Tăng trưởng và phát triển kinh tế luôn là mục tiêu hướng tới của nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Từ khi giành được độc lập năm 1975 và đặc biệt là từ sau năm 1986, khi Việt Nam thực hiện chính sách đổi mới, Đảng và Nhà nước ta luôn đặt mục tiêu phát triển kinh tế lên hàng đầu với định hướng đến năm 2020 Việt Nam sẽ cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Để đạt được mục tiêu trên thì đầu tư là một yếu tố cực kỳ quan trọng vì đầu tư, nói rõ hơn là đầu tư phát triển, không những làm gia tăng tài sản của cá nhân nhà đầu tư, mà còn trực tiếp làm gia tăng tài sản vật chất cho nền kinh tế, có tác động rất mạnh mẽ đến phát triển kinh tế.
Trong những năm gần đây, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế tương đối cao, đặc biệt năm 2007, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt mức cao nhất trong lịch sử: 8,5%, những năm 2008, 2009 mặc dù chịu ảnh hưởng chung của suy thoái kinh tế, song tăng trưởng kinh tế vẫn ổn định ở mức ở mức 6.15% và 5.32%. Một vấn đề cấp thiết được đặt ra là làm thế nào để duy trì tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế ấy trong một thời gian dài.
70 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 4560 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Mối quan hệ qua lại giữa đầu tư với tăng trưởng và phát triển kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Tăng trưởng và phát triển kinh tế luôn là mục tiêu hướng tới của nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Từ khi giành được độc lập năm 1975 và đặc biệt là từ sau năm 1986, khi Việt Nam thực hiện chính sách đổi mới, Đảng và Nhà nước ta luôn đặt mục tiêu phát triển kinh tế lên hàng đầu với định hướng đến năm 2020 Việt Nam sẽ cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Để đạt được mục tiêu trên thì đầu tư là một yếu tố cực kỳ quan trọng vì đầu tư, nói rõ hơn là đầu tư phát triển, không những làm gia tăng tài sản của cá nhân nhà đầu tư, mà còn trực tiếp làm gia tăng tài sản vật chất cho nền kinh tế, có tác động rất mạnh mẽ đến phát triển kinh tế.
Trong những năm gần đây, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế tương đối cao, đặc biệt năm 2007, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt mức cao nhất trong lịch sử: 8,5%, những năm 2008, 2009 mặc dù chịu ảnh hưởng chung của suy thoái kinh tế, song tăng trưởng kinh tế vẫn ổn định ở mức ở mức 6.15% và 5.32%. Một vấn đề cấp thiết được đặt ra là làm thế nào để duy trì tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế ấy trong một thời gian dài.
Từ thực trạng kinh tế Việt Nam trong những năm qua cần có một cái nhìn tổng quan và đánh giá đúng đắn về mối quan hệ qua lại giữa đầu tư với tăng trưởng và phát triển. Nhận thức được tính chất quan trọng của vấn đề, chúng tôi lựa chọn đề tài: “Mối quan hệ qua lại giữa đầu tư với tăng trưởng và phát triển kinh tế”, với mục đích làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về tác động của đầu tư đến tăng trưởng, phát triển kinh tế và ngược lại. Trên cơ sở đó đưa ra một số giải pháp nhằm phát huy tối đa mối quan hệ này để phục vụ cho sự nghiệp phát triển đất nước.
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ MỐI QUAN HỆ QUA LẠI GIỮA ĐẦU TƯ VỚI TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ
I. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CHUNG
1. Đầu tư
1.1 Khái niệm
Trên góc độ kinh tế học vĩ mô: Đầu tư là hoạt động mua “tư bản hiện vật” như máy móc, xây dựng nhà xưởng… nhằm thay thế một phần tài sản đã hao mòn để nâng cao năng lực sản xuất của doanh nghiệp.
Đầu tư nói chung là sự hi sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó. Như vậy mục tiêu của mọi công cuộc đầu tư là đạt được các kết quả lớn hơn so với những hi sinh về nguồn lực mà người đầu tư phải gánh chịu khi tiến hành đầu tư. Nguồn lực phải hi sinh đó có thể là tiền, là tài nguyên thiên nhiên, là sức lao động và trí tuệ.
Tóm lại, đầu tư là việc sử dụng phối hợp các nguồn lực vào các hoạt động nào đó nhằm đem lại lợi ích hoặc mục tiêu, mục đích của chủ đầu tư.
1.2 Phân loại
Hoạt động đầu tư được chia thành ba loại: Đầu tư phát triển, đầu tư tài chính, đầu tư thương mại.
Đầu tư tài chính và đầu tư thương mại là hoạt động đầu tư chỉ trực tiếp làm tăng tài sản tài chính của người đầu tư, tác động gián tiếp đến làm tăng tài sản của nền kinh tế thông qua sự góp tài chính tích lũy của các hoạt động đầu tư này cho đầu tư phát triển, cung cấp vốn cho hoạt động đầu tư phát triển và thúc đẩy quá trình lưu thông phân phối các sản phẩm do kết quả của quá trình đầu tư phát triển tạo ra.
Đầu tư phát triển là hoạt động cơ bản của đầu tư, là việc chi dùng vốn trong hiện tại để tiến hành các hoạt động nhằm tăng thêm hoặc tạo ra những tài sản vật chất (nhà xưởng, thiết bị, …) và tài sản trí tuệ (tri thức, kĩ năng, …), gia tăng năng lực sản xuất, tạo thêm việc làm và vì mục tiêu phát triển.
Ba loại hình đầu tư này luôn luôn tồn tại trong nền kinh tế và có mối quan hệ tương hỗ với nhau. Đầu tư phát triển tạo tiền đề để tăng tích lũy, phát triển hoạt động đầu tư tài chính và đầu tư thương mại. Ngược lại, đầu tư tài chính và đầu tư thương mại hỗ trợ và tạo điều kiện để tăng cường đầu tư phát triển.
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này, chúng ta tập trung chủ yếu vào hoạt động đầu tư phát triển.
2. Tăng trưởng và phát triển kinh tế
2.1 Tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng thu nhập của nền kinh tế trong một khoảng thời gian nhất định (thường là một năm). Sự tăng trưởng thể hiện ở quy mô và tốc độ. Quy mô tăng trưởng phản ánh sự gia tăng nhiều hay ít, còn tốc độ tăng trưởng được sử dụng với ý nghĩa so sánh tương đối và phản ánh sự gia tăng nhanh hay chậm giữa các thời kì. Như vậy, bản chất của tăng trưởng là phản ánh sự thay đổi về lượng của nền kinh tế.
Có rất nhiều chỉ tiêu để đánh giá sự tăng trưởng kinh tế như: Tổng giá trị sản xuất (GO- Gross Output); Tổng sản phẩm quốc nội (GDP – Gross Domestic Product); Tổng thu nhập quốc dân (GNI – Gross National Income); Thu nhập quốc dân (NI – National Income); Thu nhập quốc dân khả dụng (NDI – National Disposable Income); thu nhập bình quân đầu người (GDP/người)…
2.2 Phát triển kinh tế
Hiện nay mọi quốc gia đều phấn đấu vì mục tiêu phát triển và trải qua thời gian, khái niệm về phát triển cũng đã đi đến thống nhất. Phát triển kinh tế được hiểu là quá trình biến đổi cả về lượng và chất, nó là sự kết hợp chặt chẽ quá trình hoàn thiện của hai vấn đề kinh tế và xã hội ở mỗi quốc gia. Theo cách hiểu như vậy, phát triển phải là một quá trình lâu dài và do các nhân tố nội tại của nền kinh tế quyết định. Nội dung của phát triển kinh tế được khái quát theo ba tiêu thức:
Một là, sự gia tăng tổng mức thu nhập của nền kinh tế và mức gia tăng thu nhập bình quân trên đầu người. Đây là tiêu thức thể hiện quá trình biến đổi về lượng của nền kinh tế, là điều kiện cần để nâng cao mức sống vật chất của một quốc gia và thực hiện những mục tiêu khác của phát triển.
Hai là, sự biến đổi theo đúng xu thế của cơ cấu kinh tế. Đây là tiêu thức phản ánh sự biến đổi về chất kinh tế của một quốc gia. Để phân biệt các giai đoạn phát triển kinh tế hay so sánh trình độ phát triển kinh tế giữa các nước với nhau, người ta thường dựa vào dấu hiệu về dạng cơ cấu ngành kinh tế mà quốc gia đó đạt được.
Ba là, sự biến đổi ngày càng tốt hơn trong các vấn đề xã hội. Mục tiêu cuối cùng của sự phát triển kinh tế trong các quốc gia không phải là tăng trưởng hay chuyển dịch cơ cấu kinh tế mà là việc xóa bỏ nghèo đói, suy dinh dưỡng, sự tăng lên của tuồi thọ bình quân, khả năng tiếp cận đến các dịch vụ y tế, nước sạch, trình độ dân trí giáo dục của quảng đại quần chúng nhân dân v.v… Hoàn thiện các tiêu chí trên là sự thay đổi về chất xã hội của quá trình phát triển.
2.3 Phát triển bền vững
Phát triển nhanh phải đi đôi với phát triển bền vững, hai mặt tác động lẫn nhau được thể hiện ở cả tầm vĩ mô và vi mô, ở cả tầm ngắn hạn và dài hạn. Phát triển bền vững là quá trình phát triển có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý, hài hòa giữa ba mặt của sự phát triển gồm : Tăng trưởng kinh tế, cải thiện các vấn đề xã hội và bảo vệ môi trường.
Phát triển kinh tế về mặt lượng phải đi liền với nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Trong khi khai thác các yếu tố phát triển theo chiều rộng, phải đặc biệt coi trọng các yếu tố phát triển theo chiều sâu. Phải gắn tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hoá, phát triển toàn diện con người, thực hiện dân chủ, tiến bộ và công bằng xã hội, tạo nhiều việc làm, cải thiện đời sống, khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xoá đói, giảm nghèo. Từng bước thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng. Phải rất coi trọng bảo vệ và cải thiện môi trường ngay trong từng bước phát triển, không gây ô nhiễm và huỷ hoại môi trường. Phát triển kinh tế phải đi đôi với việc bảo đảm ổn định chính trị - xã hội; ổn định chính trị - xã hội là tiền đề, điều kiện để phát triển nhanh và bền vững.
II. MỐI QUAN HỆ QUA LẠI GIỮA ĐẦU TƯ VỚI TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ
1.Đầu tư tác động đến tăng trưởng và phát triển kinh tế
1.1 Đầu tư tác động về mặt tăng trưởng kinh tế
1.1.1 Đầu tư phát triển tác động đến tổng cung của nền kinh tế
Hàm tổng cung- hàm số nêu lên mối quan hệ giữa sự tăng lên của đầu ra với sự tăng lên của các yếu tố đầu vào (vốn, lao động, tài nguyên thiên nhiên và khoa học công nghệ) của nền kinh tế được biểu diễn như sau:
Y= f (K, L, R, T)
Một dạng khác là hàm Cobb– Douglas có dạng:
Y = T. Kα . Lβ . Rγ . T
Ở đây α, β, γ là các số lũy thừa, phản ánh tỷ lệ cận biên của các yếu tố đầu vào. Ta thiết lập được mối quan hệ theo tốc độ tăng trưởng của các biến số như sau:
g = t + αk + βl + γr
Trong đó: g: Tốc độ tăng trưởng của GDP
k, l, r lần lượt là tốc độ tăng trưởng của các yếu tố đầu vào
t: phần dư còn lại, phản ánh tác động của khoa học công nghệ
Như vậy, có thể thấy 4 nhân tố của hàm sản lượng là K, L, R, T. Mối quan hệ đầu tư tác động đến 4 nhân tố này thông qua đó làm tăng sản lượng (quan hệ tác động thuận chiều) được cụ thể hóa bằng những phân tích lý luận dưới đây:
a. Đầu tư vào vốn
Vai trò của vốn đầu tư đến nền kinh tế còn được thể hiện ở những lý thuyết kinh tế qua các thời đại. Có rất nhiều nhà kinh tế chứng minh vai trò của vốn đầu tư đến tăng trưởng và phát triển kinh tế. Tiêu biểu là mô hình Harrod – Domar. Mô hình thể hiện mối gia tăng vốn với tổng sản phẩm.
Mô hình Harrod - Domar giải thích mối quan hệ giữa tốc độ tăng trưởng kinh tế với yếu tố tiết kiệm và đầu tư vốn.
Để xây dựng mô hình, các tác giả đưa ra 2 giả định:
- Lao động đầy đủ việc làm, không có hạn chế với cung lao động.
- Sản xuất tỷ lệ với khối lượng máy móc.
Nếu gọi: Y : Là sản lượng năm t
: Sản lượng gia tăng trong kì
S : Tổng tiết kiệm trong năm
g= : Tốc độ tăng trưởng kinh tế
S= : Tỷ lệ tiết kiệm/GDP
Hệ số k (hệ số ICOR): Tỷ lệ gia tăng của vốn so với sản lượng
Từ công thức: k=
Nếu , ta có : k=
Ta lại có: I = S = s *Y.
Thay vào công thức tính ICOR, ta có:
k=
Từ đây suy ra:
Phương trình phản ánh tốc độ tăng trưởng kinh tế:
Cuối cùng ta có:
Như vậy, theo Harrod - Domar, tiết kiệm là nguồn gốc của tăng trưởng kinh tế. Muốn gia tăng sản lượng với tốc độ g thì cần duy trì tỷ lệ tích luỹ để đầu tư trong GDP là s với hệ số ICOR không đổi. Mô hình thể hiện tiết kiệm S là nguồn vốn của đầu tư I, đầu tư làm gia tăng vốn sản xuất (K), gia tăng vốn sản xuất sẽ trực tiếp gia tăng Y. Cũng lưu ý rằng, do nghiên cứu ở các nước tiên tiến, nhằm xem xét vấn đề: để duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế 1% thì đầu tư phải tăng bao nhiêu, nên những kết luận của mô hình cẩn được kiểm nghiệm kỹ khi nghiên cứu đối với các nước đang phát triển như ở nước ta. Ở những nước đang phát triển, vấn đề không đơn thuần chỉ là duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế như cũ mà quan trọng là phải tăng với tốc độ cao hơn. Đồng thời do thiếu vốn, thừa lao động, họ thường sử dụng nhiều nhân tố khác phục vụ tăng trưởng.
Cụ thể hơn vai trò của vốn đầu tư đối với nền kinh tế được thể hiện như sau:
Vốn đầu tư hợp lý tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế
Các chính sách, cơ chế huy động và phân bổ vốn hợp lý không chỉ góp phần làm gia tăng quy mô vốn trong nền kinh tế mà còn nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, gia tăng mức độ đóng góp của nhân tố vốn trong tốc độ tăng trưởng, do đó, nâng cao được chất lượng tăng trưởng.
Ngược lại, các chủ trương, chính sách đầu tư không hợp lý, năng lực quản lý yếu kém có thể dẫn đến sự mất cân đối trong huy động các nguồn lực, hiệu quả và mức độ đóng góp của các nguồn lực không tương xứng với tiềm năng, dẫn đến những tác động tiêu cực trong tăng trưởng kinh tế, tạo ra chất lượng tăng trưởng không cao. Chẳng hạn, với chính sách bao cấp trong đầu tư (qua chế độ cấp phát vốn, tín dụng…) một mặt sẽ tạo ra sự khan hiếm và lãng phí vốn trong một số đối tượng được bao cấp, phân bổ vốn không hợp lý và dẫn đến hiệu quả đầu tư không cao.
Chính sách đầu tư của một quốc gia, năng lực quản lý hoạt động đầu tư của các cấp. Các yếu tố của môi trường đầu tư và yếu tố thể chế trong nền kinh tế thị trường có tác động mạnh đến hiệu quả sử dụng vốn đầu tư và các nguồn lực khác và sau cùng tác động đến chất lượng tăng trưởng kinh tế.
Tác động của việc sử dụng vốn đầu tư đến năng suất nhân tố tổng hợp TFP
Năng suất nhân tố tổng hợp (Total Factor Productivity – TFP) là chỉ tiêu phản ánh kết quả sản xuất do sử dụng hiệu quả nhân tố vốn và lao động (Các nhân tố hữa hình – được xác định bằng số lượng), do tác động của các yếu tố vô hình như cải tiến quản lý, đổi mới công nghệ, hợp lý hóa sản xuất, nâng cao trình độ lao động… Năng suất nhân tố tổng hợp cho biết mức độ đóng góp vào tăng trưởng kinh tế của các yếu tố đầu vào bao gồm yếu tố vốn đầu tư, lao động và các yếu tố ngoài hai yếu tố này.
Sử dụng vốn đầu tư (một nhân tố đầu vào) hiệu quả có ảnh hưởng đến mức tăng giảm của TFP và do đó tác động đến chất lượng tăng trưởng kinh tế. Tác động của việc sử dụng vốn đầu tư đến chỉ tiêu năng suất nhân tố tổng hợp không chỉ gồm tác động trực tiếp mà còn có sự tác động gián tiếp thông qua việc đầu tư vốn vào nhân tố lao động (một yếu tố đầu vào hữu hình khác) và vào các yếu tố vô hình như nâng cao trình độ quản lý, cải thiện môi trường thể chế … Đầu tư nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trực tiếp làm tăng năng suất lao động và ảnh hưởng nhất định đến năng suất nhân tố tổng hợp do nâng cao trình độ tay nghề, hợp lý hóa quá trình sản xuất, tổ chức lao động… Từ đó có tác động đến chất lượng tăng trưởng kinh tế. Có thể nói, TFP chỉ có thể tăng nhanh khi chất lượng nguồn nhân lực gia tăng.
Tác động của việc sử dụng vốn đầu tư đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH
Cơ cấu kinh tế là tổng thể các yếu tố cấu thành nền kinh tế, liên hệ chặt chẽ, tác động qua lại với nhau trong không gian và thời gian, trong những điều kiện kinh tế xã hội nhất định, được thể hiện cả về mặt định tính và định lượng, phù hợp với mục tiêu đã xác định của nền kinh tế. Sử dụng vốn đầu tư hợp lý, hiệu quả theo cách đầu tư trọng tâm trọng điểm trên cơ sở qui hoạch, kế hoạch đầu tư, xây dựng một cơ chế đầu tư hợp lý có tác dụng quan trọng trong việc chuyển dịnh, đổi mới cơ cấu kinh tế ngành, cơ cấu kinh tế vùng, lãnh thổ, cơ cấu theo các thành phần kinh tế, cơ cấu kinh tế thành thị nông thôn… đồng thời góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cao. Nói cách khác, kết quả của hoạt động sử dụng vốn đầu hợp lý là sự thay đổi cơ cấu kinh tế theo hướng ngày càng hợp lý hơn, phát triển toàn diện hơn và theo hướng CNH, HĐH. Điều này đồng nghĩa với việc nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế.
Vốn đầu tư giúp nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp và của nền kinh tế
Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp và của nền kinh tế được đánh giá qua năng lực cạnh tranh của hàng hóa và dịch vụ mà doanh nghiệp và nền kinh tế tạo ra. Sử dụng vốn đầu tư bất hợp lý, không hiệu quả, công tác qui hoạch, kế hoạch đầu tư còn nhiều yếu kém dẫn đến chất lượng thấp, giá thành sản phẩm cao và năng lực cạnh tranh thấp. Trên góc độ đầu tư, để nâng cao năng lực cạnh tranh, một trong các yếu tố then chốt có tính đột phá là thực hiện đa dạng hóa các nguồn vốn và tăng cường tính cạnh tranh giữa các nguồn vốn huy động. Bản thân các nguồn vốn, một trong những nguồn lực cơ bản cho đầu tư, khi được đặt trong môi trường cạnh tranh và có cơ chế huy động và phân bổ vốn theo tín hiệu của thị trường thì hiệu quả đầu tư mới được chú trọng đúng mức, do đó chất lượng tăng trưởng mới được đề cao.
Tác động của vốn đầu tư đến chất lượng và giá thành sản phẩm
Chất lượng và giá thành sản phẩm là các chỉ tiêu quan trọng phản ánh mặt chất của tăng trưởng kinh tế. Chất lượng và giá thành sản phẩm lại chịu sự tác động lớn của hoạt động tiết kiệm, chống lãng phí thất thoát vốn và việc sử dụng hiệu quả vốn đầu tư.
Tóm lại, hoạt động sử dụng vốn có tác động quan trọng đến tăng trưởng kinh tế cả về mặt số lượng lẫn chất lượng.
b. Đầu tư vào lao động
Nguồn lao động trở thành lợi thế cạnh tranh của nhiều nước trên thế giới trong đó có Việt Nam. Ở những nước này trình độ công nghệ còn nhiều hạn chế, dân số trong độ tuổi lao động chiếm tỷ lệ rất cao. Chính vì vậy, hướng đi tốt nhất là tận dụng lợi thế cạnh tranh của đất nước, tập trung vào những ngành nghề kinh tế sử dụng nhiều lao động, vốn đầu tư chưa phải là nhiều để thúc đầy sản xuất phát triển.
Vai trò hai mặt của lao động trong quá trình phát triển kinh tế
Lao động một mặt là một bộ phận của nguồn lực phát triển, đó là yếu tố đầu vào không thể thiếu của quá trình sản xuất. Mặt khác lao động là một bộ phận của dân số, những người được hưởng lợi ích của sự phát triển kinh tế suy cho cùng đó là tăng trưởng kinh tế nâng cao đời sống vật chất tinh thần của con người.
Lao động với tăng trưởng kinh tế
Vai trò của lao động với tăng trưởng kinh tế được xem xét qua các chỉ tiêu về số lượng lao động, trình độ chuyên môn, sức khỏe và sự kết hợp giữa lao động và các yếu tố đầu vào khác. Các chỉ tiêu được thể hiện tập trung thông qua mức tiền công của người lao động khi tiền công của người lao động tăng có nghĩa chi phí sản xuất tăng lên phản ánh khả năng sản xuất tăng lên. Đồng thời khi mức tiền công tăng làm cho thu nhập có thể sử dụng của người lao động cũng tăng do đó khả năng chi tiêu của người lao động tăng . Ở các nước đang phát triển, mức tiền công của người lao động nói chung là thấp do đó ở những nước này lao động chưa phải là động lực mạnh cho sự cho sự phát triển. Để nâng cao vai trò của người lao động trong phát triển kinh tế cần thiết có các chính sách nhằm giảm bớt lượng cung lao động, đồng thời tạo ra các nguồn lực một cách đồng bộ.
Đầu tư phát triển nguồn nhân lực là một bộ phận của đầu tư phát triển, nó là việc chi dùng vốn trong hiện tại để tiến hành các hoạt động nhằm nâng cao và khuyến khích đóng góp tốt hơn kiến thức, thể lực của người lao động, để đáp ứng tốt hơn cho nhu cầu sản xuất.
Đầu tư phát triển bao gồm : đầu tư những tài sản vật chất và đầu tư phát triển những tài sản vô hình. Đầu tư phát triển nguồn nhân lực là một trong những nội dung của đầu tư những tài sản vô hình. Đầu tư phát triển nguồn nhân lực bao gồm những nội dung cơ bản sau: đầu tư cho hoạt động đào tạo lực lượng lao động, đầu tư cho công tác chăm sóc sức khỏe y tế, đầu tư cải thiện môi trường, điều kiện làm việc của người lao động …
c. Đầu tư vào tài nguyên thiên nhiên
Tài nguyên thiên nhiên là tất cả các nguồn lực của tự nhiên; bao gồm đất đai, không khí, nước, các loại năng lượng và những khoáng sản nằm trong lòng đất… Con người có thể khai thác và sử dụng những ích lợi do tài nguyên thiên nhiên ban tặng để thoả mãn những nhu cầu đa dạng của mình.
Tài nguyên thiên nhiên là một yếu tố nguồn lực quan trọng
Có thể nói tài nguyên thiên nhiên là yếu tố thúc đẩy sản xuất phát triển, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Trong giai đoạn đầu phát triển, các nước đang phát triển thường quan tâm nhiều đến việc xuất khẩu sản phẩm thô, đó là những sản phẩm được khai thác trực tiếp từ nguồn tài nguyên thiên nhiên của đất nước, chưa qua chế biến hoặc ở dạng sơ chế. Nguồn tài nguyên thiên nhiên cũng là cơ sở để phát triển các ngành sản xuất nông nghiệp, công nghiệp chế biến, các ngành công nghiệp nặng, công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng, thủy tinh, sành sứ… Tài nguyên thiên nhiên chỉ trở thành sức mạnh kinh tế khi con người biết khai thác và sử dụng một cách có hiệu quả.
Tài nguyên thiên nhiên là cơ sở tạo tích lũy vốn và phát triển ổn định
Có nhiều quốc gia nhờ những ưu đãi của điều kiện tự nhiên đa dạng, phong phú nên có thể rút ngắn quá trình tích lũy vốn bằng cách khai thác các sản phẩm thô để bán hoặc để đa dạng hóa nền kinh tế tạo nguồn tích lũy vốn ban đầu cho sự nghiệp công nghiệp hóa đất nước.
Hơn nữa, sự giàu có về tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt về năng lượng giúp cho một quốc gia ít bị lệ thuộc hơn vào các quốc gia khác và có thể tăng trưởng một cách ổn định, độc lập khi thị trường tài nguyên thiên nhiên thế giới bị rơi vào trạng thái bất ổn.
Từ những giá trị to lớn như vậy của tài nguyên thiên nhiên mà hoạt động đầu tư rất cần chú trọng đến lĩnh vực này. Phải biết khai thác thể mạnh của từng ngành, từng vùng mà có hướng đầu tư hợp lý. Vùng có trữ lượng tài nguyên thiên nhiên phong phú thì ta chú trọng vào công tác khai thác nhưng đi kèm là bảo tồn, tránh hoạt động đầu tư khai thác cạn kiệt nguồn tài nguyên. T