứng dụng CNTT vào công tác quản lý đã được ban hành, qua công tác chỉ đạo thực tiễn cần kịp thời tham mưu cho UBND, lãnh đạo công an cấp trên trong xây dựng, ban hành các văn bản mới, sửa đổi, hủy bỏ các nội dung không phù hợp đảm bảo mang lại hiệu quả cao nhất trong quá trình quản lý.
+ Đối với Đội Cảnh sát QLHC về TTXH cần triển khai thực hiện một cách kịp thời, đúng nội dung yêu cầu, đồng thời làm tốt công tác hướng dẫn lực lượng CSKV trong vận dụng triển khai đảm bảo tính thống nhất trong toàn quận.
+ Lực lượng Cảnh sát khu vực phải quán triệt sâu sắc các văn bản chỉ đạo từ cấp trên và chủ động thực hiện nghiêm túc, báo cáo lên chỉ huy Công an cấp trên các vướng mắc trong quá trình ứng dụng CNTT vào công tác quản lý cư trú.
- Hệ thống các văn bản pháp lý khi đã ban hành cần có sự chỉ đạo thực hiện thống nhất từ trên xuống dưới trên các phương diện: quán triệt hệ thống luật pháp, chỉ đạo thực thi, kiểm tra chất lượng hiệu quả công tác và chỉ đạo bổ sung, góp ý, hoàn thiện hệ thống pháp luật thông qua thực tiễn triển khai ứng dụng CNTT về quản lý cư trú. Nội dung chỉ đạo gồm: quy trình triển khai ứng dụng CNTT vào quản lý cư trú theo luật định; cách thức, phương pháp quản lý; nội dung quản lý; thực hiện các chế độ trong công tác quản lý; phương pháp xử lý thông tin về cư trú.
- Bên cạnh việc ban hành và chỉ đạo thực hiện thì công tác kiểm tra cũng là một nội dung rất quan trọng để đảm bảo quá trình thực hiện đi theo quy cũ, đảm bảo đánh giá đúng kết quả do việc ứng dụng CNTT vào công tác quản lý cư trú mang lại những gì đã đạt được, những gì còn thiếu cần bổ sung, những gì không sát với thực tế cần thay đổi hoặc hủy bỏ để lập báo cáo đề xuất lên lãnh đạo cấo trên xin chỉ đạo hướng giải quyết. Qua quá trình kiểm tra cũng nhằm đảm bảo việc phát hiện các sai phạm của cán bộ chiến sỹ trực tiếp làm nhiệm vụ được giao. Công tác kiểm tra cần tập trung trên các nội dung sau: Kiểm tra việc thực hiện công tác đăng ký, quản lý nhân khẩu, hộ khẩu, tình hình tạm trú tạm vắng, các di biến động về hộ khẩu, tình hình các vấn đề về ANTT khác có liên quan; kiểm tra chế độ báo cáo định kỳ; kiểm tra việc thu thập thông tin, chất lượng thông tin; kiểm tra quá trình lưu giữ, xử lý thông tin.
- Định kỳ cần tổ chức các buổi tổng kết rút kinh nghiệm, đánh giá lại những thuận lợi, khó khăn trong quá trình thực hiện, đánh giá các mặt đã đạt được, chưa đạt được; Đồng thời phải làm tốt công tác tham mưu, đưa ra các kiến nghị, đề xuất Lãnh đạo Công an cấp trên, Chính phủ ban hành các văn bản sát với thực tế, đưa ra các quyết sách phù hợp.
2.2. Giải pháp về cơ sở vật chất - kỹ thuật và công nghệ.
2.2.1. Về mặt cơ sở vật chất - kỹ thuật.
Trong thời gian qua do nguồn tài chính và hệ thống cơ sở vật chất - kỹ thuật còn nhiều hạn chế nên đã ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động ứng dụng CNTT vào hoạt động quản lý cư trú. Do đó trong thời gian tới lãnh đạo Công an quận, Đội Cảnh sát QLHC và Công an các phường, trạm cần:
- Trước hết các đơn vị cần nâng cấp hệ thống các cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện có theo hướng những bộ phận nào còn phát huy tốt tác dụng, còn khả năng khai thác thì tiếp tục sử dụng và nâng cấp thêm. Đối với những trang thiết bị, phần mềm đã cũ hoạt động kém hiệu quả thì cần thay mới không để diễn ra tình trạng máy móc, thiết bị và phần mềm quá cũ, chậm được sửa chữa cấp mới gây ách tắc, trở ngại cho quá trình ứng dụng.
- Tập trung đẩy nhanh việc trang bị và tiến hành cấp phát đồng bộ các máy móc, thiết bị hiện đại đáp ứng nhu cầu ngày càng cao trong hoạt động lưu trữ, truyền dẫn, khai thác và xử lý thông tin quản lý. Có thể để các đơn vị tự trang bị thêm nhưng cần thiết phải tiêu chuẩn hóa đảm bảo thống nhất tránh tình trạng mỗi đơn vị, thậm chí trong cùng một đơn vị nhưng sử dụng các thiết bị không đồng nhất gây khó khăn trong việc thực hiện các thao tác đòi hỏi sự thống nhất. Ngoài kinh phí được cấp từ trên xuống các đơn vị cũng cần động viên cá nhân cán bộ, chiến sỹ tự trang bị máy tính xách tay cho riêng mình góp phần phục vụ tốt hơn cho quá trình công tác của từng cá nhân cụ thể. Phải thực hiện chính sách “đi tắt đón đầu” trong ứng dụng các thành tựu của khoa học CNTT vào quản lý cư trú không trang bị máy móc, chương trình phần mềm ứng dụng đã lỗi thời lạc hậu, có như vậy mới tạo cơ hội rút ngắn thời gian, cho phép chúng ta sử dụng tối ưu nguồn nhân lực và phát huy hiệu quả tác dụng của khoa học CNTT.
- Nhà nước và BCA cũng cần có chính sách đầu tư trong lĩnh vực nghiên cứu, chế tạo, thử nghiệm và ứng dụng các thành tựu của khoa học CNTT phục vụ công tác quản lý cư trú, phải đặc biệt chú ý về khả năng tự sản xuất của Việt Nam đây là giải pháp tối ưu vừa giảm chi phí nhập khẩu, vừa tạo cơ sở để chúng ta triển khai trên phạm vi rộng hơn trong thời gian tới.
2.2.2. Về mặt công nghệ.
Việc xác định các loại công nghệ áp dụng cho công tác quản lý cư trú cần dựa vào các tiêu chí cụ thể như: Công nghệ phải phù hợp với cấp quản lý là cấp quận - Đội Cảnh sát QLHC về TTXH và cấp phường, trạm; việc xác định cần căn cứ vào phạm vi, khối lượng thông tin cần quản lý của từng cấp; Phải tính tới năng lực, trình độ của đội ngũ cán bộ chiến sỹ; Tính toán đến khả năng kết nối mạng trong thời gian tới; Tính tới xu hướng chung của việc áp dụng CNTT vào quản lý trong và ngoài ngành, tính ổn định và khả năng mở rộng trong tương lai.
Trong đó cần thực hiện một số nội dung cơ bản sau:
2.2.2.1. Thiết kế, xây dựng phần mềm ứng dụng.
Đây là khâu quan trọng nhất trong các nội dung cần làm. Phần mềm phải được tính toán kỹ theo yêu cầu toàn bộ vấn đề cần quản lý, các nội dung quản lý cụ thể đảm bảo các yêu cầu về mặt khoa học hiệu quả, tính nghiệp vụ và tính thẩm mỹ. Trong thời điểm hiện tại với trình độ chuyên môn về CNTT của cán bộ, chiến sỹ của Công an quận thì chưa thể tự thiết kế, xây dựng mà cần có sự phối hợp với các đơn vị khác như UBND, phòng Khoa học công nghệ để xây dựng, làm các thủ tục đăng ký cấp tài khoản; có thể thuê các chuyên gia bên ngoài cùng tham gia và đề nghị sự phối hợp giúp đỡ của các đơn vị đã triển khai ứng dụng thí điểm thành công.
Việc xây dựng phần mềm cần thiết kế mẫu trước các Modul, biểu mẫu, các ký hiệu chuẩn, phông nền, kiểu chữ… Trong công tác quản lý cư trú có 3 vấn đề cơ bản là quản lý thường trú, tạm trú và lưu trú cần thiết phải tách ra thành 3 nhóm để thiết lập các phần mềm riêng phục vụ việc đi sâu vào chi tiết, hạn chế nhầm lẫn hay nặng chương trình trong quá trình vận hành.
2.2.2.2. Xây dựng hệ thống các biểu mẫu.
Việc xây dựng hệ thống các biểu mẫu có giá trị quan trọng trong tạo ra mẫu chuẫn cho cán bộ vận hành áp dụng cập nhật thông tin vào các danh mục tin như đã thiết kế. Việc tạo ra các biểu mẫu phải định lượng hết các khả năng, các nhu cầu thông tin mà chúng ta cần quản lý đảm bảo sự chặt chẽ, không thiếu nhưng cũng không thừa. Biểu mẫu cần được xây dựng theo hai hệ thống gồm: Hệ thống biểu mẫu trực tiếp trên máy tính và một hệ thống biểu mẫu sẽ được in ra trên giấy phục vụ cho việc khai thác, thu thập thông tin được tiến hành thuận tiện. Tùy thuộc vào các nội dung quản lý cụ thể mà xây dựng các biểu mẫu khác nhau như biểu mẫu về hộ, biểu mẫu về nhân khẩu, biểu mẫu khai báo lưu trú, phiếu yêu cầu tra cứu thông tin.
2.2.2.3. Xây dựng các chuẩn của hệ thống ứng dụng.
Bởi một đòi hỏi quan trọng của việc xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu trên máy tính là tính đúng đắn và chuẩn xác của dữ liệu. Hệ thống CSDL chuẩn sẽ mang lại những lợi ích thiết thực trong việc tìm kiếm, tra cứu, thống kê chính xác phục vụ các nhu cầu nghiệp vụ và góp phần giảm bớt thời gian, tính phức tạp trong quá trình tìm kiếm cho cán bộ vận hành hệ thống cũng như tạo thuận lợi cho việc chia sẽ thông tin chung trên mạng. Để đạt được điều đó hệ thống thông tin CSDL cần tổ chức một hệ thống Từ điển chuyên dùng chứa đựng những thông tin chuẩn. Hệ thống này cung cấp các mã danh mục tin để phục vụ công tác nhập, tra cứu, thống kê các dữ liệu. Trong hệ thống các chuẩn thì cần tập trung xây dựng các chẩn chủ yếu sau:
+ Chuẩn nghiệp vụ: là quá trình xác định và chuẩn hóa tất cả các thông tin, dữ liệu theo các quy định chuẩn của nhà nước và ngành Công an. Đảm bảo các thông tin được bố trí sắp xếp một cách khoa học, không thiếu cũng như không thừa, ví dụ như để thiết lập chuẩn hóa các thông tin về địa chỉ của một nhân khẩu gồm có: Quốc tịch, nơi sinh, nguyên quán, hộ khẩu thường trú, chỗ ở hiện nay, quá trình cư trú…
+ Chuẩn hóa nội dung: cần chuẩn hóa nội dung của từng mục tin bởi cùng một thể hiện một nội dung nhưng có thể có nhiều cách gọi khác nhau. Ví dụ: danh mục nghề nghiệp, có thể có các nghề như: Công an, bộ đội, công nhân, giáo viên,… trong đó có thể cùng một giá trị thông tin nhưng lại có nhiều các viết khác nhau, chẳng hạn cùng nói về “ công nhân” nhưng có nhiều cách viết: công nhân, người làm thuê, người giúp việc… do vậy phải thực hiện một công đoạn kế tiếp là sắp xếp thông tin theo theo thiết kế Modul ban đầu, bước này còn có thể gọi là bước chuẩn hóa tài liệu ví dụ trên có thể chuẩn hóa là: “ công nhân” tránh việc sử dụng lộn xộn, không theo một mẫu thống nhất.
+ Chuẩn mã hóa: Mã hóa là việc quy ước về mã kiểu số hay kiểu chữ cho các giá trị thông tin cụ thể. Việc chuẩn mã hóa sẽ tạo thuận lợi cho vệc tiết kiệm thời gian cập nhật, tìm kiếm, thống kê các thông tin dài và giống nhau ở các đối tượng khác nhau, tránh sự nhầm lẫn, sai sót. Ví dụ: khi xậy dựng hệ thống từ điển trong hệ thống các nghề nghiệp, nghề “Công an” chúng ta gắn mã số là 06, khi nhập các thông tin về một khách lưu trú, nhập tới mục nghề nghiệp với giá trị cần nhập là “Công an” thì chúng ta chỉ cần nhập số 06 là máy tính đã xác định được giá trị đó là “Công an” và tự động hiển thị kết quả.
2.2.2.4. Xây dựng các Modul của hệ thống phần mềm ứng dụng.
+ Modul hệ thống: công tác bảo mật những số liệu đã nhập vào máy có ý nghĩa rất quan trọng, hệ thống thông tin trên máy tính cần được quản lý chặt chẽ nhằm ngăn chặn sự truy nhập của những người không được phép. Việc bảo mật các thông tin trong quá trình nhập liệu, tìm kiếm, thống kê số liệu bằng việc gắn mã, mật khẩu người dùng, mật khẩu này có thể thêm, bớt hoặc xóa. Để thực hiện chức năng này cần thiết kế Modul hệ thống chung cho toàn bộ phần mềm ứng dụng.
+ Modul nhập liệu và cập nhật: Nhập liệu và cập nhật là một yêu cầu quan trọng của quá trình ứng dụng CNTT, nếu hệ thống đã hoàn tất và cập nhật về máy tính nhưng hệ thống Modul nhập liệu, cập nhật vào máy tính không đảm bảo thì sẽ ảnh hưởng tới cả hệ thống và hiệu quả ứng dụng. Hệ thống thông tin được cập nhật dựa trên các biểu mẫu cụ thể. Các biểu mẫu này sẽ chứa đựng các thông tin quản lý cư trú đối với từng cá nhân, chính vì vậy, nếu nội dung các mẫu tờ khai không chính xác thì việc nhập số liệu vào cũng sẽ bị sai. Modul sẽ cho người vận hành cập nhật thuận tiện mọi diễn biến về cư trú của một người bất cứ lúc nào.
+ Modul tra cứu, tìm kiếm: Việc tra cứu và tìm kiếm thông tin về cư trú của công dân là công việc thường xuyên của lực lượng Công an, do đó việc tra cứu, tìm kiếm thông tin cũng là một yêu cầu cần thiết. Trong phần mềm ứng dụng thì Modul tra cứu tìm kiếm sẽ thực hiện nhiệm vụ này. Vì trong hệ thống được thiết kế nhiều CSDL độc lập và có quan hệ với nhau vì vậy có thể lấy thông tin từ một hay một số bảng CSDL. Việc thiết kế Modul này cần xây dựng theo các mức tìm kiếm khác nhau vừa có thể tìm kiếm trong các thư mục nhỏ, vừa có thể tìm kiếm trong các thư mục lớn hơn hoặc trong toàn hệ thống CSDL.
+ Modul thống kê, báo cáo: Thống kê, báo cáo là một yêu cầu cơ bản của công tác quản lý cư trú. Các số liệu đã được cập nhật vào máy tính chính xác, thì chỉ với một số thao tác đơn giản người sử dụng có thể tạo ra một bản thống kê, báo cáo với nội dung đầy đủ và độ tin cậy cao. Ví dụ như thống kê tổng số người lưu trên địa bàn trong một ngày, thống kê những người trong độ tuổi chuẩn bị cấp chứng minh nhân dân…
+ Modul trợ giúp: loại Modul này giúp người sử dụng nắm được những thông tin cần thiết để hiểu về cách vận hành, sử dụng hệ thống phần mềm này, các quy định về việc khai thác tin trong hệ thống CSDL.
2.3. Giải pháp về công tác cán bộ.
Vấn đề cán bộ chiến sĩ có ý nghĩa quyết định tới chất lượng, hiệu quả công tác ứng dụng CNTT vào công tác quản lý cư trú. Do đó trong thời gian tới các đơn vị chuyên môn cần:
- Phải thay đổi nhận thức của cán bộ về khoa học CNTT, và hoạt động ứng dụng nó vào công tác quản lý cư trú. Mỗi cán bộ, chiến sỹ cần nhận thức được ý nghĩa to lớn của việc đổi mới phương pháp làm việc từ cách thức giải quyết công việc chủ yếu trên hồ sơ, giấy tờ bằng việc kết hợp giữa hồ sơ, giấy tờ với ứng dụng CNTT trong đó phải xác định ứng dụng CNTT là chủ yếu và chiến lược lâu dài vào công tác quản lý cư trú. Bản thân mỗi cán bộ cần tích cực tự giác học tập, bồi dưỡng thêm các kiến thức về CNTT, sử dụng khai thác và quản trị mạng, phát hiện được các “lỗ hổng” trong quá trình ứng dụng và tìm ra biện pháp khắc phục. Tích cực, kiên quyết đấu tranh với tư tưởng bảo thủ, chậm đổi mới, chậm ứng dụng khoa học công nghệ vào trong quá trình công tác.
- Rà soát tình hình về cán bộ, thống kê số lượng cán bộ chiến sỹ có trình độ hiểu biết chuyên về CNTT trong đơn vị mình, đánh giá lại nhu cầu về cán bộ trong các đơn vị chuyên môn. Kịp thời đề xuất lãnh đạo Công an cấp trên bổ sung đảm bảo Đội Cảnh sát QLHC về TTXH và mỗi Công an phường đều có cán bộ chuyên môn về CNTT đáp ứng nhu cầu quản lý cư trú trong thực tiễn thông qua các hình thức tuyển chọn cán bộ bên ngoài được đào tạo chính quy về công nghệ thông tin vào công tác trong lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH. Tiếp nhận sinh viên của trường Học viện Cảnh sát nhân dân và Học viện An ninh nhân dân, đã được gửi đi đào tạo tại các trường thuộc khối tự nhiên, kỹ thuật, sinh viên được gửi sang nước ngoài học chuyên về CNTT về công tác tại các đơn vị thuộc Công an quận.
- Cần có chính sách ưu tiên trong công tác đào tạo nâng cao trình độ hiểu biết về CNTT và ứng dụng CNTT vào công tác quản lý cư trú cho đội ngũ cán bộ chiến sỹ, cụ thể: Phối hợp với các trung tâm đào tạo tổ chức các lớp bồi dưỡng kiến thức tin học, tổ chức ch