NỘI DUNG CHÍNH
PHẦN 1: Giới thiệu
“Ôi bà con ơi. tôi ra đây có phải xưng danh không nhỉ.tôi là Tễu.” Câu bắt đầu, thoạt nghe có vẻ như một câu chào của một diễn viên chèo, nhưng xét kĩ lại “ chú Tễu” là một nhân vật đặc trưng chỉ xuất hiện trong nghệ thuật múa rối nước.
Múa rối nước là môn nghệ thuật đặc sắc ra đời từ nền văn hóa lúa nước. Từ một nghệ thuật mang yếu tố dân gian, múa rối nước đã trở thành một nghệ thuật truyền thống. Và cùng với tuồng, chèo, múa rối nước được coi là môn nghệ thuật có vị trí cao trong nghệ thuật sân khấu dân tộc. Nói đến múa rối thì hầu như dân tộc nào cũng có, nhưng múa rối nước thì đặc biệt chỉ có duy nhất ở Việt Nam. Tinh hoa của nghệ thuật múa rối nước ngày càng nhận được nhiều sự ngưỡng mộ của bạn bè quốc tế, trở thành một sản phẩm nghệ thuật độc đáo của Việt Nam.
24 trang |
Chia sẻ: thanhlinh222 | Lượt xem: 8300 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nghệ thuật sân khấu múa rối nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NGHỆ THUẬT SÂN KHẤU MÚA RỐI NƯỚC
***
Giảng viên: Hồ Thu Hà
***
Danh sách thành viên :
1. Nhóm trưởng: Nguyễn Thị Hồng Nhung
2. Nguyễn Thị Vân Anh
3. Tống Thị Huyền
4. Nguyễn Thu Hiền
5. Trần Minh Nguyệt
6. Giang Anh Minh
7. Vũ Thị Thu Huyền
8. Lang Thị Thư
9. Đặng Thị Thùy Linh
10. Cao Thị Hoài Thu
11. Nguyễn Thị Thủy
12. Nguyễn Văn Hưng
13. Lương Thái Bình
14. Phạm Thùy Dung
BẢNG PHÂN CÔNG CÔNG VIỆC
STT
HỌ VÀ TÊN
CÔNG VIỆC
ĐÁNH GIÁ
GHI CHÚ
1
Nguyễn Thu Hiền
Lịch sử hình thành của sân khấu múa rối nước
4/5*
Nộp đúng hạn
2
Tống Thị Huyền
Vũ Thị Thu Huyền
Tìm hiểu về sân khấu và buồng trò
T.Huyền:
4/5*
V.Huyền:
3/5*
T.Huyền nộp đúng hạn
V.Huyền nộp muộn
3
Lê Văn Hưng
Tìm hiểu về quan niệm về phường hội
Hưng: 4/5*
Hưng nộp đúng hạn
4
Trần Minh Nguyệt
Tìm hiểu về âm nhạc.
5/5*
Nộp đúng hạn
5
Phạm Thùy Dung
Cao Thị Hoài Thu
Tìm hiểu về hệ thống trò và tích trò
Dung:3/5*
Thu: 3/5*
Nộp muộn, thiếu ảnh
6
Nguyễn Thị Thủy
Tìm hiểu về quân rối và máy điều khiển
3/5*
Nộp muộn
7
Lang Thị Thư
Đặng Thị Thùy Linh
Tìm hiểu về các phường rối cổ truyền
Thư:3/5*
Linh:3/5*
Nộp muộn
8
Nguyễn Thị Vân Anh
Làm powerpoint
V.Anh:5/5*
Tích cực
9
Giang Anh Minh
Tìm hiểu phần mở rộng
3/5*
Nộp muộn
10
Nguyễn Thị Hồng Nhung
Phân chia công việc, tổng hợp tài liệu, chỉnh sửa và hoàn thiện word, thuyết trình, đánh giá.
5/5*
Nhóm trưởng
CẤU TẠO BÀI
Phần 1: Giới thiệu.
Phần 2: Lịch sử hình thành sân khấu múa rối nước.
Phần 3: Các thành tố của sân khấu rối nước.
Sân khấu và buồng trò.
Sân khấu.
Buồng trò.
Quân rối và máy điều khiển.
Quân rối.
Máy điều khiển.
Hệ thống trò và tích trò.
Âm nhạc.
Phường hội và nghệ nhân.
Phường hội
Nghệ nhân
Phần 4: Các phường rối cổ truyền.
Phường rối Nam Chấn
Phường rối Nguyễn
Phường rối Đào Thục
Phần 5: Thực trạng của múa rối nước.
Phần 6: Các giải pháp để gìn giữ và phát triển nghệ thuật múa rối nước.
***
NỘI DUNG CHÍNH
***
PHẦN 1: Giới thiệu
“Ôi bà con ơi... tôi ra đây có phải xưng danh không nhỉ...tôi là Tễu...” Câu bắt đầu, thoạt nghe có vẻ như một câu chào của một diễn viên chèo, nhưng xét kĩ lại “ chú Tễu” là một nhân vật đặc trưng chỉ xuất hiện trong nghệ thuật múa rối nước.
Múa rối nước là môn nghệ thuật đặc sắc ra đời từ nền văn hóa lúa nước. Từ một nghệ thuật mang yếu tố dân gian, múa rối nước đã trở thành một nghệ thuật truyền thống. Và cùng với tuồng, chèo, múa rối nước được coi là môn nghệ thuật có vị trí cao trong nghệ thuật sân khấu dân tộc. Nói đến múa rối thì hầu như dân tộc nào cũng có, nhưng múa rối nước thì đặc biệt chỉ có duy nhất ở Việt Nam. Tinh hoa của nghệ thuật múa rối nước ngày càng nhận được nhiều sự ngưỡng mộ của bạn bè quốc tế, trở thành một sản phẩm nghệ thuật độc đáo của Việt Nam.
PHẦN 2: Lịch sử hình thành sân khấu múa rối nước.
Hầu hết các nước trên thế giới đều có múa rối. Và ở Việt Nam, múa rối là một trong những loại hình nghệ thuật truyền thống. Đến nay nghệ thuật múa rối Việt Nam đã đạt đến trình độ nghệ thuật có giá trị cao về tinh thần, là một trong những loại hình sân khấu giải trí hấp dẫn trong đời sống văn hóa tinh thần của người dân Việt Nam. Đây là một trong những loại hình sân khấu tiêu biểu cho nền văn hóa dân tộc Việt Nam – thể hiện trí tuệ và sự thông minh, sức sáng tạo của con người Việt Nam. Trong xã hội hiện đại hôm nay, múa rối nước không còn quá xa lạ với đại bộ phận người dân trong nước và trên thế giới. Có lẽ thời gian là một trong những nhân tố giúp múa rối nước định hình, khẳng định và phát triển để được xếp hạng là một trong những loại hình nghệ thuật có giá trị cao, mang tính truyền thống trong đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân Việt Nam.
Nói đến sự ra đời của nghệ thuật múa rối nước, không thể nói chắc chắn nó xuất hiện từ bao giờ, nhưng có nhiều ý kiến cho rằng rối nước xuất hiện từ rất lâu đời từ thời cổ đại và gắn liền với nhà nước của các vua Hùng, trở thành một nghệ thuật gắn liền với các tập tục, nghi lễ, hội hè Việt cổ cách đây hơn 2000 năm. Nhưng trên thực tế cho thấy múa rối tồn tại ở Việt Nam cho đến nay trên dưới 1000 năm, nó phát triển mạnh nhất vào thời Lý – Trần (thế kỷ XI – XII), và hiện vẫn chưa có một tư liệu nào chứng minh được nguồn gốc ra đời của nghệ thuật múa rối nước. Duy nhất hiện còn lưu trên Bia “Sùng Thiện Diên linh tự tháp” có niên hiệu Thiên Phù Duệ Vũ thứ 2 (1121) thời Lý Nhân Tông, có ghi trò múa rối nước biểu diễn mừng thọ Nhà vua. Điều đó chứng tỏ rằng nghệ thuật múa rối dân gian Việt Nam đã được hình thành từ bao đời nay, được lưu truyền tồn tại và ngày càng phát triển với nhiều thể loại như: Rối tay, rối que, rối dây, rối nhà mồ,rối mặt nạ,rối diều sáo, rối đồ chơi, rối sao, rối bóng, đặc biệt là múa rối nước.
Như vậy có thể nói rối nước là một loại hình nghệ thuật sân khấu truyền thống của dân tộc ra đời từ rất sớm.
Cùng với đó có ý kiến lại cho rằng rối nước là một loại hình nghệ thuật được tạo ra bởi sự tìm tòi, sáng tạo và liên tưởng của cha ông ta trước cuộc sống bình dị gắn liền với nghề nông nghiệp trồng lúa nước và sự du nhập mạnh mẽ của phật giáo vào Việt Nam. Và từ thực tế cho thấy, do điều kiện tự nhiên và công việc của nhà nông, có thể nói rằng: Múa rối nước được xây đắp hình thành từ tâm tư, tình cảm của người dân lao động, nó tái hiện cuộc sống và ước vọng của thời đại.Trước kia rối nước chỉ diễn ngoài trời, sân khấu gắn bó, hòa quyện với thiên nhiên, trong không gian mênh mông, trời, đất và nước có cây xanh, mây, gió, lửa, có khói mờ vương tỏa, ẩn hiện mái đình uốn cong và màu ngói đỏ, quả là một sự hòa quyện độc đáo giữa thiên nhiên và con người. Ngày nay, múa rối nước Việt Nam, không chỉ bảo tồn mà đã được khai thác sâu, rộng hơn.
Phần 3: Các thành tố của sân khấu múa rối nước
Sân khấu và buồng trò.
Sân khấu
Sân khấu múa rối nước là khoảng trống trước mặt buồng trò. Giống như tên gọi của loại hình nghệ thuật này, sân khấu của múa rối nước đặc biệt chính là mặt nước phía trước buồng trò tạo sân khấu biểu dễn múa rối nước y như ban thờ lớn ở Đình, Chùa của người Việt, giống như là một đình làng thu nhỏ lại với những mái uốn cong lung linh phản chiếu trên mặt nước.. Sân khấu được trang bị cờ, quạt, voi, lọng, cổng hàng mã... Buổi diễn rất nhộn nhịp với lời ca, tiếng trống, mò, tù và, chen tiếng pháo chuột, pháo thăng thiên, pháo mở cờ từ dưới nước lên, trong ánh sáng lung linh và màn khói huyền ảo.
Sân khấu múa rối nước hường là ao, hồ của làng mạc thôn quê,khán đài là bãi cỏ rộng xung quanh đấy rất thuận tiện cho dân chúng thưởng thức. Được gọi” là thủy đình “ hay “nhà rối” gồm hai tầng , tầng trên được dùng để thờ tổ, tầng dưới được dùng để làm hậu trường có màn che là nơi các nghệ nhân nghâm mình biểu diễn.
Về Cấu tạo của sân khấu múa rối nước.
Tổng thể sân khấu múa rối nước chủ yếu được dựng ngoài trời, gồm:
– Một: Buồng trò – dựng giữa ao, hồ, che kín, có mành treo cửa trước để che nghệ nhân đứng sau điều khiển các quân rối.
– Hai: Sân khấu – khoảng mặt nước trước mành dài rộng 4m x 4m, hai bên có lan can thấp kéo từ hai nhà nanh hai bên, nơi quân rối hoạt động.
– Ba: Nơi người xem – khoảng bờ, bãi, sân trước và hai bên sân khấu dưới bóng cây trồng quanh ao, hồ
Buồng trò
Buồng trò múa rối là nhà rối hay thủy đình đây là nơi dấu mình của các nghệ nhân, đồng thời đây cũng là nơi để con rối để sắp trò và để nhạc công biểu diễn. Buồng trò được dựng giữa ao, hồ, che kín và có mành treo cửa trước để che nghệ nhân đứng sau điều khiển .
Về cấu tạo, buồng trò được dựng với cấu trúc cân đối tượng trưng cho mái đình của vùng nông thôn Việt Nam. Buồng trò được trang bị cờ, quạt, voi lọng, cổng hàng mã Trên thực tế nó có cấu trúc hình vuông , mái lợp được chia làm 2 lớp : âm dương, bốn cột cái đỡ các mái trên. Mười hai cột con sắp thành hàng quanh bốn bên đỡ mái dưới , cả hai mái đều được lợp bằng ngói mũi xếp chồng lên nhau theo hình vẩy cá, nơi giáp góc các mái đều được làm thành những đầu dao uốn lượn cong lên. Dù được xây bằng gạch hay dựng bằng gỗ thì thủy đình vẫn mở thông ra bốn phương. Vì được xây dựng trên ao hồ lên khi dựng thủy đình thường rất là chi tiết và cẩn thận, chọn lựa những vật liệu tốt để làm ,do đó mà thủy đình có thể được sử dụng trong khoảng thời gian dài.
Tư duy của người Việt thường gắn giá trị thẩm mĩ với giá trị ích dụng, bởi vậy thủy đình với cấu trúc như kia sẽ không có nhiều công năng sử dụng do đó mà số lượng thủy đình ở các phường rối có ít đi . Tuy nhiên tính độc đáo của thủy đình rối nước là ở chỗ nó thường tọa lạc ở giữa các ao làng, hồ trong một tổng thể không gian kiến trúc của đình, đền, chùa , miếu... Chính vì thế nên hoạt động biểu diễn rối nước cũng được lựa chọn vào những dịp lễ hội quan trọng.
Người nghệ nhân rối nước đứng trong buồng trò để điều khiển con rối , họ thao tác từng cây sào, thừng , vọt hoặc giật con rối bằng hệ thống dây bố trí ở bên ngoài hoặc dưới nước. Và chỉ xuất hiện trước mặt khán giả vài giây để chào cảm ơn sau khi kết thúc tiết mục.
Quân rối và máy điều khiển
Quân rối
Quân rối là một trong những yếu tố vô cùng quan trọng để cấu thành nghệ thuật sân khấu múa rối nước. Quân rối chính là những diễn viên chuyên nghiệp làm duyên làm dáng trên mặt nước sân khấu, được các nghệ nhân chế tác và điều khiển thổi hồn vào, khiến cho nó trở nên có linh tính, biết pha trò, chọc vui mọi người.
Từ những con rối riêng lẻ của một số các cá thể phát triển thành những phường rối với nhiều những tích trò hay, lạ, đẹp mắt rồi được đem ra biểu diễn, thi tài phục vụ nhân dân. Từ đây nghệ thuật Múa rối đã trở thành thú chơi tao nhã của nhân dân đồng bằng sông Hồng và đến nay đã trở thành một loại hình nghệ thuật truyền thống trong dân gian được gìn giữ, bảo tồn và phát huy.
Cấu tạo của quân rối
Chất liệu thông dụng để tạc con rối là gỗ sung nhẹ lại dai, dễ điều khiển dưới nước. Tuỳ từng tính cách nhân vật, mỗi con rối được tạc với những đường nét cách điệu riêng. Quân rối nước có hai phần: Phần thân nổi lên mặt nước thể hiện nhân vật, còn phần đế chìm dưới mặt nước giữ cho rối nổi, đồng thời là nơi lắp máy điều khiển rối. Cuối cùng là gọt giũa, đánh bóng và trang trí với nhiều màu sơn làm tôn thêm đường nét, tính cách cho từng nhân vật. Hình thù của con rối thường tươi tắn, ngộ nghĩnh, có tính hài và tính tượng trưng cao.
Quy trình làm quân rối
Con rối được các nghệ nhân làm bằng gỗ, thông thường gỗ tốt sẽ nặng và chìm, nên gỗ sung là chất liệu thông dụng để tạo con rối, do loại gỗ này nhẹ, dai, lại rất dễ điều khiển trong khi biểu diễn dưới nước. Sau khi chọn được gỗ chế tác, các nghệ nhân thực hiện một loạt các thao tác mộc, biến những khúc gỗ vô tri thành những quân rối với hình thù đặc trưng của từng nhân vật. Và sau đó quân rối được sơn một lớp sơn không thấm nước. Để tạo ra một con rối hoàn chỉnh ,các nghệ nhân phải trải qua nhiều giai đoạn tỉ mỉ ,từ đục cốt đến trang trí
Phường rối Yên ở xã Thạch Xá, huyện Thạch Thất, tỉnh Hà Tây dùng gỗ cây yến để làm quân rối .Con rối được sơn 4 hoặc 5 lần bằng một loại vecni truyền thống có phủ lớp bạc, do vậy các con rối rất bền.
VD: Phường rối Ra ở huyện Thạch Thất,tỉnh Hà Tây sơn rối theo 3 bước:
Bước 1:Sơn hom
Người thợ thủ công sơn phủ con rối bằng một lớp sơn ta trộn đất sét, sau đó dùng một viên đá cuội để đánh bóng rồi dùng đã màu cọ xát thân rối trong nước .
Bước 2:Sơn lót
Tiếp đó người thợ sơn con rối thêm vài lần nữa để lấp kín mọi vết nứt. Sau khi khô, cứ mối lớp sơn lại được người thợ dùng một viên đá để đánh bóng.
Bước 3:Thếp bạc
Lần này trong lúc sơn còn chưa khô, người thợ dán lên các lá quỳ dày 3cm, rộng 4cm2 do làng Kiêu Kỵ, huyện Gia Lâm, Hà Nội sản xuất. Người thợ có thể dán thêm một lớp lá quỳ nữa trước khi sơn thêm khoảng hai đến ba lần nữa bằng sơn trộn với nhựa cây mù.
Các thợ thủ công dùng sơn ta để sơn các màu cam thẫm, nâu đậm, da cam nhạt, đỏ và đen, nhưng các màu xanh lá cây và đỏ son thì phải dùng sơn của Thái Lan hoặc của Nhật Bản.
Hình tượng rối : người nông dân dình dị, chị phụ nữ, cô thiếu nữ.hoặc những nhân vật lịch sử : Bà Trưng, Bà Triệu, Lê Lợi.nhiều nhân vạt gàn gũi với ruộng đồng : đàn trâu, đàn vịt, đàn cá, con mèo, con chuột.
Những quân rối tiêu biểu:
Chú tễu: Trong múa rối nước nổi bật là hình ảnh chú tểu, chú tểu là nhân vật tiêu biểu nhất đại diện cho khát vọng của người dân trong xóm làng Việt Nam và trường tồn cùng rối nước .Mở màn chú tểu xuất hiện vui vẽ,nghịch nghợm làm nhiệm vụ giáo đầu câu chuyện : Nói tới tểu thì ai cung biết. Khuôn mặt chữ điền, mặt rộng tai to. Nhất là cái bụng phệ trời cho. Để chứa yêu thương đựng tình sâu rộng. Tểu tôi luôn yêu đời yêu cuộc sống. Đó là công sinh thành nuôi dưỡng của dân ta. Tôi lớn lên từ phường rối nước quê nhà. Việc giữ gìn và phát triển nền nghệ thuât cổ truyền là rối nước. Tểu tôi là người đảm trách Và Tểu đã đảm trách rất nhiều vai trò :giáo đầu, đẫn chương trình, giới thiệu về quê hương với khán giả. Bên cạnh đó tểu củng là con rối người ( vua, thợ cày, thợ cấy.vv ) con rối vật ( trâu, lừa, rắn ,cá ,vịt .vv ).
Nghệ thuật tạo hình :
Khi tạo hình con rối phải chú trọng đến những con rối chính trong tích và trò diễn. Cố gắng làm sao để trên bề mặt con rối có được những nét điển hình cần nhấn mạnh. Có những vai diễn không phải chăm chút lắm về tạo hình bộ mặt nhưng phải chú ý trang phuc và thứ họ mang theo để nói lên thân phận của nhân vật.
Ví dụ như trong trò diễn nông , công, thương hoặc trò ngư tiền: Các nhân vật dựa trên các tích trong vớ tuồng, chèo thì ăn mặc giống như các diễn viên tuồng chèo. Một điều dáng chú ý nữa là trong việc tạo hình các nhân vật, nghệ nhân phải có đầu óc tưởng tượng, lãng mạng và luôn nghĩ đến cái lạ cái đẹp.
Máy điều khiển
Máy có thể được chia làm hai loại cơ bản: máy sào và máy dây đều có nhiệm vụ làm di chuyển quân rối và tạo hành động cho nhân vật.
Máy dây: gồm một dây cái hay dây nọc được mắc trên đầu một hệ thống cọc, có tác dụng chủ yếu làm di chuyển ra vào một bàn máy lớn đóng bằng gỗ trên sắp đặt nhiều quân rối. Thường máy dây để diễn các cho tập thể như: múa bát tiên, múa sư tử, múa cá hoặc các quân rối quá cỡ như chú Tễu, cô Tiên. Các quân rối trong máy dây có những động tác uyển chuyển là nhờ vào sự kéo léo giật các dây mềm nhỏ nối từ bàn máy lên các bộ phận cần thiết ở thân mình quân rối sao cho nó mang hồn của nhân vật thể hiện. Trò máy dây không di chuyển linh hoạt như các trò của máy sào, vì phải lệ thuộc vào hệ thống cọc nhất định, nhưng sức chuyển tải lớn hơn nhiều và khả năng vượt xa khỏi khung sân khấu một cách thoải mái. Đã có những quân rối mang trầu thuốc vào sát bờ mời khán giả hay có những đám rước đi vòng quanh sân khấu Tất cả đều nhờ vào hệ thống dây, máy và cọc đặt ngầm ở dưới nước, chỉ có quân rối là nổi lên trên.
Máy sào: từng quân rối được gắn lên một cái sào dài để tạo sức cân, tác động vào đế quân rối làm quân rối xoay chuyển được toàn thân. Với những tích trò ngắn và ít nhân vật trên sân khấu. Thường là các trò mang tính giải trí, thi đấu
Cách sử dụng máy điều khiển
Máy điều khiển được giấu trong lòng nước, lợi dụng sức nước, tạo sự điều khiển từ xa, cống hiến cho người xem nhiều điều kỳ lạ, bất ngờ.
Buồng trò rối nước là nhà rối hay thủy đình thường được dựng lên giữa ao, hồ với kiến trúc cân đối tượng trưng cho mái đình của vùng nông thôn Việt Nam.
Người nghệ nhân rối nước đứng trong buồng trò để điều khiển con rối. Họ thao tác từng cây sào, thừng, vọt... hoặc giật con rối bằng hệ thống dây bố trí ở bên ngoài hoặc dưới nước Sự thành công của quân rối nước chủ yếu trông vào sự cử động của thân hình, hành động làm trò đóng kịch của nó.
Kỹ thuật điều khiển
Kỹ thuật điều khiển trong múa rối nước rất được coi trọng, nó tạo nên hành động của quân rối nước trên sân khấu, và đó chính là mấu chốt của nghệ thuật múa rối.
Quân rối đẹp mới chỉ có giá trị về mặt điêu khắc. Nhưng sự thành công của quân rối nước chủ yếu trông vào sự cử động của thân hình, hành động làm trò đóng kịch của nó.
Trò rối nước là trò khéo lấy động tác làm ngôn ngữ diễn đạt, rối nước gắn bó với âm nhạc như nghệ thuật múa. Âm nhạc điều khiển tốc độ, giữ nhịp, dẫn dắt động tác, gây không khí với tiết tấu truyền thống giữ vai trò chủ đạo của trò rối nước, nhạc rối nước thường sử dụng các làn điệu chèo hoặc dân ca đồng bằng Bắc Bộ.
Múa rối nước đã trở thành nét sinh hoạt văn hóa không thể thiếu của người dân vùng đồng bằng Bắc Bộ và gắn bó với họ từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Hệ thống trò và tích trò
Trong kho tàng trò rối nước của Việt Nam, có 30 tiết mục cổ truyền và hàng trăm tiết mục rối hiện đại kể về những sự tích dân gian và cuộc sống hàng ngày của người dân Việt.
Xuất xứ của trò và tích trò
Phần lớn các trò và tích trò được dựng lên bởi nhân dân, là sản phẩm chung trong quá trình lao động của người nông dân. Các trò và tích trò là biểu trưng của nền văn minh lúa nước hàng nghìn năm nay của dân tộc gắn với cư dân vùng đồng bằng Bắc Bộ.
Người Pháp gọi môn nghệ thuật múa rối nước của ta với những con rối duyên dáng là "linh hồn của đồng ruộng Việt Nam" và đánh giá rằng: "Với sự sáng tạo và khám phá, rối nước đáng được xếp vào những hình thức quan trọng nhất của sân khấu múa rối".
Các tiết mục múa rối nước truyền thống là các trò, hoạt cảnh và tích trò chỉ chiếm 1 phần nhỏ. Các tiết mục thường ngắn gọn, ít kịch tính. Trò rối nước thường miêu tả những công việc lao động sản xuất hàng ngày của người làm ruộng, những nét sinh hoạt văn hóa – tín ngưỡng nơi làng xóm, thể hiện lạc quan yêu đời trước vụ mùa thắng lợi, lòng yêu nước, chí căm thù, ước mơ cuộc sống hạnh phúc Người xem có thể nhìn thấy ở đây những gì của mình, gần gũi thân thiết với mình. Sức hấp dẫn mạnh nhất của múa rối nước là sự hấp ẫn của các trò, sự kỳ diệu của vật chất sống dậy, sự ngộ nghĩnh ngây ngô nhưng tài tình độc đáo, sự hồn nhiên của trò. Trò rối thường hướng vào những đề tài sau đây: Ca ngợi cái thú làm ruộng, những hoạt động vui chơi giải trí, ca ngợi những tấm gương anh hùng dân tộc, các trích đoạn sân khấu cổ truyền.
Các thành tố cấu tạo nên trò và tích trò
Kịch bản
Một trong những yếu tố quan trọng làm nên sự thành công cho các tích trò, đó là kịch bản dàn dựng ở mỗi vở diễn. Nghệ thuật múa rối nước ra đờ bắt nguồn từ những trò chơi dân gian, gắn với những người dân lao động. Do điều kiện tự nhiên và công việc nhà nông, múa rối nước được xây đắp hình thành từ tâm tư tình cảm của người dân lao động, nó tái hiện cuộc sống và ước vọng của thời đại, nội dung ca ngợi tình yêu quê hương đất nước, truyền thống tương thân tương ái, uống nước nhớ nguồn mang đầy ý nghĩa nhân văn sâu sắc được thể hiện qua các tích như Chọi trâu; Dệt vải trao con; Cáo bắt gà; Đánh cá; Câu ếch Con rối là những vật vô tri vô giác qua bàn tay khéo léo của con người tạo hóa đã làm cho con rối cử động vô cùng linh hoạt như một con người. Lời loại trong rối nước truyền thống là các bài văn vần, biền ngẫu, không theo mọt hình thức quy củ. Hình tượng nêu lên thường mượn từ các điển tích sử sách cổ xưa.
Âm nhạc
Có thể nói, âm nhạc là công cụ đắc lực trong việc thể hiện tâm tư tình cảm của con rối vô tri mà dẫu có lời thoại cũng không thể truyền tải hết. Âm nhạc gắn kết các trò diễn với nhau, tạo cho người xem không có cảm giác bị đứt đoạn giữa các trò diễn, truyền tải được hết nội dung tạo sự giao lưu giữa con rối và người xem. Nhạc cụ chính được sử dụng là trống, não bạt, pháo (ngày xưa) cũng là một âm thanh hỗ trợ đắc lực. Múa rối cần âm thanh mạnh để giữ tiết tấu và khuấy động không khí buổi biểu diễn trong không gian ngoài trời, trong các lễ hội làng ồn ào náo nhiệt. Cho đến ngày nay, đã có nhiều phường rối sử dụng băng đĩa nhưng như vậy đã làm giảm đi sự hấp dẫn của nghệ thuật múa rối nước. Bởi tiết tấu của nhạc sống gây hưng phấn đến người xem, nghệ nhân điều khiển con rối theo âm nhạc lúc thì nhẹ nhàng, lúc thì sôi động, mãnh liệt. Nếu thiếu âm nhạc, không khí của cả chương trình sẽ thiếu đi tính hấp dẫn. Âm nhạc đóng vai trò quan trọng, đứng thứ hai sau kỹ thuật biểu diễn và làm nên giá trị của nghệ thuật dân gian độc đáo này. Ngôn ngữ, cách thể hiện của sân khấu chèo được áp dụng triệt để vào nghệ thuật biểu diễn múa rối nước. Cách độc thoại rối trên sân khấu không đơn thuần là nh