Trong dân gian đã có câu “vô phúc đáo tụng đình”; song lại có câu “dĩ hòa vĩ quý”. Vì vậy hòa giải đã trở thành một truyền thống tốt đẹp, rất đáng khuyến khích để giải quyết những mâu thuẫn tranh chấp trong đời sống xã hội. Trong pháp luật tố tụng dân sự, hòa giải đã trở thành hoạt động tố tụng có tính bắt buộc đối với hầu hết các vụ án dân sự. Thông qua hòa giải, Tòa án giúp đỡ các đương sự tự nguyện thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án phù hợp quy định của pháp luật, rút ngắn quá trình tố tụng, nâng cao hiệu quả giải quyết các vụ án dân sự.
Văn bản pháp luật đầu tiên quy định về hòa giải là Sắc lệnh số 13 ngày 21/1/1946 về tổ chức Tòa án. Sau đó, hòa giải tiếp tục được kế thừa và phát triển trong hàng loạt các văn bản pháp luật sau đó: Sắc lệnh 85/SL ngày 22/5/1950 về cải cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng; Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 1960; Thông tư số 25-TATC hướng dẫn việc hòa giải trong tố tụng dân sự.PLTTGQCVADS năm 1989 và BLTTDS 2004
Kế thừa có chọn lọc các quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự (PLTTGQCVADS) không thể phủ nhận về tính hoàn thiện và sự phát triển đúng đắn của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 (BLTTDS). Tuy nhiên, qua thực tiễn thi hành BLTTDS trong những năm qua cho thấy một số quy định của BLTTDS nói chung và của chế định hòa giải nói riêng đã bộc lộ những hạn chế, bất cập; có những quy định còn thể hiện sự không thống nhất với các văn bản quy phạm pháp luật khác; có những quy định chưa phù hợp (hoặc không còn phù hợp) với thực tiễn áp dụng, chưa đầy đủ, thiếu rõ ràng và còn có những cách hiểu khác nhau. cần được sửa đổi.
Với nhận thức như vậy, em đã chọn đề tài “Hòa giải trong tố tụng dân sự - một số vấn đề lý luận và thực tiễn” làm đề tài cho khóa luận tốt nghiệp đại học. Qua quá trình nghiên cứu, em mong muốn tìm hiểu sâu sắc, rộng hơn những quy định của pháp luật, trên cơ sở đó mạnh dạn đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện hơn nữa các quy định của BLTTDS về hòa giải góp phần nâng cao hiệu quả hòa giải trong tố tụng dân sự.
62 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 8066 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hòa giải trong tố tụng dân sự - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong dân gian đã có câu “vô phúc đáo tụng đình”; song lại có câu “dĩ hòa vĩ quý”. Vì vậy hòa giải đã trở thành một truyền thống tốt đẹp, rất đáng khuyến khích để giải quyết những mâu thuẫn tranh chấp trong đời sống xã hội. Trong pháp luật tố tụng dân sự, hòa giải đã trở thành hoạt động tố tụng có tính bắt buộc đối với hầu hết các vụ án dân sự. Thông qua hòa giải, Tòa án giúp đỡ các đương sự tự nguyện thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án phù hợp quy định của pháp luật, rút ngắn quá trình tố tụng, nâng cao hiệu quả giải quyết các vụ án dân sự.
Văn bản pháp luật đầu tiên quy định về hòa giải là Sắc lệnh số 13 ngày 21/1/1946 về tổ chức Tòa án. Sau đó, hòa giải tiếp tục được kế thừa và phát triển trong hàng loạt các văn bản pháp luật sau đó: Sắc lệnh 85/SL ngày 22/5/1950 về cải cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng; Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 1960; Thông tư số 25-TATC hướng dẫn việc hòa giải trong tố tụng dân sự...PLTTGQCVADS năm 1989 và BLTTDS 2004
Kế thừa có chọn lọc các quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự (PLTTGQCVADS) không thể phủ nhận về tính hoàn thiện và sự phát triển đúng đắn của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 (BLTTDS). Tuy nhiên, qua thực tiễn thi hành BLTTDS trong những năm qua cho thấy một số quy định của BLTTDS nói chung và của chế định hòa giải nói riêng đã bộc lộ những hạn chế, bất cập; có những quy định còn thể hiện sự không thống nhất với các văn bản quy phạm pháp luật khác; có những quy định chưa phù hợp (hoặc không còn phù hợp) với thực tiễn áp dụng, chưa đầy đủ, thiếu rõ ràng và còn có những cách hiểu khác nhau... cần được sửa đổi.
Với nhận thức như vậy, em đã chọn đề tài “Hòa giải trong tố tụng dân sự - một số vấn đề lý luận và thực tiễn” làm đề tài cho khóa luận tốt nghiệp đại học. Qua quá trình nghiên cứu, em mong muốn tìm hiểu sâu sắc, rộng hơn những quy định của pháp luật, trên cơ sở đó mạnh dạn đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện hơn nữa các quy định của BLTTDS về hòa giải góp phần nâng cao hiệu quả hòa giải trong tố tụng dân sự.
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của khóa luận là trên cơ sở nghiên cứu, tìm hiểu lý luận và thực tiễn về hòa giải trong tố tụng dân sự, đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật và nâng cao hiệu quả hòa giải các vụ án dân sự.
3. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của khóa luận:
+ Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của hòa giải trong tố tụng dân sự.
+ Quy định của pháp luật về hòa giải trong tố tụng dân sự và thực tiễn áp dụng chế định này trong quá trình giải quyết các vụ án dân sự.
+ Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện chế định hòa giải trong tố tụng dân sự.
- Phạm vi nghiên cứu của khóa luận:
Khóa luận tập trung nghiên cứu những quy định của BLTTDS 2004 về hòa giải và thực tiễn áp dụng chế định này.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của khóa luận
Ý nghĩa khoa học: Khóa luận góp phần làm rõ hơn những vấn đề lý luận và thực tiễn về hòa giải trong tố tụng dân sự.
Ý nghĩa thực tiễn: Khóa luận đề xuất những kiến nghị về hoàn thiện quy định của pháp luật về hòa giải trong tố tụng dân sự.
5. Bố cục của khóa luận
Khóa luận ngoài lời mở đầu và kết luận được chia làm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về hòa giải trong tố tụng dân sự.
Chương 2: Pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện nay về hòa giải trong tố tụng dân sự.
Chương 3: Thực tiễn áp dụng các quy định về hòa giải và kiến nghị.
CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HÒA GIẢI TRONG
TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ Ý NGHĨA CỦA HÒA GIẢI TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.1.1 Khái niệm hòa giải
Tố tụng dân sự có thể được hiểu dưới hai góc độ: Dưới góc độ pháp lý là một ngành luật tố tụng cụ thể còn dưới góc độ hoạt động tố tụng là những hoạt động do các chủ thể tham gia vào quá trình tố tụng dân sự thực hiện. [12]
Dưới góc độ pháp lý, tố tụng dân sự là tổng hợp các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các mối quan hệ phát sinh trong quá trình giải quyết vụ việc về dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh, thương mại và lao động tại Tòa án đảm bảo sự nhanh chóng, chính xác trong quá trình giải quyết và thi hành án, đặt ra các chế tài bảo vệ quyền lợi của nhà nước, của công dân.
Dưới góc độ hoạt động tố tụng thì tố tụng dân sự là một quy trình các thủ tục do pháp luật quy định buộc mọi chủ thể tiến hành và tham gia tố tụng phải thực hiện nhằm giải quyết nhanh chóng, chính xác vụ án dân sự, bảo vệ đúng đắn quyền, lợi ích của nhà nước và của công dân.
Xuất phát từ hai cách tiếp cận đối với tố tụng dân sự nên hòa giải trong tố tụng dân sự cũng có thể nhìn dưới hai góc độ: (1) dưới góc độ hoạt động tố tụng thì hòa giải là hoạt động tố tụng do Tòa án tiến hành và (2) dưới góc độ pháp luật: Hòa giải là một chế định pháp lý.
Để tìm hiểu khái niệm hòa giải trong tố tụng dân sự dưới hai góc độ này, trước tiên ta cần tìm hiểu khái niệm thuật ngữ “hòa giải”.
Theo Từ điển tiếng việt thì hòa giải là “thuyết phục các bên đồng ý chấm dứt xung đột hoặc xích mích một cách ổn thỏa” [17, tr.430]. Khái niệm này đề cập đến hành động và mục đích của hòa giải nhưng chưa nêu được các yếu tố như bản chất, nội dung và chủ thể của hòa giải.
Trong Từ điển pháp lý của Rothenberg, hòa giải (reconciliation) là “hành vi thỏa hiệp giữa các bên sau khi có tranh chấp, mỗi bên nhượng bộ một ít” [16, tr.410]. Còn Từ điển luật học của Black cho rằng, hòa giải là “sự can thiệp; sự làm trung gian hòa giải; hành vi của người thứ ba làm trung gian giữa hai bên tranh chấp nhằm thuyết phục dàn xếp hoặc tranh chấp giữa họ”.[15, tr.152]
Định nghĩa của Rothenberg đã nêu được bản chất của hòa giải nhưng chưa nêu được hành vi, vai trò trung gian của bên thứ ba trong hòa giải. Điều này đã được khắc phục trong Từ điển luật học của Black.
Cả ba khái niệm nêu trên cho thấy hòa giải có ba yếu tố. Thứ nhất là phải có tranh chấp giữa hai bên. Thứ hai là có sự thống nhất ý chí giữa các bên để giải quyết tranh chấp thông qua việc mỗi bên nhượng bộ một ít. Thứ ba là trong quá trình hòa giải phải có sự tham gia của bên thứ ba trung lập để cho ý kiến tư vấn đồng thời công nhận thủ tục hòa giải thành giữa các bên trong tranh chấp. Nếu không có sự tham gia của bên thứ ba thì quá trình này không gọi là hòa giải mà là thương lượng giữa các bên. Trong tố tụng dân sự bên thứ ba này chính là Thẩm phán - đại diện cho Tòa án.
Trong khoa học pháp lý cũng có nhiều quan điểm khác nhau về hòa giải. Có quan điểm cho rằng “hòa giải là quá trình giải quyết những tranh chấp, bất đồng giữa các bên. Trong quá trình hòa giải cần đến bên thứ ba với vai trò trung lập, làm trung gian giúp các bên tranh chấp giải quyết được những bất đồng và đạt được một thỏa thuận phù hợp với quy định của pháp luật, đạo đức xã hội và tự nguyện thực hiện những thỏa thuận đó” [14]. Theo quan điểm này, hòa giải có mục đích giải quyết thành công tranh chấp. Tuy nhiên, không phải tất cả các trường hợp hòa giải đều thành công. Khi đó, dù mâu thuẫn chưa được giải quyết hoàn toàn nhưng các bên tranh chấp cũng có cơ hội hiểu rõ hơn nội dung tranh chấp, bày tỏ ý chí của mình với đối phương và cũng được nghe ý kiến của đối phương về vụ tranh chấp. Từ đó, hai bên có thể phần nào tìm được tiếng nói chung và làm giảm mức độ mâu thuẫn.
Có quan điểm cho rằng:“hòa giải là một biện pháp giải quyết các tranh chấp, theo đó, với sự giúp đỡ của một bên thứ ba độc lập giữ vai trò trung gian, các bên tranh chấp tự nguyện thỏa thuận giải quyết tranh chấp phù hợp với quy định pháp luật, truyền thống đạo đức xã hội”.[13]
Khái niệm này được nhiều người thừa nhận hơn cả, bởi đã thể hiện được bản chất, đặc điểm của hòa giải và vai trò của bên trung gian thứ ba trong hòa giải: Hòa giải là một biện pháp giải quyết tranh chấp; chủ thể trung tâm của hòa giải là bên trung gian giúp cho các bên tranh chấp thỏa thuận với nhau về việc giải quyết tranh chấp; sự thỏa thuận về giải quyết tranh chấp do chính các bên tranh chấp quyết định.
Như vậy, xem xét ở mức độ chung nhất thì“hòa giải là biện pháp giải quyết tranh chấp, mà theo đó các bên trong quá trình thương lượng có sự tham gia của bên thứ ba độc lập làm vai trò trung gian để hỗ trợ cho các bên nhằm tìm kiếm những giải pháp thích hợp cho việc giải quyết xung đột, chấm dứt các tranh chấp, bất hòa”. [20,tr.42]
Hoạt động tố tụng dân sự là hoạt động của những người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng tiến hành trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự. Theo Điều 1 BLTTDS thì quá trình tố tụng dân sự bao gồm việc khởi kiện, hòa giải, xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm và thi hành bản án, quyết định của Tòa án. Như vậy, dưới góc độ hoạt động tố tụng, hòa giải cũng là một dạng hoạt động do pháp luật quy định cho Tòa án tiến hành nhằm giúp đỡ các bên đương sự hiểu rõ quyền và nghĩa vụ của mình và hướng dẫn động viên các đương sự tự nguyện thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ việc đang có tranh chấp.
Dưới góc độ pháp luật, hòa giải được coi là chế định pháp luật, bao gồm tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình hòa giải các vụ án dân sự. Theo chế định này, hòa giải là một nguyên tắc, thủ tục giải quyết các vụ án dân sự do Tòa án tiến hành nhằm giúp đỡ các đương sự tự nguyện thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án phù hợp với quy định của pháp luật và đạo đức xã hội [11]. Các vấn đề liên quan tới hòa giải được pháp luật tố tụng dân sự quy định bao gồm: Nguyên tắc hòa giải, chủ thể hòa giải, phạm vi hòa giải và thủ tục tiến hành hòa giải.
1.1.2. Đặc điểm của hòa giải trong tố tụng dân sự
1.1.2.1. Hòa giải là một nguyên tắc trong quá trình giải quyết vụ án dân sự
Hoạt động giải quyết vụ án dân sự của Toà án phải tuân theo những nguyên tắc do pháp luật tố tụng dân sự quy định. Tại chương II "Những nguyên tắc cơ bản" của BLTTDS có quy định về hoà giải trong tố tụng dân sự. Theo đó hoà giải là trách nhiệm của Toà án nhằm giúp đỡ đương sự thoả thuận với nhau.
Điều 180, Điều 220 và Điều 268 BLTTDS quy định hòa giải có tính bắt buộc phải tiến hành trước khi mở phiên tòa sơ thẩm, trừ những vụ án không được tiến hành hòa giải hoặc không hòa giải được và ở các giai đoạn tố tụng tiếp theo, nếu thấy có khả năng hòa giải thành thì tòa án cũng tiến hành hòa giải.
Hòa giải được pháp luật tố tụng dân sự quy định thuộc trách nhiệm của Tòa án, được Tòa án thực hiện trong quá trình giải quyết vụ án dân sự, nhằm đảm bảo cho đương sự thực hiện quyền tự định đoạt của mình. Thực hiện hòa giải cũng là việc tận dụng tối đa cơ hội rút ngắn quá trình tố tụng, nâng cao hiệu quả hoạt động xét xử, thể hiện trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, đồng thời còn mang ý nghĩa xã hội sâu sắc trong việc củng cố tình tương thân, tương ái, giữ gìn khối đoàn kết cộng đồng.
1.1.2.2. Hòa giải là hoạt động do Tòa án tiến hành
Trong hoạt động hòa giải, Tòa án xuất hiện không phải với tư cách một bên tham gia hòa giải mà là người tổ chức, bố trí cho các đương sự thương lượng, thỏa thuận với nhau. Với vai trò của mình, Tòa án giải thích cho các đương sự hiểu được quyền, nghĩa vụ pháp luật có liên quan đến tranh chấp cần hòa giải. Kết quả hòa giải do Tòa án tiến hành là những văn bản có tính chất pháp lý (biên bản hòa giải thành hoặc không thành), là cơ sở để tiếp tục các hành vi tố tụng tiếp theo.
Sự có mặt của Tòa án trong hòa giải khẳng định vị trí trung gian của Tòa án trong việc hòa giải các vụ án dân sự. Đặc điểm này là dấu hiệu để phân biệt hòa giải trong tố tụng dân sự với hòa giải ngoài tố tụng dân sự và trường hợp các đương sự tự hòa giải, cụ thể là:
- Trong tố tụng dân sự hòa giải do Tòa án chủ động tổ chức và trực tiếp tham gia với vai trò giải thích, động viên các đương sự tự thỏa thuận. Còn hòa giải ngoài tố tụng là việc hòa giải không do Tòa án tiến hành mà do các chủ thể khác như ủy ban nhân dân, tổ hòa giải cơ sở thực hiện; hòa giải do Tòa án tiến hành cũng khác trường hợp đương sự tự thỏa thuận. Trường hợp đương sự tự thỏa thuận là việc các bên chủ động tự thương lượng, thỏa thuận mà không có sự tham gia của Tòa án.
- Buổi hòa giải được Thẩm phán lập biên bản về nội dung mà các đương sự thỏa thuận. Nếu các đương sự thỏa thuận được với nhau về toàn bộ nội dung vụ án thì Thẩm phán ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự. Còn trong trường hợp các bên tự hòa giải và không yêu cầu Tòa án tiếp tục giải quyết thì Tòa án có thể ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án.
1.1.2.3. Hòa giải là sự thỏa thuận của các đương sự
Mặc dù hòa giải là một hoạt động do Tòa án tiến hành nhưng về bản chất hòa giải vẫn là sự thỏa thuận của các đương sự. Đương sự trong các vụ án dân sự chính là các bên của tranh chấp mà Tòa án cần giải quyết. Họ là người hiểu rõ hơn ai hết mâu thuẫn của chính họ. Vì lý do này mà pháp luật quy định chính đương sự là người có quyền tự định đoạt để giải quyết các mâu thuẫn đó.
Việc thỏa thuận giữa các đương sự sẽ đạt được kết quả trung thực, hợp tình hợp lý nếu quá trình thỏa thuận được diễn ra trên cơ sở tự nguyện, không bị một ai với bất kỳ hình thức nào cưỡng ép, can thiệp vào thỏa thuận của các đương sự. Điều này đòi hỏi Tòa án không được dùng bất kỳ hình thức nào để cưỡng ép, bắt buộc các đương sự phải hòa giải với nhau.
Sự thỏa thuận của chính các đương sự là đặc trưng cơ bản của hòa giải, đồng thời cũng là điểm khác biệt giữa hòa giải và xét xử. Khi xét xử, Tòa án sẽ ra phán quyết và đương sự phải tuân thủ nghiêm chỉnh mọi phán quyết của Tòa án. Trong hòa giải, Tòa án chỉ có vai trò trung gian giúp đỡ các bên tranh chấp thỏa thuận với nhau mà không được can thiệp vào thỏa thuận đó.
1.1.3. Ý nghĩa của hòa giải trong tố tụng dân sự
Hòa giải không chỉ mang lại ý nghĩa cho Tòa án, bản thân đương sự mà còn có ý nghĩa đối với trật tự xã hội.
- Ý nghĩa đối với Tòa án:
Trong trường hợp hòa giải thành, Tòa án sẽ giảm bớt được nhiều thời gian, công sức cho việc giải quyết vụ án. Đặc biệt nếu hòa giải thành trong thời gian chuẩn bị xét xử thì Tòa án sẽ không phải mở phiên tòa sơ thẩm và không phải tiến hành các thủ tục xét xử tiếp theo mà nếu hòa giải không thành có thể sẽ phải thực hiện như xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm. Mặt khác, nếu làm tốt công tác hòa giải thì không chỉ số lượng xét xử của Tòa án cấp sơ thẩm giảm xuống mà số lượng án ở Tòa án cấp phúc thẩm cũng giảm một cách rõ rệt, hệ quả là hiệu quả xét xử sẽ được nâng cao. Điều này sẽ không chỉ có ý nghĩa về kinh tế mà còn có ý nghĩa rất quan trọng trong việc tăng cường uy tín của cơ quan xét xử nói riêng cũng như cơ quan nhà nước nói chung.
Trong trường hợp hòa giải không thành thì Tòa án cũng có điều kiện nắm vững nội dung tranh chấp, tâm tư, nguyện vọng của đương sự để xác định đường lối xét xử đúng đắn trong quá trình giải quyết vụ án.
- Ý nghĩa đối với các đương sự:
Hòa giải các vụ án dân sự giúp các đương sự hiểu biết và thông cảm với nhau, góp phần khôi phục lại tình đoàn kết giữa họ, giúp họ giải quyết tranh chấp với tinh thần cởi mở, giảm bớt mâu thuẫn, ngăn ngừa tội phạm có nguồn gốc từ tranh chấp dân sự phát sinh. Trường hợp không hòa giải thành thì quá trình hòa giải cũng giúp cho các đương sự ngồi lại với nhau, hiểu rõ hơn nguyên nhân tranh chấp, được bày tỏ ý chí của mình. Từ đó, họ có thể phần nào tìm được tiếng nói chung, hạn chế bớt mâu thuẫn.
Hòa giải góp phần nâng cao ý thức pháp luật của các đương sự. Thông qua việc giải thích pháp luật của Tòa án trong phiên hòa giải, các đương sự sẽ phần nào hiểu được quy định của pháp luật về vấn đề mà họ đang tranh chấp. Từ đó, các bên có thể hiểu và tự quyết định về việc giải quyết tranh chấp, không trái với quy định của pháp luật.
- Ý nghĩa đối với trật tự xã hội:
Thông qua hòa giải nhiều tranh chấp đã được giải quyết mà không cần phải mở phiên tòa xét xử. Hoặc nếu hòa giải không thành thì cũng giúp các bên đương sự hiểu rõ hơn về mâu thuẫn, giúp kiềm chế mâu thuẫn. Như vậy, hòa giải góp phần vào việc giữ gìn an ninh, trật tự, công bằng xã hội, làm cho mối quan hệ xã hội phát triển không phải bằng mệnh lệnh mà bằng giáo dục thuyết phục và sự cảm thông của các thành viên trong xã hội.
Mặt khác, hòa giải làm cho sự hiểu biết chính sách pháp luật của các đương sự nói riêng và của người dân nói chung được nâng cao. Qua đó, góp phần tăng cường ý thức pháp luật trong nhân dân.
1.2. SƠ LƯỢC QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CHẾ ĐỊNH HÒA GIẢI TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM
1.2.1. Giai đoạn từ 1945 đến 1989
Trong thời kỳ này do chúng ta chưa thể xây dựng ngay được các văn bản pháp luật mới nên Sắc lệnh ngày 10/10/1945 quy định: Cho đến khi xây dựng được bộ luật mới thì những luật lệ cũ vẫn tạm thời được sử dụng nếu không trái với nguyên tắc độc lập của nước Việt Nam và chính thể cộng hòa. Như vậy, trong giai đoạn này, vấn đề hòa giải vẫn áp dụng theo các quy định của chế độ cũ.
Văn bản pháp luật đầu tiên quy định về hòa giải là Sắc lệnh số 13 ngày 21/1/1946 về tổ chức Tòa án, trong đó quy định “Ban tư pháp xã có quyền hòa giải tất cả các việc dân sự và thương mại. Nếu hòa giải được Ban tư pháp xã có thể lập biên bản hòa giải có các ủy viên và những đương sự ký".[6]
Điều 4 Sắc lệnh số 51/SL ngày 17/4/1946 quy định rằng biên bản hòa giải thành chỉ có hiệu lực tư chứng thư. Tại Điều 12 Sắc lệnh số 51/SL quy định “những việc kiện dân sự và thương mại thuộc thẩm quyền của Tòa án đệ nhị cấp đều phải giao trước về ông Thẩm phán sơ cấp thử hòa giải”.[7]
Điều 9 Sắc lệnh 85/SL ngày 22/5/1950 về cải cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng quy định “Tòa án nhân dân hòa giải tất cả các vụ kiện về dân sự và thương mại kể cả việc xin ly dị trừ những vụ kiện mà theo luật pháp đương sự không có quyền điều đình”. Theo Điều 10 của Sắc lệnh này biên bản hòa giải thành là một công chứng thư có thể đem chấp hành ngay. Tuy nhiên cho đến lúc biên bản hòa giải được chấp hành xong nếu Biện lý xét thấy biên bản ấy xâm phạm đến trật tự chung thì có quyền yêu cầu Tòa án có thẩm quyền sửa đổi hoặc bác bỏ điều hai bên đã thỏa thuận. Hạn kháng cáo là 15 ngày tròn kể từ ngày phòng Biện lý nhận được biên bản hòa giải thành.
Như vậy, với các văn bản pháp luật quy định về hòa giải trong giai đoạn này chúng ta thấy nổi bật một số vấn đề sau:
- Về thẩm quyền hòa giải:
Cơ quan có thẩm quyền hòa giải là Ban tư pháp xã và Tòa án nhân dân cấp huyện. Các vụ án phải hòa giải là tất cả các vụ án về dân sự, thương mại và ly hôn, trừ những việc không được hòa giải.
- Hiệu lực của hòa giải:
Biên bản hòa giải thành do Ban tư pháp xã lập có hiệu lực tư chứng thư. ên bản hòa giải thành do Tòa án lập có hiệu lực là một công chứng thư, có thể đem ra thi hành ngay.
Trong vòng 15 ngày kể từ ngày nhận được biên bản hòa giải thành, phòng Biện lý có quyền kháng cáo yêu cầu Tòa án sửa đổi hoặc bác bỏ những điều hai bên đã thỏa thuận, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo.
Như vậy, đặc trưng của pháp luật về hòa giải trong giai đoạn này là Tòa án không ra quyết định mà chỉ lập biên bản hòa giải thành, đồng thời chỉ có phòng Biện lý và người có liên quan có quyền kháng cáo còn nguyên đơn và bị đơn không có quyền này.
Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 ra đời đã quy định cụ thể về hòa giải trong trường hợp một bên vợ hoặc chồng xin ly hôn, cơ quan có thẩm quyền sẽ điều tra và hòa giải. Tòa án có thể trực tiếp thực hiện việc hòa giải hoặc giao lại cho tổ hòa giải tiến hành với sự theo dõi hướng dẫn của Tòa án.
Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 1960 và Thông tư số 1080 ngày 25/9/1961 đã quy định Tòa án nhân dân huyện ngoài nhiệm vụ hòa giải thì còn có nhiệm vụ xây dựng và hướng dẫn các tư pháp xã thực hiện hòa giải, dàn xếp các đương sự và nhân dân.
Có thể thấy rằng, trong giai đoạn này thành tựu đạt được là hòa giải đã được coi là một thủ tục bắt buộc trong quá trình giải quyết vụ án dân sự. Nhưng do đất nước trong tình trạng chiến tranh, chế định hòa giải chưa có điều kiện hoàn thiện nên vẫn còn bộc lộ rất nhiều hạn chế, bất cập lớn nhất là Tòa án chỉ lập biên bản hòa giải thành mà không ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của đương sự nên kết q