Đề tài Mối quan hệ giữa đầu tư vào tài sản vô hình và tài sản hữu hình

Nền kinh tế nước ta hiên nay đang phát triển theo cơ chế nền kinh tế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước. Nền kinh tế thị trường với đa dạng sản phẩm,chủng loại,phù hợp với nhu cầu cuộc sống. Khả năng cạnh tranh để chiếm thị phần cũng như tạo được lợi nhuận cao nhất cho doanh nghiệp đang là một vấn đề nóng hổi, đòi hỏi các doanh nghiệp phải biết lựa chọn con đường đi phù hợp đúng đắn, tạo dựng cho mình một vị thế trên thị trường. Các doanh nghiệp tự lựa chọn con đường đi khác nhau cho riêng mình, nhưng chung quy lại họ cần phải nhận biết được tài sản hữu hình, tài sản vô hình, cũng như mối quan hệ tác động qua lại giữa chúng, từ đó khắc phục được ưu nhược điểm của doanh nghiệp, phát triển doanh nghiêp của mình ngày càng lớn mạnh. Không chỉ đối với doanh nghiêp ở tầm vi mô. Ở tầm vĩ mô,nhà nước muốn nền kinh tế tăng trưởng và phát triển một cách bền vững cũng phải chú trọng đến đầu tư vào tài sản hữu hình, tài sản vô hình, mối quan hệ giữa chúng , xác đinh cơ cấu đầu tư hợp lí, từ đó có những kế hoạch nhằm phát triển kinh tế -xã hội.

doc80 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2454 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Mối quan hệ giữa đầu tư vào tài sản vô hình và tài sản hữu hình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU Nền kinh tế nước ta hiên nay đang phát triển theo cơ chế nền kinh tế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước. Nền kinh tế thị trường với đa dạng sản phẩm,chủng loại,phù hợp với nhu cầu cuộc sống. Khả năng cạnh tranh để chiếm thị phần cũng như tạo được lợi nhuận cao nhất cho doanh nghiệp đang là một vấn đề nóng hổi, đòi hỏi các doanh nghiệp phải biết lựa chọn con đường đi phù hợp đúng đắn, tạo dựng cho mình một vị thế trên thị trường. Các doanh nghiệp tự lựa chọn con đường đi khác nhau cho riêng mình, nhưng chung quy lại họ cần phải nhận biết được tài sản hữu hình, tài sản vô hình, cũng như mối quan hệ tác động qua lại giữa chúng, từ đó khắc phục được ưu nhược điểm của doanh nghiệp, phát triển doanh nghiêp của mình ngày càng lớn mạnh. Không chỉ đối với doanh nghiêp ở tầm vi mô. Ở tầm vĩ mô,nhà nước muốn nền kinh tế tăng trưởng và phát triển một cách bền vững cũng phải chú trọng đến đầu tư vào tài sản hữu hình, tài sản vô hình, mối quan hệ giữa chúng , xác đinh cơ cấu đầu tư hợp lí, từ đó có những kế hoạch nhằm phát triển kinh tế -xã hội. Những năm gần đây, vấn đề đầu tư vào tài sản vô hình và tài sản hữu hình đã thực sự hợp lý chưa ? có đóng góp như thế nào đối với sự tăng trưởng kinh tế ? còn tồn tại những vấn đề gì ? làm thế nào để đạt được hiệu quả cao nhất ? sẽ được làm rõ qua đề tài  ‘ Mối quan hệ giữa đầu tư vào tài sản vô hình và tài sản hữu hình” dưới đây. Trong quá trình nghiên cứu, bài làm của chúng em còn nhiều thiếu sót. Rất mong được sự góp ý của thầy và các bạn. Chúng em xin chân thành cảm ơn PGS.TS Từ Quang Phương, TS Phạm Văn Hùng đã giúp đỡ chúng em hoàn thành đề tài này. CHƯƠNG I CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐẦU TƯ VÀO TÀI SẢN VÔ HÌNH VÀ TÀI SẢN HỮU HÌNH I.Tài sản vô hình và tài sản hữu hình 1. Khái niệm: - Tài sản: Tài sản là một khái niệm pháp lý bao gồm tất cả các quyền, quyền lợi, lợi nhuận có liên quan đến quyền sở hữu, bao gồm: quyền sở hữu cá nhân, nghĩa là chủ sở hữu được hưởng những quyền lợi, lợi ích nhất định khi làm chủ sở hữu tài sản đó. (Theo ủy ban thẩm định giá quốc tế - IVSC). Căn cứ vào tính có hay không có tính chất vật lý tài sản có thể chia thành tài sản vô hình (TSVH) và tài sản hữu hình (TSHH). - TSHH là những tài sản thuộc sở hữu của doanh nghiệp, xí nghiệp… mang thuộc tính vật chất. Ví dụ như: nhà xưởng, máy mọc, dụng cụ, thiết bị, nguyên nhiên vật liệu, hay những tài sản trong xây dựng và phát triển, có khả năng mang lại lợi nhuận cho chủ sở hữu một cách trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua sản phẩm được sản xuất ra. - TSVH là những tài sản tự biểu lộ, thể hiện thông qua những đặc điểm kinh tế của chúng. Những tài sản này không có hình thái vật chất nhưng có thể tạo ra được những lợi thế và quyền hạn để mang lại giá trị kinh tế cho người sở hữu nó. 2. Đặc điểm của tài sản vô hình và tài sản hữu hình 2.1. Đặc điểm của tài sản vô hình - TSVH là những tài sản không mang hình thái cụ thể, chúng ta không thể cầm nắm được. Nó không thể nhìn thấy hay cảm nhận được bằng mùi vị, màu sắc nhưng chúng ta có thể cảm nhận được bằng trực giác của mình. Nó mang lại những giá trị khác với giá trị sử dụng thông thường. - Giá trị của TSVH gắn với những yếu tố thuộc về tâm lý, do vậy giá trị của nó phụ thuộc vào đời sống của người dân, thời điểm và ảnh hưởng của phần tài sản vô hình tác động đến họ trong thời điểm đó và vị thế của họ trong xã hội. -Tài sản vô hình gắn liền với chủ thể nhất định và mang lợi ích của chủ thể đó. 2.2. Đặc điểm của tài sản hữu hình - Tồn tại ở hình thái vật chất cụ thể: tài sản hữu hình do doanh nghiệp nắm giữ để sử dụng cho hoạt động sản xuất kinh doanh, từ nguyên liệu vật liệu sử dụng những tài sản này để tạo ra sản phẩm nên những tài sản này chúng ta có thể dễ dàng nhìn thấy và nhận biết được - Khó di dời: do tài sản hữu hình thường là nhà cửa, vật kiến trúc, máy móc thiết bị, phương tiện vận tải, thiết bị, dụng cụ…được hình thành sau quá trình thi công xây dựng hoặc được dùng trong sản xuất kinh doanh nên thường khó di chuyển - Có thể dễ dàng định giá tài sản: Tài sản hữu hình được đánh giá lần đầu và có thể đánh giá lại trong quá trình sử dụng. Tài sản hữu hình được tính giá theo nguyên giá (giá trị ban đầu), giá trị đã hao mòn và giá trị còn lại. Nguyên giá là toàn bộ các chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra để có được tài sản hữu hình tính đến thời điểm đưa tài sản đó vào trạng thái sẵn sàng sử dụng Giá trị đã hao mòn (Giá trị phải khấu hao) là nguyên giá của tài sản hữu hình ghi trên báo cáo tài chính trừ đi giá trị thanh lý ước tính của tài sản đó Giá trị thanh lý (Giá trị còn lại) là giá trị ước tính thu được khi hết thời gian sử dụng hữu ích của tài sản sau khi trừ chi phí thanh lý ước tính. II. Đầu tư vào tài sản vô hình và tài sản hữu hình 1. Khái niệm - Đầu tư là việc chi dùng vốn trong hiện tại để tiến hành các hoạt động nhằm tăng thêm hoặc tạo ra những năng lực sản xuất tạo thêm việc làm và vì mục tiêu phát triển. - Đầu tư vào TSHH chính là hoạt động đầu tư vào phần giá trị hữu hình của nhà máy, xí nghiệp nhằm mục đích nâng cao năng suất sản xuất, chất lượng sản phẩm, tiết kiệm chi phí... - Đầu tư vào TSVH là hành động bỏ vốn để nâng cao năng lực, giá trị vai trò của TSVH đối với công ty như thương hiệu, các mối quan hệ, những công nghệ, bí quyết mới bằng cách quảng cáo, mở rộng phạm vi ảnh hưởng, mua lại bản quyền hay tự nghiên cứu sáng chế. 2. Nội dung đầu tư vào tài sản hữu hình và tài sản vô hình 2.1. Đầu tư tài sản hữu hình Đầu tư vao TSHH là một hoạt động đầu tư quan trọng của doanh nghiệp vì nếu không có TSHH thì hoạt động sản xuất kinh doanh sẽ không thể tồn tại. Muốn có hàng hóa con người cần phải sản xuất, để sản xuất chúng ta cần có công cụ, địa điểm và các yếu tố cần thiết. Đầu tư TSHH được chia làm 2 loại: đầu tư xây dựng cơ bản và đầu tư bổ xung hàng tồn trữ. 2.1.1. Đầu tư xây dựng cơ bản Khái niệm: Đầu tư xây dựng cơ bản chính là hoạt động đầu tư nhằm tạo mới hoặc bổ sung, nâng cấp đối với các tài sản cố định của doanh nghiệp. Đây là hoạt động đầu tư chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu đầu tư. Hình thái sử dụng rất rõ nét bao gồm: Chi phí đầu tư ban đầu, đất đai. Chi phí xây dựng sửa chữa nhà cửa, cấu trúc hạ tầng. Chi phí mua sắm, lắp đặt thiết bị, phương tiện vận chuyển. Các chi phí khác: chi phí khảo sát thực tế, bảo vệ môi trường, chi phí kiểm định… Trong phạm vi doanh nghiệp, hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản luôn đóng vai trò quan trọng bởi đây luôn là khoản đầu tư được quan tâm nhiều nhất. những lĩnh vực xây dựng cơ bản được quan tâm đầu tư là: xây dựng nhà xưởng, công trình hay đầu tư mua sắm máy móc thiết bị… Hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản thường sử dụng nhiều vốn, thời gian hoàn vốn lâu nhưng lại có ý nghĩa rất quan trọng bởi nó là yếu tố thiết yếu, có tác động lớn đến sự phát triển của doanh nghiệp cả ở khía cạnh trực tiếp và gián tiếp. Vốn đầu tư cơ bản là số vốn đầu tư để tạo ra tài sản cố định, nó bao gồm vốn đầu tư xây dựng cơ bản và chi phí cho sửa chữa lớn tài sản cố định. Vốn đầu tư xây dựng cơ bản bao hàm những chi phí bằng tiền để xây dựng mới, mở rộng, xây dựng lại hoặc khôi phục năng lực sản xuất của tài sản cố định trong nền kinh tế. Như vậy, vốn đầu tư xây dựng cơ bản bao gồm hai bộ phận hợp thành, vốn đầu tư để mua sắm máy móc thiết bị và vốn đầu tư xây dựng mới tài sản cố định. Đầu tư xây dựng công trình là hoạt động có liên quan đến bỏ vốn ở giai đoạn hiện tại nhằm tạo dựng tài sản cố định là công trình xây dựng để sau đó tiến hành khai thác công trình, sinh lợi với một khoảng thời gian nhất định nào đó ở tương lai. Đối với một doanh nghiệp, hoạt động xây lắp là các hoạt động xây dựng nhà xưởng, văn phòng, nhà ở, bệnh viện… cho cán bộ nhân viên trong từng doanh nghiệp. Riêng đối với các doanh nghiệp xây lắp thì các sản phẩm của họ không phải là đầu tư phát triển trên góc độ doanh nghiệp nếu nó không phục vụ cho người lao động của doanh nghiệp đó. Hoạt động đầu tư mua sắm máy móc, thiết bị cũng là một lĩnh vực chính của đầu tư xây dựng cơ bản trong doanh nghiệp vì nó chiếm một lượng vốn tương đối lớn và diễn ra thường xuyên trong nhiều năm. Đầu tư mua sắm trang thiết bị mới làm tăng năng suất lao động cao hơn hoặc sản phẩm sản xuất ra có tính cạnh tranh cao hơn. 2.1.2 Đầu tư vào hàng tồn trữ a) Khái niệm Đầu tư vào hàng tồn trữ là khoản chi cho các hàng hóa tồn tại dưới dạng nguyên nhiên vật liệu, bán thành phẩm phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. b) Nguyên nhân đầu tư vào hàng tồn trữ: Đối với các doanh nghiệp hoạt động sản xuất vật chất, hàng dự trữ là một lĩnh vực hết sức quan trọng bởi nó có ý nghĩa trọng yếu đối với hoạt động sản xuất của doanh nghiệp. Một quy mô hàng dự trữ hợp lý tránh cho doanh nghiệp không bị tác động bởi những biến động của thị trường, đồng thời sử dụng các nguồn lực: vốn, công nghệ… hiệu quả hơn. Đồng thời, đầu tư vào hàng dự trữ còn giúp doanh nghiệp tăng lợi nhuận và hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Ngoài ra đầu tư vào hàng tồn trữ là rất cần thiết do nó có thể giảm được thời gian cần thiết đáp ứng nhu cầu, làm ổn định mức sản xuất của doanh nghiệp trong khi nhu cầu biến đổi và bảo vệ doanh nghiệp trước những dự báo thấp về nhu cầu. c) Dựa trên cơ sở lý luận, vai trò của hàng dự trữ có bốn mặt chủ yếu, biểu hiện cụ thể ở bốn loại hàng tồn kho cơ bản: Quay vòng tồn kho: mỗi khi sản xuất và đặt hàng là một lần đặt ra một số lượng lô nhất định, mà không phải là mỗi lần một lô, kiểu tồn kho được hình thành từ tính chu kỳ của số lượng lô được gọi là quay vòng tồn kho. Lượng tồn kho dự phòng: hay còn gọi là lượng tồn kho bảo hiểm, là lượng tồn kho nhất định mà nhà sản xuất chuẩn bị để ứng phó với tính không ổn định của nhu cầu và tính không ổn định của cung ứng, nhằm tránh sự tổn thất do thiếu hàng gây nên. Nếu như nhà sản xuất có thể dự đoán được sự thya đổi về nhu cầu trong tương lai hoặc có thể xác định được số lượng và thời gian hàng tương ứng, thì không cần phải thiết lập lượng tồn kho dự phòng. Số lượng tồn kho dự phòng ngoài việc chịu ảnh hưởng của sự bất ổn định về nhu cầu và cung ứng, còn liên quan đến việc doanh nghiệp hy vọng đáp ứng kịp thời nhu cầu của khách hàng. Đây là nhân tố xem xét chính khi đưa ra quyết sách về lượng tồn kho dự phòng. Tồn kho vận chuyển: là sự tồn kho giữa hai đơn vị công tác hoặc hai tổ chức tiêu thụ gần nhau, bao gồm lượng tồn kho trong quá trình vận chuyển và lượng tồn kho tạm dừng giữa hai nơi. Tồn kho vận chuyển được quyết định bởi số lượng lô vận chuyển và thời gian vận chuyển. Lượng tồn kho dự định theo thời kỳ: do đặc điểm mang tính thời vụ của nhu cầu hoặc tính thời vụ của việc mua sắm, nên doanh nghiệp buộc phải sản xuất, tích trữ hoặc bán hàng vào mùa bán ế để duy trì và tăng cường và phục vụ khách hàng vào mùa bán chạy, hoặc tăng cường lượng tồn kho của mùa thu hoạch. Do vậy, nguyên nhân quyết định lượng tồn kho dự đinh theo thời kỳ, ngoài chi phí mang tính cơ hội của việc khan hàng hết hàng, còn phải xét đến chi phí tăng thêmkhi sản xuất ổn định ( chi phí khấu hao, khi thiết bị sản xuất ngừng nghỉ, lương công nhân rảnh rỗi và các chi phí phát sinh khác…). Dựa trên cơ sở thực tiễn, vai trò của hàng dự trữ được biểu hiện trong mối quan hệ giữa việc khống chế lượng hàng dự trữ trong kho và hai loại nhu cầu: nhu cầu độc lập và nhu cầu phụ thuộc: - Nhu cầu độc lập: là nhu cầu do thị trường quyết định. Ví dụ: nhu cầu đối với các thành phẩm như xe ô tô, máy giặt gia dụng và linh kiện dễ hỏng như tấm phanh xe, vòng đệm cao su. Những lúc này nhu cầu nào sẽ nảy sinh? Mỗi lần bao nhiêu? Không theo kế hoạch sắp xếp của doanh nghiệp, nó được gọi là nhu cầu độc lập. tuy nhiên với phạm vi dao động và xu hướng thay đổi nhất định trong một khoảng thời gian cùng những đặc trưng thay đổi, nhu cầu này có thể dự đoán thông qua những số liệu lich sử và các nhân tố tương quan khác. - Nhu cầu phụ thuộc: là nhu cầu do nhu cầu của sản phẩm cuối cùng hoặc hạng mục khác quyết định, nó có thể đoán trước và có thể khống chế được. Ví dụ như: với một số lượng máy giặt cần phải sản xuất cho trước, thì số lượng nhu cầu của nguyên vật liệu hoặc linh kiện như thùng giặt, máy định giời, động cơ điện, hoàn toàn có thể được quyết định căn cứ vào linh kiện, vì vậy được gọi là nhu cầu phụ thuộc. Tóm lại: Nhu cầu xuất phát từ bên ngoài doanh nghiệp hay từ thị trường là nhu cầu độc lập, còn gọi là nhu cầu khách hàng, những nhu cầu này nảy sinh từ yêu cầu sản xuất bên trong doanh nghiệp gội là nhu cầu phụ thuộc, hay còn  gọi là nhu cầu sản xuất. Nhu cầu độc lập có tính tuỳ cơ ứng biến cho nên chỉ có thể dựa trên dự đoán để tính toán. Nhu cầu phụ thuộc có tính xác định, đặc trưng thay đổi theo thời gian đã được biết trước, vì vậy không cần dự đoán mà chỉ cần xác định theo kế hoạch sản xuất. Đáp ứng sự khác nhau về mặt tính tồn kho của hai loại nhu cầu. Tức là do tính chất tuỳ cơ của nhu cầu độc lập mà ta cần phải thiết lập lượng tồn kho dự phòng nhằm tránh tổn thất do thiếu hàng. Do tính xác định của nhu cầu phụ thuộc, về mặt lý thuyết thì không cần thiết lập lượng tồn kho dự phòng, hơn nữa lý tưởng nhất là tất cả những lượng tồn kho sản xuất đều nên ơe dạng bán thành phẩm. Chính sự khác nhau này đã quy định số lượng từng loại hàng dự trữ ở những thời điểm khác nhau của chu kỳ kinh doanh của doanh nghiệp. Đồng thời khẳng định lại vai trò rất quan trọng của hàng dự trữ và vấn đề khống chế hàng dự trữ trong việc quay vòng vốn, tiết kiệm chi phí, ổn định sản xuất và đáp ứng nhu cầu luôn biến đổi của khách hàng. * Đầu tư vào hàng dự trữ có thể có thể được phân thành 2 loại chi phí chủ yếu sau: - Chi phí bảo tồn hàng được tạo bởi: + Chi phí cơ hội sử dụng vốn: thông thường được xác định dựa trên tỷ lệ lãi suất đầu tư, trong tình huống đơn giản hoá, có thể sử dụng tỷ lệ lãi suất với kỳ hạn tương ứng để thay thế. + Chi phí bảo hiểm và chi phí hao mòn cơ sở hạ tầng kho bãi… + Chi phí mất mát, hư hỏng và không có hiệu quả của hàng tồn. Chi phí về mặt này sữ có sự chênh lệch rất lớn dựa trên tính chất khác nhau của hàng tồn, ví dụ như lỗi của hàng điện tử tương đối cao, mà chi phí tổn thất của thực phẩm lại còn cao hơn. Do chi phí cơ hội của vốn và chi phí hỏng hóc, mất hiệu quả luôn chiếm đa số tỷ lệ của phí bảo tồn. Vi vậy các doanh nghiệp thường theo thói quen, đem chi phí bảo tồn thể hiện là hình thức tỷ lệ thuận với giá cả mua bán của đơn vị hàng tồn. - Chi phí đặt hàng: Là chi phí bình quân để xử lý nghiệp vụ đặt hàng, bao gồm các tư liệu kỹ thuật sản phẩm cần thiết như sổ ghi chép, thông tin, phán đoán và lương nhân viên đặt hàng, đặc điểm của nó là không liên quan đến số lượng hangf đặt. Trên lĩnh vực sản xuất, chi phí này là chi phí chuẩn bị sản xuất và điển hình máy móc khi thay đổi linh kiện và tác nghiệp, gọi là chi phí chuyển đổi tác nghiệp và chi phí lắp đặt. - Chi phí thiếu hàng: Là những tổn thất do thiếu hàng gây nên. Từ góc độ bán hàng nếu thiếu hàng cung cấp, khách hàng sẽ chuyển sang đặt hàng của doanh nghiệp khác, và hơn nữa, uy tín của doanh nghiệp cũng bị tổn hại nghiêm trọng. Từ góc độ sản xuất, trong quá trình sản xuất, thiếu hàng dẫn đến việc ngừng sản xuất đợi nguyên liệu, ứ đọng bán thành phẩm, kéo dài thời gian giao hàng và dẫn đến ngưng ca…chi phí của nó được tính lần lượt với ảnh hưởng của hoạt động tương ứng. Mặc dù đầu tư bổ sung hàng tồn trữ là rất cần thiết nhưng nếu dự trữ quá nhiều sẽ là doanh nghiệp lãng phí nguồn vốn đầu tư, do vậy cần phải xác định mức tồn kho hợp lý để làm cực tiểu tổng chi phí liên quan đến tồn kho. Đầu tư bổ sung hàng dự trữ chủ yếu là xác định quy mô dự trữ tối ưu. Để xác định được giá trị này, đòi hỏi doanh nghiệp phải có những phân tích chính xác và kịp thời về thị trường, đối thủ cạnh tranh hay các xu hướng sắp tới. Chi phí cho hoạt động đầu tư vào hàng dự trữ là khoản lãi trả cho khoản tiền đáng bỏ ra để mua chúng. Đây cũng sẽ là một áp lực lớn đối với các doanh nghiệp bởi nếu như lượng vốn đầu tư cho hàng dự trữ lớn sẽ làm giảm hiệu quả đầu tư. Tiêu chí đánh giá hiệu quả đầu tư vào tài sản hữu hình a) Khái niệm hiệu quả đầu tư Hiệu quả đầu tư là phạm trù kinh tế biểu hiện quan hệ so sánh giữa các kết quả kinh tế - xã hội đã đạt được của hoạt động đầu tư với các chi phí phải bỏ ra để có các kết quả đó trong một thời kỳ nhất định Hiệu quả của hoạt động đầu tư được đánh giá thông qua các chỉ tiêu đo lường hiệu quả. Việc xác định các chỉ tiêu này phụ thuộc vào mục tiêu của chủ đầu tư đưa ra Hiệu quả đầu tư được đánh giá là có hiệu quả khi trị số của các chỉ tiêu đo lường hiệu quả thỏa mãn tiêu chuẩn hiệu quả trên cơ sở sử dụng các định mức hiệu quả do chủ đầu tư định ra b) Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả của đầu tư Hệ thống đánh giá hiệu quả tài chính của đầu tư gồm có: - Chỉ tiêu lợi nhuận thuần, thu nhập thuần của dự án + Chỉ tiêu lợi nhuận thuần được tính cho tưng năm, cho cả đời dự án hoặc bình quân năm của đời dự án Lợi nhuận thuần từng năm được xác định như sau: Wi = Oi - Ci Trong đó: Wi : Lợi nhuận thuần năm i Oi : Doanh thu thuần năm i Ci : Các chi phí ở năm i + Tổng lợi nhuận thuần: PV(W) PV(W) = = W1 + W2 + …+ Wn  Lợi nhuận thuần bình quân:   + Chỉ tiêu thu nhập thuần: NPV: Thu nhập thuần của dự án thường được tính chuyển về mặt bằng hiện tại đầu thời kỳ phân tích - Chỉ tiêu tỷ suất sinh lời của vốn đầu tư: phản ánh mức lợi nhuận thuần hoặc thu nhập thuần (tính cho cả đời dự án) thu được từ một đơn vị vốn đầu tư phát huy tác dụng - Chỉ tiêu tỷ suất sinh lời vốn tự có: Vốn tự có là một bộ phận của vốn đầu tư, là một yếu tố cơ bản để xem xét tiềm lực tài chính cho việc tiến hành các công cuộc đầu tư. Tỷ suất sinh lời vốn tự có càng cao thì hoạt động đầu tư càng có hiệu quả - Chỉ tiêu số lần quay vòng của vốn lưu động: Vốn lưu động là một bộ phận của vốn đầu tư. Vốn lưu động quay càng nhanh, càng cần ít vốn và do đó càng tiết kiệm vốn đầu tư. Nếu trong điều kiện khác không đổi thì hiệu quả sử dụng vốn càng cao - Chỉ tiêu tỷ số lợi ích - chi phí: B/C - Chỉ tiêu thời gian thu hồi vốn đầu tư: T - Chỉ tiêu tỷ suất hoàn vốn nội bộ: IRR - Chỉ tiêu điểm hòa vốn c) Kết quả và hiệu quả của việc đầu tư vào TSHH Kết quả và hiệu quả của việc đầu tư vào TSHH gồm có: - Khối lượng vốn đầu tư thực hiện: là tổng số tiền đã chi để tiến hành các hoạt động của các công cuộc đầu tư bao gồm các chi phí cho công tác xây dựng, chi phí cho công tác mua sắm và lắp đặt thiết bị, chi phí quản lý và chi phí khác - Tài sản cố định huy động và năng lực sản xuất phục vụ tăng thêm + Tài sản cố định huy động là công trình hay hạng mục công trình, đối tượng xây dựng có khả năng phát huy tác dụng độc lập (làm ra sản phẩm hàng hóa hoặc tiến hành các hoạt động dịch vụ) đã kết thúc quá trình xây dựng, mua sắm, đã làm xong thủ tục nghiệm thu sử dụng, có thể đưa vào hoạt động được ngay + Năng lực sản xuất phục vụ tăng thêm: Khi các tài sản cố định được huy động vào sử dụng, chúng đã làm gia tăng năng lực sản xuất, phục vụ cho nền kinh tế. Năng lực sản xuất phục vụ tăng thêm là khả năng đáp ứng nhu cầu sản xuất, phục vụ của các tài sản cố định đã được huy động vào sử dụng để sản xuất ra sản phẩm hoặc tiến hành các hoạt động dịch vụ. Năng lực sản xuất phục vụ được thể hiện ở công suất hoặc năng lực phát huy tác dụng của các tài sản cố định được huy động 2.2. Đầu tư vào tài sản vô hình Trong doanh nghiệp, TSVH ngày càng được quan tâm đầu tư, nhất là trong điều kiện xã hội ngày nay. Tài sản vô hình trong doanh nghiệp có thể là thương hiệu, phát minh sáng chế, bí quyết công nghệ hay các quyền lợi khác được pháp luật bảo hộ… Tài sản vô hình ngày càng trở nên quan trọng bởi nó là một lợi thế cạnh tranh vô cùng hữu hiệu khi mà các tài sản vật chất tạo ra ít lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp. Chính vì vậy, hoạt động đầu tư vào tài sản vô hình ngày càng được chú ý. 2.2.1.Đầu tư phát triển nhân lực Đầu tư phát triển nhân lực là hoạt động mở rộng quy mô hoặc nâng cao chất lượng đội ngũ nhân lực làm việc trực tiếp tại các doanh nghiệp thông qua các hoạt động đào tạo, đầu tư cho công tác chăm sóc sức khỏe người lao động… Nguồn nhâ
Luận văn liên quan