Đất nước Việt nam đã trải qua hơn 4000 năm lịch sử dựng nước và giữ nước. Dân tộc ta có truyền thống đấu tranh anh dũng, giàu truyền thống văn hóa, có tinh thần nhân đạo sâu sắc. Nhưng nước ta vẫn là một nước nông nghiệp, phần lớn người dân sống bằng nghề làm ruộng. Khoảng cách nền kinh tế của đất nước chúng ta và nền kinh tế của của nước phát triển trên thế giới vẫn còn khá lớn. Chúng ta hiểu rằng khoa học công nghệ trong thế kỷ 21 sẽ có những bước tiến khổng lồ. Thực hiện tư tưởng vĩ đại của chủ tịch Hồ Chí Minh: Lấy sức ta mà giải phóng cho ta, chúng tôi phải tri thức hoá Đảng, tri thức hoá dân tộc, tiếp tục tri thức hoá công nông, cả nước là một xã hội học tập, phát huy truyền thống những ngày mới giành được độc lập 1945, cả nước học chữ, cả nước diệt giặc dốt, cả nước diệt giặc đói. Phải nắm lấy ngọn cờ khoa học như đã nắm lấy ngọn cờ dân tộc. “ Một dân tộc dốt, một dân tộc đói nghèo là một dân tộc yếu” (Lê Khả Phiêu- Tổng bí thư ban chấp hành trung ương Đảng cộng sản Việt Nam- Phát biểu tại hội thảo quốc tế tại Việt Nam trong thế kỷ 20). Không, dân tộc chúng ta nhất định không phải là dân tộc yếu. Chúng ta đã từng chiến thắng bọn thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Thắng lợi đó là thắng lợi của lực lượng trí tuệ Việt Nam đối với lực lượng sắt thép và đô la khổng lồ của Mỹ. Con người Việt Nam đã làm được những điều tưởng như không thể làm được, và tôi tin rằng, con người Việt Nam trong giai đoạn mới với những thử thách mới vẫn sẽ làm được những điều kỳ diệu như thế. Đất nước Việt Nam sẽ sánh vai được với các cường quốc năm châu cho dù hiện nay chúng ta gặp rất nhiều khó khăn, rất nhiều sự đối đầu.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề con người và vấn đề nguồn lực con người trong trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nên tôi chọn đề tài: Lý luận về con người và vấn đề đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước cho tiểu luận triết học của mình. Do thời gian viết tiểu luận cũng như sự nhận thức của bản thân còn hạn chế nên bài tiểu luận không tránh khỏi những thiếu xót. Rất mong được sự đóng góp ý kiến của quý thầy cô và của các học viên trong lớp để tiểu luận của tôi hoàn chỉnh hơn.
29 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 2116 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Lý luận về con người và vấn đề đào tạo nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài.
Đất nước Việt nam đã trải qua hơn 4000 năm lịch sử dựng nước và giữ nước. Dân tộc ta có truyền thống đấu tranh anh dũng, giàu truyền thống văn hóa, có tinh thần nhân đạo sâu sắc. Nhưng nước ta vẫn là một nước nông nghiệp, phần lớn người dân sống bằng nghề làm ruộng. Khoảng cách nền kinh tế của đất nước chúng ta và nền kinh tế của của nước phát triển trên thế giới vẫn còn khá lớn. Chúng ta hiểu rằng khoa học công nghệ trong thế kỷ 21 sẽ có những bước tiến khổng lồ. Thực hiện tư tưởng vĩ đại của chủ tịch Hồ Chí Minh: Lấy sức ta mà giải phóng cho ta, chúng tôi phải tri thức hoá Đảng, tri thức hoá dân tộc, tiếp tục tri thức hoá công nông, cả nước là một xã hội học tập, phát huy truyền thống những ngày mới giành được độc lập 1945, cả nước học chữ, cả nước diệt giặc dốt, cả nước diệt giặc đói... Phải nắm lấy ngọn cờ khoa học như đã nắm lấy ngọn cờ dân tộc. “ Một dân tộc dốt, một dân tộc đói nghèo là một dân tộc yếu” (Lê Khả Phiêu- Tổng bí thư ban chấp hành trung ương Đảng cộng sản Việt Nam- Phát biểu tại hội thảo quốc tế tại Việt Nam trong thế kỷ 20). Không, dân tộc chúng ta nhất định không phải là dân tộc yếu. Chúng ta đã từng chiến thắng bọn thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Thắng lợi đó là thắng lợi của lực lượng trí tuệ Việt Nam đối với lực lượng sắt thép và đô la khổng lồ của Mỹ. Con người Việt Nam đã làm được những điều tưởng như không thể làm được, và tôi tin rằng, con người Việt Nam trong giai đoạn mới với những thử thách mới vẫn sẽ làm được những điều kỳ diệu như thế. Đất nước Việt Nam sẽ sánh vai được với các cường quốc năm châu cho dù hiện nay chúng ta gặp rất nhiều khó khăn, rất nhiều sự đối đầu.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề con người và vấn đề nguồn lực con người trong trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nên tôi chọn đề tài: Lý luận về con người và vấn đề đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước cho tiểu luận triết học của mình. Do thời gian viết tiểu luận cũng như sự nhận thức của bản thân còn hạn chế nên bài tiểu luận không tránh khỏi những thiếu xót. Rất mong được sự đóng góp ý kiến của quý thầy cô và của các học viên trong lớp để tiểu luận của tôi hoàn chỉnh hơn.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu vấn đề “Lý luận về con người và vấn đề đào tạo nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” tôi muốn làm từ 3 vấn đề sau:
- Hiểu khái niệm con người, tầm quan trọng của yếu tố con người đối với sự phát triển kinh tế, xã hội.
- Vấn đề đào và sử dụng nguồn lực con người ở Việt Nam
- Một số chính sách phát triển nguồn lực con người và giáo dục đào tạo nguồn lực con người cho sự nghiệp phát triển đất nước.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu.
- Nghiên cứu các cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài.
- Đánh giá những khó khăn và thuận lợi của đề tài nghiên cứu.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Lý luận về con người và vấn đề đào tạo nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Bởi phạm vi và giới hạn của đề tài, tôi chỉ đi tìm hiểu, nghiên cứu vấn đề con người nói chung và trong một đất nước cụ thể: “Vấn đề đào tạo nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước ở Việt Nam”
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này tôi sử dụng tổng hợp các phương pháp:
- Phương pháp phân tích
- Phương pháp chứng minh
- Phương pháp so sánh, đối chiếu
- Phương pháp tổng hợp
B.NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. LÍ LUẬN VỀ CON NGƯỜI
1.1.Khái niệm chung về con người
1.1.1. Một số quan điểm trước Mác về con người
1.1.1.1. Quan điểm về con người trong triết học phương Đông
Nho giáo, Phật giáo và Lão giáo: đều rất chú trọng đến việc giải thích bản chất con người, bởi vì các tôn giáo này đặt ra nhiệm vụ chủ yếu là giải quyết các vấn đề chính trị - xã hội, những vấn đề liên quan trực tiếp đến đời sống con người. Ngay trong một trường phái cũng có nhiều quan điểm đa dạng. Ví dụ như trong Nho giáo: Khổng Tử đề cao tính thiện của con người. Theo Khổng Tử, ngay từ khi sinh ra, con người đã có sẵn tính thiện (thiên tính) nhưng do trong quá trình sinh sống ảnh hưởng những thói hư tật xấu trong xã hội mà tính thiện đó bị mai một. Mạnh Tử đề xuất giải pháp để con người giữ được tính thiện của mình phải trau dồi đạo đức. Từ đó hai ông khẳng định tầm quan trọng của cách quản lý đất nước bằng đức trị và lễ trị. Còn Tuân Tử lại có tư tưởng ngược lại. Ông cho rằng con người bản tính vốn ác, phải luôn ngăn chặn cái ác bằng pháp trị. Quan điểm này được Hàn Phi rất đề cao.
Thuyết “ thiên nhân hợp nhất” cho rằng người với trời hòa hợp, có tác động lẫn nhau. Đây cũng là một quan điểm mang nhiều yếu tố tích cực, thể hiện mối quan hệ biện chứng giữa con người với tự nhiên. Nhưng cũng vì thế mà con người phải tuân theo mệnh trời thiếu sự quyết đoán.
1.1.1.2. Quan điểm về con người trong triết học phương Tây
Quan điểm duy vật tôn giáo: quy bản chất con người vào lĩnh vực ý thức tư tưởng hoặc được quy định sẵn từ những lực lượng siêu nhiên. Nói chung, các tôn giáo đều quan niệm nguồn gốc con người là do một lực lượng siêu nhiên sinh ra ( do thần thánh, Chúa trời, Thượng đế). Ki tô giáo lại cho rằng con người có phần thể xác và linh hồn, trong đó phần thể xác là phần thấp hèn vì gần với súc vật, là phần đáng khinh miệt. Khi con người có những ham muốn thể xác là có tội, cần rửa tội hoặc sám hối, còn linh hồn là phần cao quý, bất tử nên con người phải chăm sóc chu đáo hàng ngày.
1.1.1.3.Quan điểm duy vật thế kỉ XVII – XVIII, điển hình là Phoiơbac
Ông phản đối quan điểm duy tâm của Heeghen, ông đã chỉ ra nguồn gốc phi thần thánh của con người và đồng thời nêu bật bản chất của tôn giáo: “ không phải chúa đã tạo ra con người theo hình ảnh của chúa mà chính con người đã tạo ra chúa theo hình ảnh của con người”. Con người theo Phoiơbac, là một sinh vật có hình thể vật chất, ở trong không gian và thời gian, là “cái gương của vũ trụ” thông qua đó, giới tự nhiên ý thức và nhận thức chính bản thân mình. Bản chất của con người là tổng thể những khát vọng, khả năng, nhu cầu, ham muốn. Nên ngoài việc đem lại một quan niệm mới về con người, triết học còn có nhiệm vụ tiến hành cuộc đấu tranh lý luận cho việc giải phóng con người, đem lại cho con người một cuộc sống thực sự hạnh phúc, loại trừ nhưnhx học thuyết duy tâm tôn giáo ra khỏi cuộc sống tinh thần của con người. Theo ông tôn giáo chỉ hướng con người vào cái thiện giới, khuyến khích con người hạn chế tối đa những nhu cầu tối thiểu, bóp nghẹt phần con người tự nhiên. Đó là điều hoàn toàn trái ngược với bản chất con người. Khi phân tích bản chất tôn giáo, ông đã phân tích khá kĩ lưỡng trên quan điểm nhân bản, coi thần thánh “ là bản chất bị tha hóa” của con người. Tôn giáo vừa là sản phẩm của sự tưởng tượng hoang đường, vừa là thể hiện của sự khao khát của con người về một cuộc sống tốt đẹp hơn. Con người tin vào thực thể được sung sướng vì nó muốn trở nên sung sướng, tin vào thực thể hoàn hảo, vì bản thân nó muốn trở nên hoàn hảo, tin vào thực thể bất diệt, vì bản thân nó muốn trở nên bất diệt, không muốn chết. Sự an ủi mà tôn giáo đem tới cho là giả rối nhưng con người không thể làm gì hơn ngoài việc chấp nhận sự giả rối đó. Được coi là nhà triết học vô thần nhưng Phoiơbac lại là người đề xướng ra một thứ “tôn giáo mới” tôn giáo tình yêu. Thứ tôn giáo mới này được giải phóng những thiên kiến, coi “con người là thượng đế đối với con người”, có nhiệm vụ bảo vệ con người cùng khổ, “khai sáng” cho con người, cổ vũ cho con người trong cuộc đấu tranh thực hiện những ý tưởng trần tục mang tính hiện thực. Ông chỉ rõ tư duy con người là khí quan vật chất, đó là bộ óc người. con người khác con vật không chỉ ở tư duy mà còn khác ở cảm xúc, và xứ mệnh của lý tính. Tuy vậy, ông lại rơi vào duy tâm và siêu hình khi phân tích bản chất xã hội của con người. Ông không đặt con người trong các mối quan hệ nhất định, trong hoàn cảnh điều kiện cụ thể mà đó là con người chung chung, con người trừu tượng, con người là đối tượng cảm tính chứ không phải là hoạt động cảm tính. Ông lí tưởng hóa tình bạn, tình yêu của con người, quy bản chất con người vào tính tộc loại và tìm đặc trưng cho tính tộc loại đó ở tình cảm đạo đức.
Quá trình hình thành và phát triển tư tưởng về con người của Phoiơbac có thể được coi là quá trình hình thành và phát triển của chủ nghĩa nhân đạo cách mạng – dân chủ, ban đầu còn mang tính trừu tượng, sau cách mạng 1848, ông có cơ sở để khẳng định rõ ràng hơn. Ông hoàn toàn đồng tình với tinh thần giả phóng con người chủ nghĩa cộng sản, có lúc còn tự nhận mình là “ người cộng sản”. Tuy nhiên quan điểm của ông vẫn còn mang tính chất dân chủ tư sản.
Nhìn chung, các quan điểm siêu hình trước Mác về con người đều coi bản chất con người là cái vốn có, trừu tượng, đặc trung bản chất của con người được quy về bản tính tự nhiên. Do đó nó trở nên bất biến, không thấy được sự hình thành và biến đổi của nó một cách biện chứng.
1.1.2. Quan điểm triết học Mác – Lênin về con người
Chủ nghĩa Mác đã kế thừa và khắc phục những mặt hạn chế và đồng thời phát triển những quan niệm hạn chế về con người đã có trong các học thuyết trước đây để đi đến những quan niệm về con người hiện thực, con người hoạt động thực tiễn cải tạo tự nhiên và xã hội. Với tư cách là con người hiện thực, con người vừa là sản phẩm của tự nhiên và xã hội, đồng thời vừa là chủ thể cải tạo tự nhiên và xã hội. Hay nói cách khác chủ nghĩa Mác xem xét con người như một thực thể sinh học- xã hội.
1.1.2.1.Con người là một thực thể sinh học- xã hội
Con người là sản phẩm của tự nhiên, là kết quả của quá trình tiến hoá lâu dài của giới hữu sinh. Con người tự nhiên là con người sinh học mang tính sinh học. Tính sinh học trong con người quy định sự hình thành những hiện tượng và quá trình tâm lý trong con người là điều kiện quyết định sự tồn tại của con người. Song con ngươì không phải là động vật thuần tuý như các động vật khác mà là một động vật có tính chất xã hội với nôị dung văn hoá lịch sử của nó. Con người là sản phẩm của xã hội, là con người xã hội mang bản tính xã hội. Con người chỉ có thể tồn tại được một khi con người tiến hành lao động sản xuất ra của cải vật chất thoả mãn nhu cầu sinh học của mình. Lao động sản xuất là yếu tố quyết định sự hình thành con người và ý thức. Chính lao động đã quy định bản chất xã hội của con ngưòi, quy định cái xã hội của con người và xã hội lại quy định sự hình thành cá nhân và nhân cách . Vì con ngươi là sản phẩm cuả tự nhiên và xã hội nên con người chịu sự chi phối của môi trường tự nhiên và xã hội cùng các quy luật biến đổi của chúng.
Với tư cách là con người xã hội, là con người hoạt động thực tiễn, con người sản xuất ra của cải vật chất tác động vào tự nhiên để cải tạo tự nhiên, con người chính là chủ thể cải tạo tự nhiên. Con người là sản phẩm của tự nhiên song con người có thể thống trị tự nhiên nếu biết nắm bắt và tuân theo các quy luật của bản thân giới tự nhiên. Con người không chỉ là sản phẩm của xã hội mà còn là chủ thể cải tạo xã hội. Bằng hoạt động sản xuất con người sáng taọ ra toàn bộ nền văn hoá vật chất và tinh thần. Mặc dù tự nhiên và xã hội đều vận động theo quy luật khách quan, nhưng trong quá trình hoạt động, con người luôn luôn xuất phát từ nhu cầu động cơ và hứng thú, theo đuổi những mục đích nhất định và do đó đã tìm cách hạn chế hay mở rộng phạm vi tác dụng của quy luật cho phù hợp với nhu cầu và mục đích của mình.
Như vậy con người là sản phẩm của tự nhiên và xã hội vừa là chủ thể cải taọ tự nhiên và xã hội. Con ngưòi là thực thể thống nhất sinh học- xã hội.
1.1.2.2.Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những mối quan hệ xã hội
Xuất phát từ con người hiện thực, Mác đã nhận thấy lao động đóng vai trò quyết định trong việc phân chia ranh giới giữa con người và động vật. Vì lao động là hoạt động xã hội nên mọi sự khác biệt giữa con người và động vật đều là kết quả của cuộc sống con người trong xã hội. Cá nhân là thực thể xã hội và bản chất con người có tính lịch sử cụ thể. Điều đó quy định sự khác nhau của con người trong các thời đại khác nhau, sự khác nhau này tuỳ thuộc vào sự phát triển của xã hội, sự thay đổi các quan hệ xã hội và giao tiếp. Vì vậy, bản chất con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội, không chỉ tổng hoà các mối quan hệ trong hiện taị mà cả trong quá khứ. Khi nói về bản chất con người, quan điểm của Mác được thể hiện cụ thể:
Trước hết, Mác không hề phủ nhận mặt tự nhiên của con người, phủ nhận yếu tố sinh học trong bản chất con người. Cái sinh học đó tồn tại không tách rời xã hội, nó phải được đặt trong xã hội. Bản chất con người chỉ có thể được hiểu là “loài” là tính phổ biến nội tại, gắn bó một cách tự nhiên đông đảo cá nhân lại với nhau, nên con người của thời đại khác nhau, những dân tộc, giai cấp, tầng lớp khác nhau, nên con người tự nhiên luôn tồn tại trong sự tác động qua lại của xã hội.
Thứ hai, không nên hiểu mặt sinh học một cách thuần túy sinh học, bởi con người thực hiện nhu cầu sinh học mang tính xã hội tạo thành văn hóa của một cộng đồng người và tạo nên văn minh của nhân loại.
Thứ ba, khi nói tới con người thì không phải là nói tới con người trong trạng thái tự nhiên thuần túy mà là con người hoạt động thực tiễn. Thông qua hoạt động thực tiễn, con người cải tạo tự nhiên và cải tạo chính bản thân mình.
Thứ tư, không xem xét mặt xã hội của con người một cách giản đơn, thô thỉn, chỉ quy định về quan hệ giai cấp, quan hệ chính trị; ngoài quan hệ cơ bản đó, con người còn nhiều mối quan hệ khác nhau ràng buộc, chi phối. Những quan hệ đó mang tính độc lập tương đối.Các quan hệ đó cấu thành bản chất con người trong sự liên hệ “ tổng hòa” của chúng, mà trong đó, cái chung toàn nhân loại thống nhất với cái đặc thù giai cấp, dân tộc trong cái riêng của mỗi cá nhân con người.
Tóm lại, bản chất chung nhất, sâu sắc nhất nhất của con người là tổng hoà các mối quan hệ giữa người và người trong xã hội diễn ra trong hiện tại và cả trong quá khứ. Bản thân của con người không phải là cố định, bất biến mà có tính lịch sử cụ thể. Chúng ta không thể hiểu bản chất con người bên ngoài mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội.
CHƯƠNG 2
VẤN ĐỀ ĐÀO TẠO NGUỒN LỰC CON NGƯỜI TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở NƯỚC TA
2. 1.Thế nào là công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
Từ quan điểm đổi mới về công nghiệp húa hiện đaị hoá đất nước của đại hội Đảng lần thứ VII rút ra từ thực tiễn công nghiệp hoá trên thế giới và ở nước ta, có thể đưa ra định nghĩa: Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại , dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học- công nghệ, tạo ra năng suất xã hội cao.
2.2. Nguồn nhân lực là gì
Ở bất kỳ thời điểm nào của lịch sử phát triển, nguồn lực con người luôn là vấn đề quan trọng bậc nhất và là mối quan tâm hàng đầu của mỗi quốc gia, dân tộc vì nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng quyết định sức mạnh của đất nước. Điều đó càng thể hiện rõ nét hơn trong quá trình toàn cầu hóa hiện nay khi nền kinh tế nào dựa nhiều vào tri thức sẽ tạo ra nhiều cơ hội phát triển, duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực. Các lý thuyết về tăng trưởng kinh tế gần đây cũng chỉ ra rằng động lực quan trọng nhất của sự tăng trưởng kinh tế bền vững chính là yếu tố con ngườiCho đến nay, khái niệm nguồn lực con người (hay nguồn nhân lực) đang được hiểu theo nhiều cách khác nhau. Các cơ quan chuyên môn của Liên hợp quốc cho rằng nguồn nhân lực bao hàm những người đang làm việc và những người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động. Một số nhà khoa học của Việt Nam thì cho rằng nguồn nhân lực “được hiểu là số dân và chất lượng con người bao gồm cả thể chất và tinh thần, sức khỏe và trí tuệ, năng lực, phẩm chất và đạo đức của người lao động. Nó là tổng thể nguồn nhân lực hiện có thực tế và tiềm năng được chuẩn bị sẵn sàng để tham gia phát triển kinh tế-xã hội của một quốc gia hay một địa phương nào đó”. Ngoài ra, một số tác giả khác khi nghiên cứu về nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam cũng đã đưa ra những quan điểm khác nhau về nguồn nhân lực.
Nguồn nhân lực của một đất nước được đánh giá trên hai mặt chủ yếu là số lượng và chất lượng. số lượng nguồn nhân lực được đánh giá bằng các chỉ tiêu: tỉ lệ nguồn nhân lực trong dân số; tỉ lệ lực lượng lao động trong dân số; tỉ lệ tham gia lực lượng lao động của người trong độ tuổi lao động; tỉ lệ lao động có việc làm trong lực lượng lao động…
Chất lượng nguồn nhân lực được đánh giá bằng các chỉ tiêu:
- Trạng thái sức khỏe nguồn nhân lực, trong đó chú ý đề tuổi thọ bình quân; thể trạng của người lao động; phân loại sức khỏe; chỉ tiêu suy giảm sức khỏe hoặc không có khả năng lao động…
- Chỉ tiêu trình độ văn hóa của nguồn nhân lực, đây là chỉ tiêu rất quan trọng phản ánh chất lượng nguồn nhân lực và có tác động mạnh mẽ tới quá trình phát triển kinh tế xã hội. Trình độ văn hóa cao sẽ tạo điều kiện và khả năng tiếp thu, vận dụng có hiệu quả những tiến bộ mới của khoa học công nghệ trong thực tiễn lao động sản xuất, trong các lĩnh vực khác của đời sống.
- Chỉ tiêu đánh giá trình độ chuyên môn-kỹ thuật của nguồn nhân lực được thể hiện bằng tỉ lệ cán bộ, công nhân và người lao động nói chung có trình độ tay nghề, trình độ cao đẳng, đại học và sau đại học so với nguồn nhân lực lao động chung của cả nước.
Ngoài ra chất lượng nguồn nhân lực còn được đo bằng chỉ số phát triển con người HDI là thước đo tổng hợp sự phát triển con người trên 3 phương diện: sức khỏe, tri thức và thu nhập và một số chỉ tiêu khác mang tính định tính về môi trường làm việc của người lao động như truyền thống yêu nước, truyền thống văn hóa, văn minh của dân tộc, phong tục, tập quán, lối sống…
Như vậy, có thể nói rằng nguồn nhân lực là tổng hòa của thể lực và trí lực tồn tại trong toàn bộ lực lượng lao động xã hội của một quốc gia, trong đó kết tinh truyền thống và kinh nghiệm lao động sáng tạo của một dân tộc trong lịch sử được vận dụng để sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần phục vụ cho nhu cầu hiện tại và tương lai của đất nước. Trong thời đại ngày nay, con người được coi là một “tài nguyên” đặc biệt, một nguồn lực quan trọng của sự phát triển. Chính vì lẽ đó, việc phát triển con người, phát triển nguồn nhân lực đang chiếm vị trí trung tâm trong hệ thống phát triển các nguồn lực. Chăm lo đầy đủ đến con người là yếu tố đảm bảo chắc chắn nhất cho sự phồn vinh, thịnh vượng của đất nước. Việc đầu tư để phát triển nguồn lực con người là đầu tư chiến lược, là cơ sở chắc chắn nhất cho sự phát triển bền vững.
Cho đến nay, khi bàn đến phát triển nguồn nhân lực, vẫn còn tồn tại nhiều ý kiến khác nhau do nhiều cách tiếp cận khác nhau. Các cơ quan chuyên môn của Liên hợp quốc cho rằng phát triển nguồn nhân lực bao hàm cả giáo dục, đào tạo và việc sử dụng các năng lực tiềm tàng của con người nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống.
Một số người khác cho rằng phát triển nguồn nhân lực là làm gia tăng giá trị con người, cả giá trị vật chất và giá trị tinh thần, cả trí tuệ lẫn tâm hồn cũng như kỹ năng nghề nghiệp, làm cho con người trở thành người lao động có những năng lực và phẩm chất mới, cao hơn, đáp ứng yêu cầu to lớn và ngày càng tăng của phát triển kinh tế-xã hội. Những ý kiến khác cho rằng phát triển nguồn nhân lực là quá trình nâng cao năng lực của con người về mọi mặt: thể lực, trí lực, tâm lực, đồng thời phân bổ, sử dụng, khai thác và phát huy hiệu quả cao nhất nguồn nhân lực thông qua hệ thống phân công lao động và giải quyết việc làm nhằm phát triển kinh tế, ổn định an ninh, chính trị xã hội.
Như vậy, chúng ta có thể hiểu rằng phát triển nguồn nhân lực của một đất nước là sự biến đổi về số lượng và chất lượng nguồn nhân lực trên các mặt: thể lực, trí lực, kỹ năng, tinh thần, tình cảm, cùng với quá trình tạo ra những biến đổi tiến bộ về cơ cấu nguồn nhân