Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ 21 có những đổi mới đáng kể
trong định hướng và phát triển nền kinh tế theo định hướng XHCN.
Nhằm phát triển và hội nhập nền kinh tế thế giới qua những năm đối
đầu đổi mới nền kinh tế nước ta đã trải qua nhiều thử thách và đã đạt được
một số thành tựu nhất định đáng khích lệ.
Để có được những thành tựu như ngày hôm nay, nền kinh tế nước ta đã
có những thay đổi đáng kể về định hướng và cơ cấu ngành nghề. Bên cạnh sự
thay đổi đó có một nhân tố tác động mạnh mẽ tới sự phát triển của cả nền
kinh tế đó là "ngân hàng". Đây là một trong những yếu tố tác động mạnh tới
sự phát triển của nền kinh tế thông qua chức năng điều chuyển vốn cho nền
kinh tế, nhằm khai thác triệt để những tiềm lực vốn có của cả nền kinh tế về
vốn và các công cụ tài chính.
Thông qua chức năng điều chuyển vốn cho nền kinh tế Nhà nước có thể
dựa vào ngân hàng để điều chỉnh nền kinh tế theo định hướng của mình để tạo
nên một nền kinh tế phát triển vững mạnh về mọi mặt và có định hướng của
XHCN.
Tuy nhiên thông qua chức năng điều chuyển vốn của ngân hàng nó
cũng có một số nhược điểm và gây tác hại cho ngân hàng, đó là rủi ro trong
cho vay, đầu tư của ngân hàng cho các đối tượng của nền kinh tế. Vì vậy công
tác hạn chế và phòng ngừa rủi ro cho vay luôn được các ngân hàng thương
mại quan tâm.
Xuất phát từ tính cấp thiết của vấn đề, sau thời gian thực tập tại Ngân
hàng công thương Thanh Hoá tôi đã quyết định chọn đề tài: "Giải pháp
phòng ngừa và hạn chế rủi ro trong cho vay tại ngân hàng công thương
Thanh Hoá".
56 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 1856 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro trong cho vay tại ngân hàng công thương Thanh Hoá, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
SV: Ng« V¨n Trêng Ng©n hµng 42A 1
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
KHOA
TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG
Đề tài: Giải pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro trong cho
vay tại ngân hàng công thương Thanh Hoá
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
SV: Ng« V¨n Trêng Ng©n hµng 42A 2
Lời nói đầu
Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ 21 có những đổi mới đáng kể
trong định hướng và phát triển nền kinh tế theo định hướng XHCN.
Nhằm phát triển và hội nhập nền kinh tế thế giới qua những năm đối
đầu đổi mới nền kinh tế nước ta đã trải qua nhiều thử thách và đã đạt được
một số thành tựu nhất định đáng khích lệ.
Để có được những thành tựu như ngày hôm nay, nền kinh tế nước ta đã
có những thay đổi đáng kể về định hướng và cơ cấu ngành nghề. Bên cạnh sự
thay đổi đó có một nhân tố tác động mạnh mẽ tới sự phát triển của cả nền
kinh tế đó là "ngân hàng". Đây là một trong những yếu tố tác động mạnh tới
sự phát triển của nền kinh tế thông qua chức năng điều chuyển vốn cho nền
kinh tế, nhằm khai thác triệt để những tiềm lực vốn có của cả nền kinh tế về
vốn và các công cụ tài chính.
Thông qua chức năng điều chuyển vốn cho nền kinh tế Nhà nước có thể
dựa vào ngân hàng để điều chỉnh nền kinh tế theo định hướng của mình để tạo
nên một nền kinh tế phát triển vững mạnh về mọi mặt và có định hướng của
XHCN.
Tuy nhiên thông qua chức năng điều chuyển vốn của ngân hàng nó
cũng có một số nhược điểm và gây tác hại cho ngân hàng, đó là rủi ro trong
cho vay, đầu tư của ngân hàng cho các đối tượng của nền kinh tế. Vì vậy công
tác hạn chế và phòng ngừa rủi ro cho vay luôn được các ngân hàng thương
mại quan tâm.
Xuất phát từ tính cấp thiết của vấn đề, sau thời gian thực tập tại Ngân
hàng công thương Thanh Hoá tôi đã quyết định chọn đề tài: "Giải pháp
phòng ngừa và hạn chế rủi ro trong cho vay tại ngân hàng công thương
Thanh Hoá".
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
SV: Ng« V¨n Trêng Ng©n hµng 42A 3
Mục đích nghiên cứu của chuyên đề này là:
- Nghiên cứu về rủi ro trong cho vay trên phương diện lý thuyết.
- Thông qua thực trạng hoạt động cho vay tại Ngân hàng công thương
Thanh Hoá để đánh giá tình hình rủi ro trong cho vay của chi nhánh.
- Đưa ra một số kiến nghị và đề xuất các biện pháp nhằm hạn chế rủi ro
trong cho vay.
Để giải quyết các vấn đề này thì chuyên đề được trình bày làm 3
chương:
Chương I: Lý luận chung về cho vay và rủi ro trong hoạt động cho vay.
Chương II: Thực trạng cho vay và rủi ro cho vay tại Ngân hàng công
thương Thanh Hoá.
Chương III: Một số giải pháp hạn chế rủi ro cho vay đối với Ngân hàng
công thương Thanh Hoá.
Do kiến thức và trình độ còn hạn chế, bản thân lại chưa trải qua thực tế
nên không tránh được những sai sót. Tôi rất mong được sự góp ý và giúp đỡ
của quý vị. Hoàn thành chuyên đề này tôi xin chân thành cảm ơn sự hướng
dẫn của cô giáo Thạc sĩ Lê Thanh Tâm và các cán bộ phòng kinh doanh Ngân
hàng công thương Thanh Hoá.
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
SV: Ng« V¨n Trêng Ng©n hµng 42A 4
Chương I
Lý luận chung về cho vay và rủi ro trong hoạt động cho vay của Ngân
hàng thương mại
1.1. Ngân hàng và nghiệp vụ cho vay của ngân hàng
1.1.1. Khái quát về ngân hàng thương mại
Trên thế giới, nghề ngân hàng được hình thành từ rất sớm, hình thức sơ
khai của ngân hàng xuất hiện từ thời kỳ tiền tư bản, cùng với thời gian các
hình thức hoạt động của nó ngày càng được thay đổi cho phù hợp với sự phát
triển của sản xuất và trao đổi của hàng hoá. Khi mà nền sản xuất phát triển
hàng hoá được tạo ra nhiều làm nảy sinh quan hệ trao đổi hàng hoá. Khi quan
hệ trao đổi hàng hoá phát triển vượt ra khỏi ranh giới giữa các vùng sử dụng
các loại đồng tiền khác nhau nó làm nảy sinh khó khăn trong thanh toán giữa
các đồng tiền khác nhau. Khi đó, những thương gia giàu có và thông minh
nhất đã nắm được cơ hội này và chuyển sang nghề buôn tiền: Họ thực hiện
các nghiệp vụ về nhận tiền gửi, thu đổi tiền và bảo quản tiền (cho khách hàng)
và có thu phí của người gửi. Cùng với việc nhận tiền gửi các nhà ngân hàng
dần dần còn thực hiện cả nghiệp vụ thanh toán cho khách hàng (người gửi
tiền), nghiệp vụ cho vay nảy sinh khi xuất hiện những người có nhu cầu vay
để mở rộng sản xuất kinh doanh trong khi các nhà ngân hàng lại có sẵn trong
két những khoản tiền lớn không sinh lời. Khi cho vay các nhà ngân hàng được
nhận các khoản trả tiền lãi từ người vay tiền. Chính vì các khoản thu này đã
khuyến khích các ngân hàng muốn nhận được nhiều tiền gửi để cho vay và họ
đã chuyển từ việc thu phí người gửi tiền sang việc miễn phí tiền gửi thậm chí
còn trả cho người gửi tiền một khoản tiền gọi là lãi tiền gửi. Khi mà tồn tại
các nghiệp vụ cho vay, thanh toán và nhận tiền gửi có thể nói ngân hàng đã
được hình thành.
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
SV: Ng« V¨n Trêng Ng©n hµng 42A 5
1.1.1.1. Khái niệm ngân hàng thương mại (NHTM)
Khi nghiên cứu về NHTM các nhà kinh tế đã đưa ra rất nhiều quan
điểm khác nhau về NHTM. Có ý kién cho rằng: "NHTM là tổ chức tài chính
nhận tiền gửi và cho vay", có ý kiến lại cho rằng: "NHTM là trung gian tài
chính có giấy phép kinh doanh của chính phủ để cho vay tiền và mở tài khoản
tiền gửi, kể cả các khoản tiền gửi có thể dùng séc". Sở dĩ có nhiều quan điểm
khác nhau về NHTM là do các nghiệp vụ của ngân hàng rất đa dạng, các thao
tác của từng nghiệp vụ ngân hàng lại phức tạp và vấn đề này luôn biến động
theo sự thay đổi chung của nền kinh tế. Mặt khác do tập quán, luật pháp của
mỗi quốc gia, mỗi vùng khác nhau đã dẫn đến những quan niệm khác nhau về
NHTM.
Còn theo luật ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính của
Việt Nam ban hành ngày 24/5/1990 thì: NHTM là tổ chức kinh doanh tiền tệ
mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với
trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ
chiết khấu và làm phương tiện thanh toán".
Như vậy, NHTM là một doanh nghiệp đặc biệt kinh doanh trên lĩnh
vực tiền tệ. Thông qua nghiệp vụ huy động vốn để cho vay, đầu tư và thực
hiện các nghiệp vụ tài chính khác. Thông qua các nghiệp vụ NHTM đã chứng
tỏ được sự cần thiết của hệ thống ngân hàng trong phát triển nền kinh tế thị
trường, ngân hàng là đòn bảy của nền kinh tế.
1.1.1.2. Các nghiệp vụ chủ yếu của NHTM
- Nghiệp vụ huy động vốn: Đây là nghiệp vụ cơ bản của NHTM. Nó
quyết định quy mô cũng như hiệu quả của các hoạt động khác của NHTM.
NHTM có thể huy động vốn nhàn rỗi của nền kinh tế bằng nhiều hình thức
khác nhau như: nhận tiền gửi của các cá nhân, tổ chức kinh tế, phát hành trái
phiếu, kì phiếu và phát hành các chứng từ tiền hay vay vốn của NHNN hoặc
các tổ chức tín dụng khác.
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
SV: Ng« V¨n Trêng Ng©n hµng 42A 6
Nghiệp vụ huy động vốn của NHTM còn phụ thuộc đáng kể vào vốn tự
có của ngân hàng và những quy định cụ thể của nhà nước về tỉ lệ giữa vốn
chủ sở hữu với vốn huy động thông qua tỉ lệ này NHNN đã hạn chế được một
số rủi ro trong hoạt động của ngân hàng. Theo quy định hiện nay của ngân
hàng nhà nước Việt Nam các NHTM không được phép huy động quá 20 lần
số vốn tự có.
- Nghiệp vụ cho vay và đầu tư: Đây là hoạt động kinh doanh chủ yếu
của các NHTM cũng là hoạt động chủ yếu mang lại thu nhập cho các NHTM.
Để thực hiện nghiệp vụ này NHTM sử dụng phần lớn là số vốn mà ngân hàng
huy động được từ nền kinh tế để cung cấp cho các nhu cầu của nền kinh tế
thông qua hình thức cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, đầu tư chứng
khoán, góp vốn tham gia, hay tự đầu tư vào các dự án mang lại lợi nhuận.
Thông qua các nghiệp vụ này NHTM đã trở thành một trung gian tài
chính hoàn hảo. Nó đã điều chuyển vốn cho nền kinh tế từ nơi có vốn sang
nơi cần vốn thông qua đó thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh hơn và sâu
hơn. Thông qua các nghiệp vụ này ngân hàng làm cho tốc độ lưu thông tiền tệ
tăng mạnh, nó góp phần đẩy nhanh qt sản xuất kinh doanh và lưu thông hàng
hoá. Bên cạnh đó nó còn tác động tới lượng tiền mặt trong lưu thông cùng với
chi phí lưu thông giảm một cách đáng kể và tận dụng được những nguồn vốn
nhàn rỗi một cách tối đa thông qua đó còn thực thi được chính sách tiền tệ
quốc gia.
Có thể nói hoạt động tín dụng là hoạt động quan trọng của NHTM (chủ
yếu hoạt động cho vay). Hoạt động này nó có liên quan mật thiết với các
ngành, lĩnh vực, đối tượng mà ngân hàng cấp tín dụng. Do vậy rủi ro trong
hoạt động cho vay của các NHTM là rủi ro tiềm ẩn từ tất cả các ngành nghề
các lĩnh vực mà ngân hàng cho vay. Chính vì vậy việc nghiên cứu rủi ro tín
dụng hay rủi ro trong cho vay là vấn đề cấp bách luôn được các NHTM quan
tâm:
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
SV: Ng« V¨n Trêng Ng©n hµng 42A 7
- Các hoạt động dịch vụ
Ngoài các nghiệp vụ cơ bản trên, NHTM còn thực hiện một số hoạt
động dịch vụ để đáp ứng mọi nhu cầu của khách hàng, nhằm thu hút khách
hàng tới với ngân hàng và để có thêm khoản thu khác ngoài thu từ lãi cho vay.
Các dịch vụ của ngân hàng như:
+Dịch vụ thanh toán hộ
+ Dịch vụ mua bán và môi giới chứng khoán
+ Dịch vụ tư vấn
+ Dịch vụ quản lý tài sản và các chứng từ có giá.
Có thể nói các nghiệp vụ của NHTM có mối quan hệ chặt chẽ với nhau
trong quá trình vận hành của cả bộ máy. Nghiệp vụ huy động vốn là nghiệp
vụ tạo tiền đề cho các nghiệp vụ tín dụng, đầu tư. Thông qua nghiệp vụ tín
dụng, đầu tư mang lại thu nhập cho ngân hàng để tái tạo các nguồn vốn khác.
Còn các dịch vụ khác của ngân hàng nhằm thu hút khách hàng đến với ngân
hàng tạo điều kiện cho việc mở rộng huy động vốn và mở rộng thị trường
kinh doanh của NHTM. Tuy nhiên nghiệp vụ tín dụng vẫn là nghiệp vụ quan
trọng nhất. Vì nghiệp vụ này nó quyết định đến cả một qt kinh doanh của
ngân hàng đó là lợi nhuận.
1.1.2. Nghiệp vụ cho vay của NHTM
1.1.2.1. Khái niệm về cho vay
Cho vay là một quan hệ giao dịch giữa hai chủ thể trong đó một bên
chuyển giao tiền cho bên kia sử dụng trong một thời gian nhất định, đồng thời
bên nhận tiền cam kết hoàn trả cả gốc và lãi khi đến hạn.
Cho vay là một trong những nghiệp vụ chủ yếu của ngân hàng khi thực
hiện tín dụng ngân hàng. Đây là nghiệp vụ chủ yếu khi ngân hàng quyết định
cấp tín dụng cho khách hàng và cũng là nghiệp vụ mang về thu nhập chủ yếu
cho ngân hàng. Tuy nhiên, đây cũng là hoạt động chứa đựng nhiều rủi ro tiềm
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
SV: Ng« V¨n Trêng Ng©n hµng 42A 8
ẩn có thể xảy ra với ngân hàng. Do vậy các NHTM luôn phải quan tâm tới rủi
ro trong cho vay nhằm hạn chế tối đa rủi ro tín dụng xảy ra đối với ngân hàng.
1.1.2.2. Phân loại cho vay
- Cho vay thầu chi: là nghiệp vụ cho vay qua đó ngân hàng cho phép
người vay được chi vượt trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới
hạn xác định trong khoảng thời gian xác định, giới hạn này gọi là hạn mức
thầu chi.
Hình thức cho vay này tạo điều kiện thuận lợi cho những khách hàng có
khoản thu chi không phù hợp về thời gian và quy mô thuận lợi trong quá trình
thanh toán nhanh và giúp khách hàng kịp thời.
Hình thức thầu chi là hình thức tín dụng ngắn hạn, thủ tục đơn giản,
thường những khoản vay thầu chi là không có tài sản đảm bảo. Hình thức này
cho vay chỉ với các khách hàng có độ tin cậy cao, thu nhập đều đặn.
- Cho vay trực tiếp từng lần:
Là hình thức cho vay tương đối phổ biến của ngân hàng đối với các
khách hàng không có nhu cầu vay vốn thường xuyên, không có điều kiện để
được cấp hạn mức thầu chi. Hình thức cho vay này tương đối đơn giản về thủ
tục và có thể kiểm soát được các khoản cho vay. Hình thức này an toàn hơn
hình thức thầu chi.
- Cho vay theo hạn mức tín dụng:
Đây là hình thức cho vay theo đó ngân hàng thoả thuận cấp cho khách
hàng hạn mức tín dụng. Hạn mức này có thể tính cho cả kì hoặc cuối kì. Đólà
số dư tối đa tại thời điểm tính.
Hình thức cho vay này tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng về nhu
cầu vốn khi cần thiết sẽ được ngân hàng giải quyết cho vay một cách nhanh
chóng giúp khách hàng chớp được thời cơ trong kinh doanh. Ngân hàng dựa
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
SV: Ng« V¨n Trêng Ng©n hµng 42A 9
vào cơ sở kế hoạch sản xuất kinh doanh và nhu cầu vốn của khách hàng để
cấp cho khách hàng những hạn mức phù hợp.
Bên cạnh những thuận lợi cho khách hàng thì về phía ngân hàng gặp
một số khó khăn trong khâu quản lý nguồn vốn và hiệu quả sử dụng vốn của
từng lần vay.
- Cho vay luân chuyển
Là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển hàng hoá. Ngân hàng cấp
tín dụng cho khách hàng khi có nhu cầu về vốn để mua hàng hoá, và sẽ thu
vốn về khi khách hàng bán được hàng. Hình thức cho vay này đơn giản thuận
lợi cho khách hàng về thời gian và thủ tục.
- Cho vay trả góp:
Là hình thức tín dụng theo đó ngân hàng cho phép khách hàng trả gốc
làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thoả thuận.
Hình thức này thường được áp dụng đối với các khoản vay trung và dài
hạn, tài trợ cho tài sản cố định.
Cho vay trả góp chứa đựng rủi ro cao do khách hàng thường thế chấp
bằng hàng hoá mua trả góp. Khả năng trả nợ phụ thuộc vào thu nhập của ngời
vay do đó lãi suất của hình thức này thường cao hơn lãi suất thông thường.
- Cho vay gián tiếp:
Đây là hình thức cho vay thông qua các tổ chức trung gian. Các tổ chức
có thể đứng ra bảo lãnh cho các thành viên trong nhóm vay khi mà các thành
viên không có tài sản thế chấp. Qua hình thức cho vay này ngân hàng có thể
mở rộng thị trường và qua hình thức này ngân hàng hỗ trợ phát triển kinh tế
cho các hộ nghèo không có điều kiện vay vốn của ngân hàng trực tiếp.
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
SV: Ng« V¨n Trêng Ng©n hµng 42A 10
1.1.2.3. Vai trò của hàng hoá cho vay đối với nền kinh tế
Hoạt động cho vay của ngân hàng có vai trò rất quan trọng đối với nền
kinh tế. Nó là đòn bảy kinh tế phục vụ cho quá trình sản xuất và lưu thông
hàng hoá bởi đặc trưng cơ bản của tín dụnglà sự vận động dựa trên cơ sở hoàn
trả và có lợi tức. Thông qua nghiệp vụ này nhà nước có thể điều chỉnh sự phát
triển cơ cấu ngành nghề của cả nền kinh tế và thúc đẩy sự ra đời của các thành
phần kinh tế theo định hướng của đất nước.
Thông qua nghiệp vụ cho vay của các NHTM nó đã thúc đẩy nền kinh
tế phát triển cả về chiều sâu và chiều rộng. Nó tác động trực tiếp tới từng
ngành nghề tới công nghệ, máy móc trang thiết bị phục vụ cho quá trình công
nghiêp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Trong lĩnh vực lưu thông, để đảm bảo đưa được hàng hoá từ người sản
xuất đến người tiêu dùng, các doanh nghiệp cần có vốn để dự trữ khối lượng
hàng hoá cần thiết để trang trải các chi phí. Hơn nữa để mở rộng sản xuất kinh
doanh các doanh nghiệp cần phải dự trữ khối lượng hàng hoá lớn với chủng
loại phong phú, nhưng thông thường các doanh nghiệp này không có nhiều
vốn lưu động vì vậy để tồn tại và phát triển các doanh nghiệp này cần có sự
hỗ trợ của tín dụng ngân hàng.
Còn với các doanh nghiệp dịch vụ như vận tải, khách sạn, du lịch sẽ
hoạt động ra sao khi không có vốn của ngân hàng tham gia vào đầu tư xây
dựng trang thiết bị vật chất phương tiện vận tải. Do đó hầu hết các doanh
nghiệp đều cần tới tín dụng ngân hàng.
Nói chung một trong những nguồn vốn quan trọng để bổ xung vốn lưu
động và vốn cố định cho các doanh nghiệp là vốn vay từ ngân hàng vì nếu chỉ
dựa vào vốn tự có thì quá ít ỏi, không đủ sức cạnh tranh và phát triển trong
nền kinh tế thị trường.
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
SV: Ng« V¨n Trêng Ng©n hµng 42A 11
Bên cạnh các yếu tố trên tín dụng ngân hàng còn là một công cụ tài trợ
cho các dự án tạo việc làm, tăng thu nhập, thực hiện các chương trình dự án
mang tính xã hội.
Mặt khác từ hoạt động tín dụng nhà nước có thể kiểm soát các hoạt
động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế để đưa ra các biện pháp chính
sách quản lý kinh tế và pháp lý phù hợp. Nhà nước có thể điều chỉnh nền kinh
tế theo chính sách tín dụng như chính sách ưu đãi về lãi suất và các điều kiện
cho vay khác cho các doanh nghiệp đầu tư sản xuất theo mục tiêu của nhà
nước.
- Để phát huy tốt những ưu điểm của tín dụng đối với nền kinh tế quốc
dân thì các ngân hàng luôn phải đảm bảo an toàn trong hoạt động tín dụng.
1.2. Rủi ro trong hoạt động cho vay của NHTM
1.2.1. Khái niệm về rủi ro
Rủi ro cho vay là khả năng xảy ra những tổn thất mà ngân hàng phải
chịu do khách hàng vay không trả đúng hạn, không trả, hoặc không trả đầy đủ
vốn và lãi.
Khi ngân hàng thực hiện hoạt động cho vay cụ thể thì trong hoạt động
đó luôn hàm chứa rủi ro tiềm ẩn, rủi ro này nó sẽ làm giảm khoản thu nhập
của ngân hàng. Do đó trong hoạt động quản lý toàn bộ ngân hàng luôn xác
định một tỷ lệ tổn thất dự kiến nhằm hạn chế mức tối thiểu các thiệt hại về tài
sản do các rủi ro cho vay gây ra.
1.2.2. Các hình thức rủi ro cho vay
Theo khái niệm về rủi ro tín dụng thì rủi ro tín dụng được chia thành
các hình thức sau:
- Không thu được lãi đúng hạn
Lúc này ngân hàng sẽ chuyển số lãi đó vào khoản mục lãi treo phát
sinh. Hình thức rủi ro này được xếp vào mức rủi ro thấp.
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
SV: Ng« V¨n Trêng Ng©n hµng 42A 12
- Không thu được vốn đúng hạn
Khi không thu được vốn đúng hạn thì tình hình sử dụng vốn bị ảnh
hưởng và ảnh hưởng tới tính thanh khoản của tài sản. Hình thức này gây rủi
ro lớn trong nhiệm vụ đảm bảo thanh khoản và tình hình sinh lời của tài sản.
- Không thu đủ lãi
Khi ngân hàng không thu được đủ lãi thì tình hình đã trở nên nghiêm
trọng. Tình hình kinh doanh của khách hàng có thể đã gặp khó khăn không
hiệu quả trong việc sử dụng vốn. Lúc này ngân hàng cần có những biện pháp
hỗ trợ khách hàng như giảm lãi, tư vấn cho khách hàng hoặc có thể cung cấp
thêm những khoản tín dụng cần thiết cho khách hàng nếu dự án đang đầu tư là
khả thi.
- Không thu đủ vốn cho vay
Khi ngân hàng không thu đủ vốn cho vay tại thời điểm này, ngân hàng
sẽ chuyển khoản nợ vào mục nợ không có khả năng thu hồi hoặc phải xoá nợ.
Trên đây là bốn hình thức rủi ro cho vay có thể xảy ra đối với các ngân
hàng. Qua nghiên cứu để nhận biết và các biện pháp xử lý rủi ro một cách có
hiệu quả nhất.
1.2.3 Các chỉ tiêu đo lường rủi ro trong cho vay
- Nợ quá hạn và tỉ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ
Nợ quá hạn là khoản nợ mà khách hàng không trả được khi đã đến hạn
thoả thuận ghi trên hợp đồng tín dụng.
Chỉ tiêu này ảnh hưởng đáng kể tới tính thanh khoản và rủi ro thanh
khoản của ngân hàng, ảnh hưởng tới chi phí gia tăng làm giảm thu nhập của
ngân hàng.
- Nợ khó đòi và tỷ lệ nợ khó đòi trên tổng dư nợ
Nợ khó đòi là khoản nợ quá hạn đã qua một kỳ gia hạn nợ.
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
SV: Ng« V¨n Trêng Ng©n hµng 42A 13
Những khoản nợ này ngân hàng phải có những biện pháp thích hợp để
thu lại tiền vay sao cho hợp lý nhất. Bởi vì các khoản nợ này hi vọng thu lại
tiền vay là khó, lúc này khả năng chi trả của khách hàng hạn hẹp. Loại nợ này
chứa đựng rủi ro cao và thường mang lại tổn thất cho ngân hàng.
1.2.4. ảnh hưởng của rủi ro cho vay đối với ngân hàng
1.2.4.1. Rủi ro cho vay làm giảm doanh thu của ngân hàng
Những khoản cho vay gặp rủi ro gây cho ngân hàng những thiệt hại về
mặt tài sản khi không thu được vốn và lãi trực tiếp làm giảm doanh thu của
ngân hàng. Còn trong trường hựop ngân hàng thu được lãi treo hay nợ quá
hạn thì cũng ảnh hưởng tới tính thanh toán và rủi ro thanh khoản của ngân
hàng do đó ảnh hưởng tới doanh thu của ngân hàng.
1.2.4.2. Rủi ro cho vay làm giảm khả năng thanh toán của ngân hàng
Rủi ro cho vay nó đã ảnh hưởng tới việc hoàn trả tiền gửi của ngân
hàng gặp nhiều khó khăn. Các khoản đầu tư, cho vay thu hồi chậm hoặc
không thu hồi được trong khi đó ngân hàng vẫn phải trả vốn huy động một
cách đều đặn cả vốn, lãi đúng kỳ hạn. Chính vì thế nó đã làm hạn chế khả
năng thanh toán của ngân hàng.
1.2.4.3. Rủi ro cho vay làm giảm uy tín của ngân hàng
Rủi ro cho vay làm giảm uy tín của ngân hàng và khả năng kinh doanh
của ngân hàng. Ngân hàng nào gặp nhiều rủi ro là ngân hàng hoạt động kém
hiệu quả. Điều này tác động mạnh tới uy tín của ngân hàng làm cho lòng tin
của khách hàng vào ngân hàng bị giảm.