Để quản lý công nghệ tốt hơn các nhà khoa học, nhà quản lý vĩ mô,nhà kinh doanh đều thống nhất với nhau về phương pháp phân tích thông qua các yếu tố hàm chứa các giải pháp công nghệ như sau:
a. Phần cứng :
Máy móc,thiết bị,công cụ,hạ tầng kỹ thuật Đây là hình thái vật chất của công nghệ
b. Phần mềm
• Con người:Kiến thức,kỹ năng công nghệ,kinh nghiệm,kỹ năng công nghệ,tính sáng tạo.
• Thông tin : Thiết kế,quy trình,phương pháp,công nghệ,số liệu,hướng dẫn kỹ thuật thể hiện trong các ấn phẩm,bản vẽ các phương tiện lưu trữ thông tin khác.
• Tổ chức : Cơ cấu tổ chức,phạm vi chức năng,trách nhiệm,thẩm quyền,của các thành phần trong bộ máy,cơ cấu điều hành,các chuẩn mực lệ lối quan hệ giữa các cơ quan.trong quản lý công nghệ.
55 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 19637 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số vấn đề chuyển giao công nghệ hiện nay và thực trạng chuyển giao công nghệ tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương I
CÔNG NGHỆ VÀ CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ
Công nghệ
Khái niệm công nghệ
Theo các nhà khoa học : Công nghệ là hệ thống các giải pháp được tạo nên bởi sự ứng dụng các tri thức khoa học để giải quyết một vấn đề thực tiễn.
Theo các nhà kinh tế học : Công nghệ là hệ thống quy trình kỹ thuật chế biến vật chất và/hoặc chế biến thông tin nhằm biến đổi các nguồn lực tự nhiên thành nguồn lực được sử dụng.
Theo các nhà kinh doanh : Công nghệ là những giải pháp và/hoặc tri thức mà con người sử dụng trong hoạt động thực tiễn để đạt được mục đích nhất định,như chế tạo sản phẩm,xây dựng một công trình hay thực hiện một dịch vụ. Công nghệ là tổng hợp các phương tiện để tiến hành một hoạt động sản xuất kinh doanh. Cách hiểu này được sử dụng phổ biến trong thực tế.Cách hiểu này được sử dụng phổ biến trong thực tế.
Các yếu tố cấu thành công nghệ
Để quản lý công nghệ tốt hơn các nhà khoa học, nhà quản lý vĩ mô,nhà kinh doanh đều thống nhất với nhau về phương pháp phân tích thông qua các yếu tố hàm chứa các giải pháp công nghệ như sau:
Phần cứng :
Máy móc,thiết bị,công cụ,hạ tầng kỹ thuật…Đây là hình thái vật chất của công nghệ
Phần mềm
Con người:Kiến thức,kỹ năng công nghệ,kinh nghiệm,kỹ năng công nghệ,tính sáng tạo.
Thông tin : Thiết kế,quy trình,phương pháp,công nghệ,số liệu,hướng dẫn kỹ thuật… thể hiện trong các ấn phẩm,bản vẽ các phương tiện lưu trữ thông tin khác.
Tổ chức : Cơ cấu tổ chức,phạm vi chức năng,trách nhiệm,thẩm quyền,của các thành phần trong bộ máy,cơ cấu điều hành,các chuẩn mực lệ lối quan hệ giữa các cơ quan..trong quản lý công nghệ.
Các thuộc tính của công nghệ
Công nghệ mang tính hệ thống
Không thể nhìn nhận và cắt công nghệ ra từng giải pháp riêng lẽ. Các giải pháp cũng không phải là một số cộng đơn giản mà là các yếu tố cấu thành của một hệ thống.
Các yếu tố công nghệ tác động qua lại lẫn nhau tạo ra “tính trồi” của hệ thống. Có thể thấy mối quan hệ biện chứng của các yếu tố cấu thành công nghệ như sau :
Phần cứng công nghệ do con người tạo ra,lắp đặt và vận hành.
Con người cần có thông tin để có thể vận hành/sử dụng phần cứng.
Thông tin do con người tạo ra và được con người sử dụng trong quá trình ra quyết định và vận hành phần cứng.
Thiết chế là yếu tố liên kết,điều phối,kiểm soát ba yếu tố trên trong quá trình chế biến nhằm đạt đến mục tiêu đã xác định.
Công nghệ mang thuộc tính sinh thể
Công nghệ có những đặc điểm để có thể coi nó như một cơ thể sống. Bất kỳ một loại công nghệ mới nào được hình thành đều trải qua các giai đoạn cơ bản,có quan hệ mật thiết với nhau : Nghiên cứu-Triển khai-Trình diễn-Tăng trưởng-Bão hòa-Lỗi thời và bị thay thế bằng công nghệ khác.
Ngày nay, chu kỳ sống của công nghệ rút ngắn rất nhiều, trước đây trung bình từ 5-10 năm, nay chỉ còn 1-2năm, thậm chí có những công nghệ trong ngành máy tính cứ 6 tháng lại ra một thế hệ mới. Sự cạnh tranh quyết liệt đòi hỏi các doanh nghiệp phải lựa chọn giữa cải tiến công nghệ hiện có để kéo dài chu kỳ sống của công nghệ hoặc nghiên cứu để tạo ra một công nghệ mới về chất và bắt đầu một chu kỳ sống mới. Do vậy, điều cốt yếu là phẳi nắm chắc thị trường, dự đoán được thời hạn khai thác của công nghệ trong từng ngành, từng lĩnh vực cụ thể để có quyết định nhạy bén về chiến lược đầu tư đổi mới công nghệ.
Hơn nữa, quá trình quản lý công nghệ chính là quá trình nuôi dưỡng (đảm bảo cung cấp các yếu tố đầu vào, dịch vụ phụ trợ) , tạo môi trường thuận lợi ( về luật pháp, chính sách, cơ chế…), xử lý các thứ do nó thải ra ( các biện pháp bảo vệ môi trường ). Nếu xem công nghệ như một đối tượng tĩnh, một sản phẩm “chết” trước sau công nghệ sẽ trở thành một gánh nặng cho người sử dụng nó.
Công nghệ mang tính đặc thù
Đặc thù theo mục tiêu
Tuy khái niệm công nghệ rất rộng lớn nhưng rất cụ thể, công nghệ giải quyết một mục tiêu cụ thể. Công nghệ nào sản phẩm ấy, mỗi công nghệ cho phép đạt được một sản phẩm nhất định, với số lượng nhất định, tiêu hao vật tư, lao động nhất định.
Xuất phát từ thuộc tính đặc thù công nghệ, hoạt động nghiên cứu và triển khai (R&D) phải được định hướng như thế nào để đi đến mục tiêu. Mỗi nhà đầu tư lại có mục tiêu khác nhau. Chính vì vậy, đây là bài toán đặt ra cho các nhà đầu tư, quản lý khi hoạch định chính sách công nghệ cho doanh nghiệp cũng như cho quốc gia.
Đặc thù về địa điểm
Mỗi công nghệ đều được “sống” trong một môi trường cụ thể, nhìn bề ngoài giống nhau nhưng khi đặt ở hai vị trí khác nhau, hai nước khác nhau sẽ khác nhau do chịu ảnh hưởng của các yếu tố đặc thù về con người, các yếu tố đầu vào, thị trường, môi trường, văn hoá, xã hội…điều này cho thấy chuyển giao công nghệ không đơn thuần là chuyển dịch công nghệ từ vị trí địa lý này sang vị trí địa lý khác mà là cả một quá trình cải tiến, sửa đổi, thích nghi hoá, “địa phương hoá” cho phù hợp với điều kiện của môi trường mới.
Tính đặc thù của công nghệ dẫn tới môt khái niệm thường được nhắc đến là “tính thích hợp của công nghệ” với tư cách là sự phù hợp với các mục tiêu kinh tế-xã hội, với các điều kiện/lợi thế về nhân lực, trình độ quản lý, tài nguyên thiên nhiên, hạ tầng kỹ thuật, môi trường xung quanh địa điểm tiếp nhận công nghệ.
Tính thích hợp của công nghệ (dù đó là công nghệ cao, trung bình hay thấp) thường được đánh giá một cách chủ quan bởi những chủ thể có liên quan đến quá trình chuyển dịch công nghệ (người mua, người bán, các cơ quan quản lý nhà nước..).Do đó, về thực chất khái niệm này gắn liền với sự lựa chọn về chính sách phát triển công nghệ của một quốc gia nói chung của và từng doanh nghiệp nói riêng.
Công nghệ mang thuộc tính thông tin
Bắt nguồn từ khoa học, công nghệ mang bản chất thông tin. Thông tin công nghệ không dừng lại ở việc mô tả bản chất của các giải pháp công nghệ, mối quan hệ quan lại giữa các yếu tố hàm chứa mà còn tổng hợp nhiều khía cạnh về giá cả, điều kiện áp dụng, khả năng đạt hiệu quả sử dụng công nghệ…để các doanh nghiệp có thể quyết định đầu tư nhằm có được và và sử dụng được công nghệ phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
Phân loại công nghệ
Căn cứ vào mức độ tiên tiến của công nghệ
Chia công nghệ làm 3 loại công nghệ chính:
Công nghệ cao/hiện đại
Công nghệ thường (trung gian)
Công nghệ thấp ( đơn giản)
Một số chỉ tiêu đối với công nghệ cao là :
Áp dụng những giải pháp/kiến thức khoa học mới nhất,sử dụng nhiều phát minh sáng chế mới
Sản phẩm đang ở trong giai đoạn đầu của chu kỳ sống
Trình độ tự động hóa cao
Vận dụng phức hợp nhiều giải pháp công nghệ
Có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của các ngành công nghiệp khác
Công nghệ cao là khái niệm biến đổi theo thời gian và tùy thuộc vào chính sách của từng bên mua,bên bán. Việc đánh giá công nghệ không thể tách rời các yếu tố kỹ thuật ra khỏi các yếu tố thương mại.
Căn cứ vào mức độ hàm lượng các nguồn lực trong công nghệ
Chia làm 3 loại công nghệ chính:
Công nghệ có hàm lượng lao động cao : may mặc,dệt,lắp ráp…
Công nghệ có hàm lượng vốn cao : đóng tàu,cơ khí,khai khoáng…
Công nghệ có hàm lượng tri thức cao : phần mềm,sinh học…
Các nước phát triển và gần đây là các con “rồng” Châu Á đều chuyển dần từ công nghệ có hàm lượng lao động cao sang công nghệ có hàm lượng vốn và cống nghệ có hàm lượng tri thức cao. Đây chính là những “bậc thang công nghệ” mà mỗi quốc gia phải bắt buộc trải qua một cách tuần tự. Vấn đề “nhảy cóc công nghệ” chính là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu,là đòi hỏi sống còn của các nước đang phát triển trong thời đại hiện nay.
Ngoài ra,trong cùng một ngành công nghiệp người ta còn sử dụng khái niệm
Công nghệ sản phẩm : thiết kế như thế nào,biểu hiện ở khả năng áp dụng các tri thức mới.sáng tạo ra các sản phẩm có đặc tính mới…
Công nghệ quá trình : sản xuất như thế nào: biều hiện ở khả năng chế tạo sản phẩm một cách kinh tế bằng cách tăng sản lượng,hạ giá thành…)
Chuyển giao công nghệ
Khái nhiệm chuyển giao công nghệ
Theo nghĩa rộng: chuyển giao công nghệ xảy ra khi yếu tố công nghệ này hay khác được mở rộng phạm vi ứng dụng( thay đổi mục tiêu khác với mục tiêu ban đầu mà mục tiêu công nghệ được tạo ra,dịch chuyển vị trí địa lý,chuyển từ chủ thể này sang chủ thể khác…)
Theo nghĩa hẹp : chuyển giao công nghệ là một sự thỏa thuận giữa hai bên-bên giao và bên nhận-trong đó hai bên phối hợp các hành vi pháp lý hoặc/và các hoạt động thực tiễn mà mục đích và kết quả là bên nhận có những năng lực công nghệ xác định.
Có hai nguồn chuyển giao công nghệ :
Chuyển giao dọc ( R&D) : từ cơ sở nghiên cứu thực nghiệm vào sản xuất. Chuyển giao dọc có ưu điểm là mang đến cho người sản xuất một công nghệ hoàn toàn mới có khả năng cạnh tranh và thành công lớn trên thương trường,nhưng cũng phải chấp nhận một mức độ mạo hiểm tương đối cao.
Chuyển giao ngang (D&D) : qua mua bán công nghệ trên thị trường. Chuyển giao ngang có ưu điểm là độ tin cậy cao,ít mạo hiểm nhưng đòi hỏi bên nhận công nghệ phải có trình độ tiếp nhận cao để tránh những sai lầm trong chuyển giao.
Năng lực công nghệ
Năng lực vận hành,gồm :
Năng lực khai thác,sử dụng và kiểm soát các yếu tố phần cứng.
Năng lực lập kế hoạch thực hiện,kể cả kế hoạch kinh doanh và chương trình sản xuất,đảm bảo chất lượng và kiểm soát hàng tồn kho.
Năng lực liên kết và cung cấp các thông tin hỗ trợ cho các hoạt động doanh nghiệp,
Năng lực xử lý các vấn đề nảy sinh,tiến hành các hoạt động bảo trì,bão dưỡng định kỳ và sửa chữa hỏng hóc.
Năng lực tiếp nhận,gồm:
Năng lực tiến hành nghiên cứu kỹ thuật chi tiết,chuyển hóa các thông số cơ bản của quá trình công nghệ thành những bản vẽ,sơ đồ và yêu cầu thiết bị.
Năng lực xác định một cách độc lập các nguồn lực công nghệ khả dụng.
Năng lực đánh giá các công nghệ thông qua các thông số của quá trình chế biến,các chỉ tiêu kỹ thuật có liên quan,lợi ích kinh tế-xã hội,sự phù hợp với chính sách của chính phủ.
Năng lực xác định phương thức thích hợp nhất khi thực hiện mua sắm và chuyển giao công nghệ.
Năng lực đàm phán về các điều khoản,điều kiện của thỏa thuận chuyền giao công nghệ như giá cả,bảo đảm,bảo hành,lịch trình chuyển giao.
Năng lực hỗ trợ(nuôi dưỡng công nghê),gồm:
Năng lực triển khai dự án
Năng lực phát triển nguồn nhân lực
Năng lực thu hút vốn nhằm phát triển kinh doanh
Năng lực tiếp thị các sản phẩm đầu ra đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng,tìm kiếm và mua sắm các yếu tố đầu vào cần thiết
Năng lực nắm bắt sự thay đổi của môi trường bên ngoài và thực hiện các hoạt động điều chỉnh thích hợp
Năng lực sáng tạo,gồm:
Năng lực thích nghi hóa công nghệ nhập khẩu
Năng lực bắt chước công nghệ nhập khẩu
Năng lực cải tiến công nghệ
Năng lực đổi mới công nghệ hiện có và sáng tạo công nghệ mới
Sự thành công của một vụ chuyển giao công nghệ phụ thuộc rất lớn vào bản thân bên nhận công nghệ. Do đó, để nâng cao năng lực công nghệ của mình,bên nhận công nghệ không chỉ trông chờ vào sự giúp đỡ đơn phương của bên giao nhận công nghệ mà phải nỗ lực học hỏi,tích lũy kiến thức,kỹ năng,kinh nghiệm trong suốt quá trình chuyển giao công nghệ.
Các hoạt động được coi là chuyển giao công nghệ(qua kênh trực tiếp)
Nhượng quyền
Bên giao,thông qua hợp đồng,chuyền giao quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng công nghệ,các dối tượng sở hữu công nghệ gắn liền với công nghệ( như sáng chế,giải pháp hữu ích,kiểu dáng công nghiệp,nhãn hiệu sản phẩm,dịch vụ…)
Quyền sử dụng công nghệ thường đi kèm với những điều kiện hạn chế nhất định,chẳng hạn như :
Phạm vi của quyền : độc quyền hay không độc quyền
Phạm vi tác động : cho một sản phẩm ,cho một số sản phẩm nhất định hay không giới hạn số sản phẩm
Phạm vi thị trường : giới hạn lãnh thổ bán hàng,hoặc không giới hạn.
Phạm vi ứng dụng :chỉ tại hãng chính hay được mở rộng ra các chi nhánh,hoặc mở rộng ra các liên doanh-liên kết,hoặc không giới hạn.
Nhượng quyền cho người thứ ba : không cho phép,chỉ cho phép sau một khoảng thời gian nhất định,hoặc không hạn chế…
Cung cấp thông tin
Chuyển giao qua việc mua bán,cung cấp các đối tượng sau :
Bí quyết kỹ thuật
Phương án công nghệ,qui trình công nghệ
Tài liệu thiết kế sơ bộ và thiết kế kỹ thuật
Công nghệ bản vẽ sơ đồ,bảng biểu,danh mục vật tư
Tài liệu hướng dẫn vận hành và bảo dưỡng
Thông số kỹ thuật hoặc kiến thức kỹ thuật chuyên môn khác
Các thông tin tiếp thị,nhu cầu của khách hàng,tình hình cạnh tranh
Hỗ trợ kỹ thuật,đào tạo và tư vấn công nghệ
Hình thức chuyển giao này được tiến hành dưới các hình thức sau :
Bên chuyển giao công nghệ cử chuyên gia hỗ trợ kỹ thuật lựa chọn công nghệ ,hướng dẫn lắp đặt thiết bị,vận hành thử các dây chuyền thiết bị ,đặc biệt là các thiết bị đồng bộ
Nghiên cứu,phân tích,đánh giá,lựa chọn công nghệ,hỗ trợ đàm phán,ký kết hợp đồng chuyển giao công nghệ
Vấn đề chuyển giao công nghệ,tổ chức và vận hành các quy trình sản xuất
Đào tạo,huấn luyện,nâng cao trình độ chuyên môn và năng lực quản lý của cán bộ quản lý,cán bộ kỹ thuật và công nhân trực tiếp vận hành thiết bị
Thực hiện dịch vụ thu nhập,xử lý và cung cấp thông tin công nghệ
Giá cả trong chuyển giao công nghệ
Phương thức định giá
Bên giao(người bán) thường định giá chuyển giao công nghệ dựa trên “thông lệ” của những trường hợp chuyển giao công nghệ tương tự,dựa trên nhu cầu chia sẻ chi phí nghiên cứu,triển khai để tạo ra và nuôi dưỡng công nghệ,trang trải các chi phí trong bản thân quá trình chuyền giao công nghệ như chuyên gia hỗ trợ kỹ thuật,đào tạo,chuẩn bị tài liệu kỹ thuật…
Bên nhận(người mua) thường định giá chuyển giao công nghệ trên cơ sở hiệu quả tài chính của dự án khi áp dụng được công nghệ chuyển giao.
Trong quá trình đàm phán,giá chuyển giao công nghệ còn được cân nhắc trên nhiều yếu tố, như
Quy mô đầu tư để áp dụng công nghệ
Thời hạn hợp đồng
Tương quan cung-cầu đối với công nghệ tương ứng
Chiều sâu nhượng quyền
Thời hạn hiệu lực của các đối tượng sở hữu công nghiệp
Vị trí của công nghệ trong chu kỳ sống của công nghệ
Tần suất rủi ro có thể xảy ra khi tiến hành công nghệ,nguy cơ cạnh tranh của các sản phẩm đồng loại và thay thế
Các khoản chi phí bổ sung mà bên nhận phải trả để có thể sử dụng công nghệ
Những điều kiện trong hợp đồng
Phương thức thanh toán
Các bên có thể thỏa thuận,lựa chọn một trong các phương thức thanh toán sau:
Góp vốn bằng giá trị công nghệ : giá trị chuyển giao công nghệ được tính thành một số tiền nhất định và phần này được gộp vào phần góp của bên giao trong liên doanh
Trả thời vụ : bên nhận trả định kỳ cho bên giao trong thời hạn hợp đồng một khoản tiền tính theo tỷ lệ phần trăm lợi nhuận sau thuế hoặc phần trăm bán tịnh
Trả gọn : hai bên xác định thanh toán một khoản tiền nhất định ,có thể trả một lần ,hoặc một số lần(thông thường là 3 lần)
Kết hợp trả gọn một phần ,phần còn lại trả theo vụ.
Tính tất yếu của chuyển giao công nghệ quốc tế
Công nghệ là tài sản có giá của các công ty,là một loại hàng hóa, Chuyển giao/mua bán công nghệ là một tất yếu khách quan trong cơ chế thị trường khi có cung,có cầu đối với mua bán công nghệ. Ngày nay, thị trường công nghệ được mở rộng trên phạm vi toàn thế giới.
Đối với bên chuyền giao
Chuyển giao công nghệ quốc tế trước hết xuất phát từ chiến lược của các công ty đang nắm công nghệ duy trì và nâng cao lợi thế cạnh tranh của mình.
Toàn cầu hóa hoạt động
Khi mở rộng thị trường, các công ty phải lựa chọn hai chiến lược :
Sản xuất tập trung: sản xuất sản phẩm tại một nơi,sau đó xuất khẩu sang nước khác.
Chiến lược này thường thấy ở một số sản phẩm,trong một số hoạt động đặc biệt có những đặc trưng sau :
Đòi hỏi quy mô của dự án sản xuất có vốn đầu tư quá lớn
Đòi hỏi quá trình chuyển giao dọc ( R&D) và quá trình sản xuất phải gắn liền với nhau để đảm bảo chất lượng.
Chất lượng của sản phẩm phụ thuộc chủ yếu vào một vài bí quyết “độc đáo” không thể phổ biến ra ngoài nhằm giữ bản quyền tuyệt đối
Do chính sách giữ bí mật quốc gia của chính phủ
Sản xuất phân tán
Đặt nhiều cơ sở sản xuất ở các vị trí gần nguồn nguyên,nhiên liệu hoặc gần thị trường tiêu thụ,hoặc chia quá trình sản xuất ra một sản phẩm thành nhiều công đoạn ở các nước khác nhau nhằm nâng cao được lợi thế cạnh tranh về các mặt sau:
Tận dụng được nhận công rẻ ở các nước đang phát triển
Giảm được đáng kể chi phí vận tải,tồn kho,cung ứng nguyên vật liệu
Giảm được chi phí đầu tư do chuyên môn hóa,phân công lao động quốc tế
Tích lũy được kinh nghiệm và kỹ năng ở nhiều vị trí khác nhau
Mở rộng thị trường,đối phó với các chính sách hạn chế nhập khẩu của các nước có thị trường tiêu thụ
Nắm chắc được diễn biến của nhu cầu,thị hiếu khách hàng,tình hình cạnh tranh…để có thể đáp ứng ngay nhu cầu đa dạng của khách hàng,có sách lược nhạy bén đối phó kịp thời đối với những biến đổi của thị trường
Chiếm lĩnh trước thị trường,gây khó khăn đối với các đối thủ cạnh tranh
Đối phó với những biến động về tỷ giá hối đoái
Tránh những xung đột thương mại với các quốc gia khác
Khuếch trương phạm vi ảnh hưởng,nâng cao uy tín sản phẩm của mình trên thị trường thế giới
Ngày nay,thế giới đang chứng kiến sự toàn cầu hóa hoạt động của các công ty,điển hình là các công ty xuyên quốc gia-TNCs
Để đạt mục tiêu cao nhất là lợi nhuận,sự phân tán hoạt động,phối hợp hoạt động trên toàn cầu của các công ty có công nghệ tất yếu đi kèm với việc chuyển giao công nghệ cho các chi nhánh,liên doanh,các nhà thầu phụ,nhà cung ứng,nhà phân phối ở các nước đang phát triển đối với toàn bộ hoặc một số công đoạn như lắp ráp,bao gói,chế tạo linh kiện phụ tùng,thiết kế mẫu mã,cải tiến sản phẩm,tiếp thị…và từng bước là chuyển giao dọc(R&D)
Thay thế công nghệ đã lạc hậu
Các công ty xuyên quốc gia TNCs từ trước tới nay vẫn theo đuổi chiến lược “ dẫn đầu về công nghệ” bằng cách bỏ chi phí rất lớn cho R&D. Sự dẫn đầu về công nghệ cho phép duy trì lợi thế cạnh tranh ngay cả khi chênh lệch đã giảm đi
Khi áp dụng những công nghệ mới tại hãng chính của các công ty TNCs từ các nước phát triển sẽ thay thế các công nghệ và thiết bị lạc hậu. Mong muốn chuyển giao các công nghệ cũ sang nước khác là tất yếu để có thể tiếp tục thu lợi từ công nghệ đáng ra phải bỏ.
Trong nhiều trường hợp,các công ty ở các nước đang phát triển bằng cách mua các công nghệ đã lạc hậu,thực chất là đang tài trợ cho hoạt động R&D của các công ty ở các nước phát triển để các công ty này sáng tạo ra các công nghệ mới,đẩy khoảng cách về công nghiệp ngày càng xa hơn giữa họ và các nước công nghiệp phát triển.
Lợi ích tương hỗ
Để nâng cao lợi thế cạnh tranh thì ngày nay các công ty phải tập trung vào lĩnh vực nào mà mình có thế mạnh nhất theo xu hướng chuyên môn hóa hẹp(chuyên môn hóa theo quy trình công nghệ). Sự liên minh,liên kết chiến lược,sự phụ thuộc lẫn nhau là một yếu tố thúc đẩy các công ty chuyển giao công nghệ cho nhau để đảm bảo sự phối hợp,tiêu chuẩn hóa các bộ phận cấu thành.
Hơn nữa thông qua chuyển giao công nghệ,các nước đang phát triển tăng cường phát triển kinh tế nâng cao được sức mua hàng công nghiệp và hàng tiêu dùng từ các nước cung cấp công nghệ.
Đối với bên nhận
Các nước đang phát triển đều mong muốn thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa với đặc điểm là sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế : mở rộng khu vực công nghiệp trên cơ sở hiện đại hóa khu vực nông nghiệp,biến đổi cơ cấu của khu vực công nghiệp,trước hết là khu vực công nghiệp chế tạo,trong đó ngành công nghiệp cao ngày càng chiếm vai trò quan trọng. Thực hiện công nghiệp hóa,hiện đại hóa chính là đổi mới công nghệ nhằm chuyển các hoạt động kinh tế từ trạng thái năng suất thấp,hiệu quả thấp,sử dụng lao động thủ công sang một hệ thống tiên tiến cho năng suất cao,hiệu quả cao.
Do trình độ khoa học-kỹ thuật còn thấp,ngân sách hạn hẹp,thiếu đội ngũ chuyên môn,khả năng hạn chế của các ngành chế tạo trong nước ,nên các nước đang phát triển trước đòi hỏi cấp bách của sự phát triển kinh tế đã phải nhập công nghệ(chuyển giao ngang)
Những lợi ích đối với các nước đang phát triển khi nhập công nghệ là:
Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài kèm theo chuyển giao công nghệ
Tiết kiệm được chi phí lớn về nghiên cứu và triển khai R&D
Tiếp cận và sử dụng được ngay những công nghệ tiên tiến hơn những công nghệ đang có tron