Trong thời gian qua, cùng với sự phát triển không ngừng về quy mô của thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam, là sự lớn mạnh của các tổ chức tài chính trung gian, đặc biệt là các công ty chứng khoán (CTCK). Sự trưởng thành của các công ty chứng khoán Việt Nam không chỉ thể hiện về sự tăng trưởng số lượng và quy mô vốn mà còn thể hiện rõ nét qua phương thức và cung cấp dịch vụ cho khách hàng. Các CTCK cho thấy vai trò vô cùng quan trọng của mình đối với sự phát triển chung của nền kinh tế và của thị trường chứng khoán.
Năm 2007 là một năm phát triển vượt bậc của thị trường chứng khoán. Điều này thể hiện trước hết ở quy mô của thị trường. Mục tiêu của Nhà nước là tới năm 2010, vốn hoá của thị trường chiếm 35% GDP. Nhưng riêng năm nay, tổng giá trị vốn hoá thị trường đã đạt trên 43% GDP. Sự trưởng thành vượt bậc của thị trường còn thể hiện ở sự gia tăng số lượng các công ty chứng khoán (hiện nay có khoảng trên 80 công ty chứng khoán hoạt động trên thị trường) và con số hơn 330.000 tài khoản so với hơn 100.000 tài khoản năm 2006. Mặc dù số lượng CTCK đi vào hoạt động năm 2007 tăng gấp 3-4 lần so với năm 2006, nhưng kết quả kinh doanh năm 2007 của nhiều công ty vẫn khá tốt.
Sau quá trình tiếp thu kiến thức tại trường Đại học Kinh tế Quốc dân, và một thời gian thực tập chuyên ngành tại Phòng Môi giới Công ty chứng khoán Ngân hàng TMCP nhà Hà Nội (CTCK Habubank), em đã có cơ hội tìm hiểu thực tiễn công việc, tổng quan về các phòng ban của CTCK Habubank nói chung và cụ thể về hoạt động của phòng môi giới của Công ty nói riêng. Sau hai năm đi vào hoạt động, hoạt động môi giới của CTCK Habubank đã dần khẳng định được vai trò của mình đối với hoạt động của toàn công ty và đã đạt được một số thành công nhất định. Cùng với sự phát triển ngày càng cao của thị trường chứng khoán và nhận thức của nhà đầu tư cũng dần được nâng cao thì việc nâng cao chất lượng của CTCK nói chung và hoạt động môi giới nói riêng là vô cùng quan trọng. Do đó em chọn nghiên cứu đề tài:
“Nâng cao chất lượng hoạt động môi giới tại Công ty chứng khoán Habubank”
83 trang |
Chia sẻ: ducpro | Lượt xem: 2207 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nâng cao chất lượng hoạt động môi giới tại Công ty chứng khoán Habubank, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài
Trong thời gian qua, cùng với sự phát triển không ngừng về quy mô của thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam, là sự lớn mạnh của các tổ chức tài chính trung gian, đặc biệt là các công ty chứng khoán (CTCK). Sự trưởng thành của các công ty chứng khoán Việt Nam không chỉ thể hiện về sự tăng trưởng số lượng và quy mô vốn mà còn thể hiện rõ nét qua phương thức và cung cấp dịch vụ cho khách hàng. Các CTCK cho thấy vai trò vô cùng quan trọng của mình đối với sự phát triển chung của nền kinh tế và của thị trường chứng khoán.
Năm 2007 là một năm phát triển vượt bậc của thị trường chứng khoán. Điều này thể hiện trước hết ở quy mô của thị trường. Mục tiêu của Nhà nước là tới năm 2010, vốn hoá của thị trường chiếm 35% GDP. Nhưng riêng năm nay, tổng giá trị vốn hoá thị trường đã đạt trên 43% GDP. Sự trưởng thành vượt bậc của thị trường còn thể hiện ở sự gia tăng số lượng các công ty chứng khoán (hiện nay có khoảng trên 80 công ty chứng khoán hoạt động trên thị trường) và con số hơn 330.000 tài khoản so với hơn 100.000 tài khoản năm 2006. Mặc dù số lượng CTCK đi vào hoạt động năm 2007 tăng gấp 3-4 lần so với năm 2006, nhưng kết quả kinh doanh năm 2007 của nhiều công ty vẫn khá tốt.
Sau quá trình tiếp thu kiến thức tại trường Đại học Kinh tế Quốc dân, và một thời gian thực tập chuyên ngành tại Phòng Môi giới Công ty chứng khoán Ngân hàng TMCP nhà Hà Nội (CTCK Habubank), em đã có cơ hội tìm hiểu thực tiễn công việc, tổng quan về các phòng ban của CTCK Habubank nói chung và cụ thể về hoạt động của phòng môi giới của Công ty nói riêng. Sau hai năm đi vào hoạt động, hoạt động môi giới của CTCK Habubank đã dần khẳng định được vai trò của mình đối với hoạt động của toàn công ty và đã đạt được một số thành công nhất định. Cùng với sự phát triển ngày càng cao của thị trường chứng khoán và nhận thức của nhà đầu tư cũng dần được nâng cao thì việc nâng cao chất lượng của CTCK nói chung và hoạt động môi giới nói riêng là vô cùng quan trọng. Do đó em chọn nghiên cứu đề tài:
“Nâng cao chất lượng hoạt động môi giới tại Công ty chứng khoán Habubank”
Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài này là những kiến thức cơ bản về hoạt động môi giới của công ty chứng khoán, bên cạnh đó là thực trạng chất lượng của hoạt động môi giới tại công ty chứng khoán Habubank từ 1/1/2007 đến 31/12/2007.
Mục đích nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu các vấn đề cơ bản sau:
Hệ thống toàn bộ lý thuyết cơ bản về hoạt động môi giới của công ty chứng khoán.
Tìm hiểu, đánh giá thực trạng chất lượng hoạt động môi giới tại công ty chứng khoán Habubank.
Từ những kết quả đánh giá hoạt động môi giới nói riêng và hoạt động của toàn công ty chứng khoán Habubank nói riêng để từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động môi giới của Công ty.
Kết cấu đề tài
Với phạm vi nghiên cứu và mục đích nghiên cứu như trên, do đó nội dung đề tài gồm các phần chính sau:
Chương I: Hoạt động môi giới chứng khoán
Chương II: Thực trạng chất lượng hoạt động môi giới cuả CTCK Habubank
Chương III: Giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động môi giới của CTCK Habubank
Do trình độ nhận thức của bản thân còn ở một mức độ nhất định, nên chuyên đề này không thể tránh khỏi những hạn chế trong quá trình đánh giá xem xét vấn đề, em rất kính mong các thầy cô giáo góp ý kiến để chuyên đề này có tính khả thi hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
CHƯƠNG I CÁC VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG MÔI GIỚI CỦA CÔNG TY CHỨNG KHOÁN
1.1 Khái quát về công ty chứng khoán
Khái niệm, đặc điểm và mô hình tổ chức của công ty chứng khoán
Khái niệm công ty chứng khoán
Trong nền kinh tế thị trường, xã hội của sản xuất được phân chia thành hai cực: một cực có vốn tìm nơi đầu tư và một cực cần vốn để đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Thị trường chứng khoán (TTCK) ra đời là một kênh dẫn vốn trực tiếp từ cực có vốn này sang cực có vốn kia theo nguyên tắc đầu tư khi xã hội của sản xuất và lưu thông phát triển ở giai đoạn cao, và có đủ điều kiện về môi trường pháp lý, môi trường tài chính…
Thị trường chứng khoán là một thị trường mà nơi đó diễn ra các giao dịch mua bán, trao đổi các loại chứng khoán. Sản phẩm trên TTCK không giống với các hàng hoá thông thường khác mà chúng là những hàng hoá đặc biệt, là quyền sở hữu về tư bản gọi tắt là các chứng khoán. Chứng khoán là bằng chứng xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với tài sản hoặc phần vốn của tổ chức phát hành. Một TTCK ra đời và hoạt động hiệu quả thì phải cần các chủ thể tham gia kinh doanh trên TTCK. Công ty chứng khoán ra đời là trung gian kết nối những người mua và bán chứng khoán với nhau nhằm đảm bảo TTCK hoạt động một cách có trật tự, công bằng và hiệu quả. Chính vì trung gian là một trong những nguyên tắc cơ bản của TTCK nên phải có các nhà môi giới để đảm nhận khâu này.
Ở giai đoạn đầu của TTCK, các nhà môi giới hoạt động cá nhân độc lập với nhau. Khi thị trường đã dần được hoàn thiện với sự tăng lên về khối lượng giao dịch, quy mô thì các nhà môi giới riêng lẻ có xu hướng tập hợp theo một tổ chức nhất định - chính là công ty chứng khoán.
Ở Việt Nam, khái niệm về Công ty chứng khoán có thể tìm hiểu trong Luật chứng khoán số 70/2006/QH11 và được hiểu khái quát: Công ty chứng khoán là công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn thành lập theo pháp luật Việt Nam để kinh doanh theo giấy phép kinh doanh do Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước cấp.
Mô hình tổ chức kinh doanh của CTCK có những đặc điểm khác nhau tuỳ vào sự phát triển khác nhau của từng khối thị trường. Có thể khái quát mô hình tổ chức kinh doanh của CTCK theo hai nhóm sau:
Thứ nhất là mô hình CTCK đa năng: theo mô hình này, CTCK được tổ chức dưới hình thức một tổ hợp dịch vụ tài chính tổng hợp bao gồm kinh doanh chứng khoán, kinh doanh tiền tệ và các dịch vụ tài chính. Theo đó các ngân hàng thương mại hoạt động với tư cách là chủ thể kinh doanh chứng khoán, bảo hiểm và kinh doanh tiền tệ. Mô hình này được tổ chức dưới hai hình thức sau:
Loại đa năng một phần: theo mô hình này các ngân hàng muốn kinh doanh chứng khoán, kinh doanh bảo hiểm phải thành lập công ty con hạch toán độc lập và hoạt động tách rời với hoạt động kinh doanh tiền tệ.
Loại đa năng toàn phần: các ngân hàng được phép trực tiếp kinh doanh chứng khoán, kinh doanh bảo hiểm và kinh doanh tiền tệ cũng như các dịch vụ khác.
Thứ hai là mô hình công ty chứng khoán chuyên doanh: theo mô hình này, hoạt động kinh doanh chứng khoán sẽ do các công ty độc lập và chuyên môn hoá trong lĩnh vực chứng khoán đảm trách, các ngân hàng không được tham gia kinh doanh chứng khoán.
Mỗi mô hình đều tồn tại những ưu, nhược điểm riêng của nó.Với mô hình thứ nhất, ưu điểm lớn nhất của nó là các ngân hàng có thể kết hợp nhiều lĩnh vực kinh doanh,nhờ đó giảm bớt rủi ro trong hoạt động kinh doanh bằng việc đa dạng hoá đầu tư. Ngoài ra, mô hình này còn có ưu điểm là tăng khả năng chịu đựng của ngân hàng trước những biến động trên thị trường tài chính. Nhưng cũng chính vì thế mà khả năng chuyên môn sẽ không sâu, là nguyên nhân dẫn đến thị trường chứng khoán kém phát triển vì các ngân hàng thường có xu hướng bảo thủ, thích hoạt động cho vay hơn là thực hiện các nghiệp vụ của thị trường chứng khoán. Đồng thời nó dễ gây nên tình trạng lũng đoạn thị trường khi điều kiện môi trường pháp luật không lành mạnh. Ưu điểm của mô hình CTCK chuyên doanh là hạn chế được rủi ro cho hệ thống ngân hàng, tạo điều kiện cho các CTCK đi vào chuyên môn hoá sâu trong lĩnh vực chứng khoán để thúc đẩy thị trường phát triển; tuy nhiên xu thế ngày nay lại chính là việc hình thành nên các tập đoàn tài chính khổng lồ.
Đặc điểm công ty chứng khoán
Hoạt động của công ty chứng khoán (CTCK) rất đa dạng và phức tạp với các hoạt động nghiệp vụ và phụ trợ như: môi giới, tự doanh, lưu ký chứng khoán, tư vấn tài đầu tư, quản lý danh mục... Do đó ở từng quốc gia khác nhau, thậm chí ngay cùng một nước, các CTCK mang những đặc trưng riêng bởi sản phẩm, dịch vụ…mà họ cung cấp.
Ở Việt Nam, công ty chứng khoán được tổ chức dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần theo quy định của Luật doanh nghiệp. Luật chứng khoán ra đời năm 2006, và chính thức áp dụng từ 1/1/2007- là văn bản luật cao nhất quy định về chứng khoán và thị trường chứng khoán, quy định một số nghĩa vụ của một CTCK như: thiết lập hệ thống kiểm soát nội bộ, quản trị rủi ro và giám sát, ngăn ngừa những xung đột lợi ích trong nội bộ công ty và trong giao dịch với người có liên quan; quản lý tách biệt chứng khoán của từng nhà đầu tư, tách biệt tiền và chứng khoán của nhà đầu tư với tiền và chứng khoán của CTCK; ký hợp đồng bằng văn bản với khách hàng khi cung cấp dịch vụ cho khách hàng, cung cấp đầy đủ thông tin cho khách hàng; thu thập tìm hiểu thông tin về tình hình tài chính, mục tiêu đầu tư, khả năng chấp nhận rủi ro của khách hàng…
Các công ty chứng khoán ở các nước hay trong cùng một nước vẫn được tổ chức khác nhau tuỳ thuộc vào tính chất công việc của mỗi công ty hay mức độ phát triển của thị trường. Tuy nhiên chúng vẫn có những đặc trưng cơ bản sau:
Công ty chứng khoán đóng vai trò là một tổ chức trung gian tài chính, thể hiện ở các khía cạnh
Trung gian về thanh toán: do CTCK là một thành viên của hệ thống thanh toán lưu ký nên nó là một trung gian thanh toán.Chức năng này được thể hiện thông qua việc thanh toán giữa người phát hành và nhà đầu tư, giữa người mua và người bán. Nếu người mua và người bán cùng mở tài khoản và cùng lưu ký tại một công ty chứng khoán thì việc thanh toán sau giao dịch của họ đơn giản hơn rất nhiều.
Trung gian về rủi ro: trên TTCK luôn tiềm ẩn rất nhiều rủi ro. Các chủ thể tham gia vào TTCK như: các CTCK, các nhà đầu tư… luôn phải đối mặt với các rủi ro đó. Nhà đầu tư khi thực hiện kinh doanh chứng khoán trên TTCK có những rủi ro như: rủi ro trong sự tăng giảm giá chứng khoán, rủi ro trong khi giao dịch.… CTCK đóng vai trò là là người đứmg giữa và thực hiện các giao dịch cho khách hàng sẽ giúp nhà đầu tư phân tán rủi ro bằng việc đầu tư vào các chứng chỉ quỹ và trong giao dịch cũng có người được lợi và người gặp rủi ro.
Trung gian giao dịch: xuất phát từ nhu cầu của những chủ thể có điều kiện về vốn nhưng trình độ, khả năng phân tích còn hạn chế nên quỹ đầu tư chứng khoán ra đời. Để thu hút được nguồn vốn hoạt động thì các quỹ này phát hành chứng chỉ quỹ đầu tư và chủ sở hữu của các chứng chỉ này là các chủ thể trên. Hình thức hoạt động của các quỹ này là dùng một số lượng lớn vốn đầu tư vào một số loại chứng khoán với kỳ hạn và mức rủi ro khác nhau để kiếm lời.
Trung gian về thông tin: với chức năng này, CTCK phải thu thập,tìm hiểu thông tin về tình hình tài chính, mục tiêu đầu tư, khả năng chấp nhận rủi ro với khách hàng; đảm bảo các khuyến nghị, tư vấn đầu tư của công ty cho khách hàng phải phù hợp với khách hàng đó (theo Luật chứng khoán). Bên cạnh đó, các CTCK phải công bố thông tin định kỳ về báo cáo tài chính theo quy định.
Trung gian tín dụng: đối với các CTCK thuộc ngân hàng mẹ thì vai trò này được thể hiện rõ nhất. Vốn mà ngân hàng cho các nhà đầu tư vay để tham gia vào thị trường chính là vốn huy động từ các nhà đầu tư trước đó. Họ là người gắn kết các nhu cầu cần vốn (người bán chứng khoán) và nhu cầu của người cần đầu tư (người mua chứng khoán).
Chuyên môn hoá và phân cấp quản lý
Các CTCK chuyên môn hoá ở mức độ cao trong từng bộ phận, từng phòng ban, từng đơn vị kinh doanh nhỏ. Một số bộ phận trong tổ chức công ty nhiều khi không phụ thuộc lẫn nhau (ví dụ như bộ phận môi giới và bộ phận tự doanh, hay bộ phận bảo lãnh phát hành…)
Nhân tố con người
Trong CTCK, quan hệ với khách hàng có tầm quan trọng hàng đầu. Sản phẩm càng trừu tượng thì nhân tố con người càng quan trọng. Việc CTCK tạo được niềm tin với các nhà đầu tư, đồng thời họ thích sử dụng các dịch vụ của công ty sẽ đem lại cho công ty một nguồn doanh thu vô cùng lớn.
Ảnh hưởng của thị trường tài chính
Thị trường tài chính nói chung và thị trường chứng khoán nói riêng có ảnh hưởng lớn tới chuyên môn, sản phẩm, dịch vụ và khả năng thu lợi nhuận của các công ty chứng khoán. Với những mức độ phát triển khác nhau của thị trường, cơ cấu tổ chức và các sản phẩm cũng khác nhau để đáp ứng nhu cầu riêng.
Cơ cấu tổ chức của công ty chứng khoán
Cơ cấu tổ chức của CTCK phụ thuộc vào loại hình nghiệp vụ chứng khoán mà công ty thực hiện cũng như quy mô hoạt động kinh doanh chứng khoán của nó. Tuy nhiên, chúng đều có đặc điểm chung là hệ thống các phòng ban chức năng được chia ra làm hai khối tương ứng với hai khối công việc mà CTCK đảm nhận: khối I và khối II. Trong đó,khối I là khối tư vấn và nghiên cứu- phân tích, khối II là khối dịch vụ và hỗ trợ. Hai khối này thực hiện các công việc yểm trợ cho nhau.
Một số đặc điểm khác
CTCK là một tổ chức trung gian đặc biệt hoạt động trên lĩnh vực khá nhạy cảm nên chịu sự kiểm soát song hành của Nhà nước và hiệp hội kinh doanh chứng khoán. Ở Việt Nam, CTCK chịu sự quản lý của Bộ tài chính và Uỷ ban chứng khoán Nhà nước. Nhà nước kiểm soát các CTCK bằng các văn bản quy phạm pháp luật như các Nghị định, Luật chứng khoán và các thông tư hướng dẫn như: CTCK phải đảm bảo các yêu cầu về vốn, cơ cấu vốn và nguyên tắc hạch toán, báo cáo theo quy định của UBCKNN; CTCK phải tách bạch tiền và chứng khoán của khách hàng với tài sản của mình, không được dùng chứng khoán của khách hàng làm vật thế chấp trừ trường hợp được khách hàng đồng ý bằng văn bản; CTCK không được dùng tiền của khách hàng làm nguồn tài chính để kinh doanhm ngoại trừ trường hợp số tiền đó phục vụ cho giao dịch của khách hàng…
1.1.1.3 Phân loại công ty chứng khoán
Trên thị trường chứng khoán tồn tại rất nhiều loại hình công ty chứng khoán hoạt động. Tuỳ vào từng tiêu thức mà người ta có các các phân loại khác nhau.
Nếu dựa trên tiêu thức lĩnh vực kinh doanh của CTCK , có quan điểm phân chia CTCK thành các loại sau:
Công ty môi giới chứng khoán là CTCK chỉ thực hiện việc trung gian, mua bán chứng khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng.
Công ty bảo lãnh phát hành chứng khoán là CTCK có lĩnh vực hoạt động chủ yếu là thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh để hưởng phí hoặc chênh lệch giá.
Công ty kinh doanh chứng khoán là CTCK chủ yếu thực hiện nghiệp vụ tự doanh, có nghĩa là bỏ vốn và tự và tự chịu trách nhiệm về hậu quả kinh doanh.
Công ty trái phiếu là CTCK chuyên mua bán các loại trái phiếu.
Công ty chứng khoán không tập trung là các CTCK hoạt động chủ yếu trên thị trường OTC và họ đóng vai trò là các nhà tạo thị trường.
Nếu dựa trên tiêu thức là các loại hình tổ chức của CTCK thì hiện nay, có ba loại hình tổ chức cơ bản của CTCK, đó là: công ty hợp danh, công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần.
Công ty hợp danh là loại hình kinh doanh có từ 2 chủ sở hữu trở lên. Thành viên của CTCK hợp danh bao gồm: thành viên góp vốn và thành viên hợp danh. Các thành viên hợp danh phải chịu trách nhiệm vô hạn bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của Công ty. Các thành viên góp vốn không tham gia điều hành công ty, họ chỉ phải chỉ phải chịu trách nhiệm hữu hạn trong phần vốn góp của mình đối với khoản nợ của công ty.Thông thường khả năng huy động vốn của công ty hợp danh
Công ty cổ phần là một công ty pháp nhân độc lập với các chủ sở hữu công ty là các cổ đông. Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp. Công ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán (cổ phiếu và trái phiếu) ra công chúng theo quy định của pháp luật về chứng khoán hiện hành.
Ưu điểm của công ty cổ phần là một loại hình tồn tại liên tục không phụ thuộc vào việc thay đổi cổ đông hoặc cổ đông nghỉ hưu hoặc qua đời. Rủi ro mà chủ sở hữu của công ty phải chịu được hạn chế ở mức nhất định. Công ty cổ phần là loại hình công ty có chế độ trách nhiệm cao nhất. Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm trong phần vốn góp, ngoài ra họ không phải chịu bất cứ trách nhiệm nào về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Khi công ty bị phá sản, cổ đông là chủ sở hữu của công ty nên sẽ nhận tài sản sau cùng. Họ có thể không nhận được gì từ tài sản của công ty, song cũng không chịu trách nhiệm với công nợ của công ty. Chế độ trách nhiệm này tạo điều kiện cho sự tách biệt giữa sở hữu và quản lý. Với CTCK được tổ chức theo mô hình hình thức công ty cổ phần và được niêm yết tại sở giao dịch thì coi như họ đã được quảng cáo miễn phí.
Công ty trách nhiệm hữu hạn: về cơ bản, công ty trách nhiệm hữu hạn giống với loại hình công ty hợp danh, chỉ khác với loại hình công ty này, trách nhiệm là hữu hạn với các thành viên. Ngoài trách nhiệm trên phần vốn góp, các thành viên chịu một phần trách nhiệm đối với một phần công nợ của công ty. Trách nhiệm này được ghi rõ trong điều lệ của công ty, được pháp luật bảo hộ. Cũng có loại công ty trách nhiệm hữu hạn một chủ, có nghĩa là, chỉ có một thành viên giữ vai trò điều hành công ty và chịu trách nhiệm vô hạn và đầy đủ đối với các hoạt động của công ty, còn các thành viên khác chỉ chịu hữu hạn trên phần vốn góp.
Số lượng các thành viên của công ty bị giới hạn bởi pháp luật. Với công ty này, số vốn đóng góp của các thành viên phải được đóng đủ khi được thành lập và được ghi rõ trong điều lệ công ty. Công ty không được phép phát hành bất cứ một loại chứng khoán nào. Việc chuyển nhượng vốn góp giữa các thành viên được thực hiện tự do, còn đối với sự chuyển nhượng vốn góp cho người không phải là thành viên phải được sự nhất trí của đa số các thành viên theo luật định. Đây là loại hình công ty thích hợp với quy mô vừa và nhỏ.
Các hoạt động cơ bản của công ty chứng khoán
Theo nghị định 14 của Chính phủ số 14/2007/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật chứng khoán quy định vốn pháp định cho các nghiệp vụ kinh doanh của CTCK, CTCK có vốn đầu tư nước ngoài, chi nhánh CTCK nước ngoài tại Việt Nam là:
Môi giới chứng khoán: 25 tỷ đồng Việt Nam;
Tự doanh chứng khoán: 100 tỷ đồng Việt Nam;
Bảo lãnh phát hành chứng khoán : 165 tỷ đồng Việt Nam;
Tư vấn đầu tư chứng khoán: 10 tỷ đồng Việt Nam;
Các CTCK phải có trụ sở, có trang thiết bị, thiết bị phục vụ cho kinh doanh chứng khoán, đối với nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán và tư vấn đầu tư chứng khoán thì không phải đáp ứng các điều kiện về trang thiết bị. Sau đây là một số hoạt động cơ bản của CTCK:
1.1.2.1 Hoạt động nghiêp vụ
Hoạt động môi giới chứng khoán
Khi thị trường chứng khoán càng phát triển ở trình độ cao thì các sản phẩm và dịch vụ càng dồi dào về số lượng, đa dạng và phong phú về chủng loại, tinh tế và nhạy cảm trong vận hành chức năng. Theo đó, đòi hỏi về việc cung cấp cho người đầu tư những thông tin cần thiết những ý tưởng đầu tư, những lời khuyên mang tính thời điểm hay mang tính chiến lược, và giúp cho các nhà đầu tư thực hiện theo cách có lợi nhất, đòi hỏi phải có hoạt động môi giới chứng khoán phát triển mang tính chuyên nghiệp cao, hay nói cách khác, trở thành một nghề.
Hoạt động môi giới chứng khoán là hoạt động trung gian đại diện cho bên hay bán chứng khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng. Theo đó, công ty chứng khoán đại diện cho khách hàng tiến hành giao dịch thông qua cơ chế giao dịch tại Sở giao dịch chứng khoán hoặc thị trường OTC mà chính khách hàng phải chịu trách nhiệm đối với kết quả giao dịch của mình.
Với tư cách là khâu trung gian giúp thúc đẩy quá trình lưu thông hàng hoá bằng cách rút ngắn khoảng thời gian tìm kiếm để gặp gỡ giữa người mua và người bán, hoạt động môi giới chứng khoán cho phép người mua trực tiếp thẩm định chất lượng bằng các giác quan của mình. Và trong những trường hợp nhất định, hoạt động môi giới sẽ trở thành người bạn, người chia sẻ những lo âu, căng thẳng và đưa ra những lời động viên kịp thời cho nhà đầu tư, giúp nhà đầu tư có những quyết định tỉnh táo.
b. Hoạt động tự doanh chứng khoán
Tự doanh là việc các công ty chứng khoán tự tiến hành các hoạt động mua bán các chứng khoán cho chính mình. Hoạt động tự doanh của CTCK có thể được thực hiện trên các thị trường giao dịch tập trung hoặc trên thị trường OTC…