Đề tài Nghiên cứu công nghệ làm phân vi sinh từ bã mĩa, thiết kế chế tạo thiết bị nghiền bã mía năng suất 500kg/h trong dây chuyền làm phân vi sinh

Việt Nam là một nước nông nghiệp, được hình thành và phát triển từrất lâu. Những năm gần đây, cùng với xu thếphát triển chung của xã hội, ngành nông nghiệp Việt Nam cũng đã phát triển không ngừng có được điều đó là nhờ ứng dụng những thành tựu khoa học kỹthuật. Trong đó, ngành phân bón luôn đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong việc phát triển ngành nông nghiệp trồng trọt, nó quyết định cảvềchất lượng cũng nhưsản lượng thu hoạch của cây trồng, điều này đã được khẳng định từxưa và cho đến bây giờvẫn giữnguyên giá trị. Thấy được tầm quan trọng đó, ngay từnhững ngày đầu lập nước, Đảng và Nhà nước ta đã chú trọng đến phát triển ngành sản xuất phân bón phục vụsản xuất nông nghiệp. Trong đó, ngành sản xuất phân bón vô cơ, phân hỗn hợp NPK ởViệt Nam đến nay đã có những thành tựu phát triển quan trọng cảvềquy mô và chất lượng, bên cạnh đó lĩnh vực phân bón hữu cơ, phân vi sinh mặc dù đã xuất hiện từlâu nhưng chỉ ởquy mô nhỏlẻtại các hộnông dân và đa sốlà ở dạng phân hữu cơ đểtận dụng các phụphếliệu nông nghiệp của gia đình như trấu, vỏcà phê, chất thải chăn nuôi Thực tếsản xuất nông nghiệp đã khẳng định vai trò thiết yếu của phân hữu cơhay phân hữu cơvi sinh trong việc duy trì độphì nhiêu của đất, ổn định năng suất cây trồng, góp phần vào sản xuất nông nghiệp bền vững. Tuy nhiên, hiện nay nguồn phân hữu cơtừchất thải của gia súc ngày càng khan hiếm không đủ để đáp ứng cho canh tác nông nghiệp hiện đại, trong khi đó nguồn nguyên liệu từcác phụphếliệu của hầu hết các nhà máy chếbiến lại rất nhiều, đây là một nguồn hữu cơqúy giá đểsản xuất phân hữu cơvi sinh, trong đó có phụphếliệu của nhà máy mía đường vì lượng bã mía, bã bùn, rỉmật thải là rất lớn, lại giàu hữu cơdễchuyển hóa, không chỉvậy trên thực tếthửnghiệm phân hữu cơvi sinh được sản xuất từnguồn chất thải của nhà máy mía đường được cho là phù hợp với rất nhiều loại cây hơn so với các nguồn nguyên liệu khác nhưvỏcà phê, trấu, bã sắn,

pdf51 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 7665 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nghiên cứu công nghệ làm phân vi sinh từ bã mĩa, thiết kế chế tạo thiết bị nghiền bã mía năng suất 500kg/h trong dây chuyền làm phân vi sinh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1 BỘ CÔNG THƯƠNG TỔNG CÔNG TY MÁY ĐỘNG LỰC VÀ MÁY NÔNG NGHIỆP VIỆN NGHIÊN CỨU THIẾT KẾ CHẾ TẠO MÁY NÔNG NGHIỆP ************** BÁO CÁO TỔNG KẾT ĐỀ TÀI KH – CN Tên đề tài : “NGHIÊN CỨU CÔNG NGHỆ LÀM PHÂN VI SINH TỪ Bà MÍA. THIẾT KẾ CHẾ TẠO THIẾT BỊ NGHIỀN Bà MÍA NĂNG SUẤT 500KG/H TRONG DÂY CHUYỀN LÀM PHÂN VI SINH” Mã số: 174-09 RD/HĐ - KHCN Cơ quan chủ quản: BỘ CÔNG THƯƠNG Cơ quan chủ trì: Viện NCTKCT MNN Chủ nhiệm đề tài: K.S. Nguyễn Minh Tùng 7731 27/02/2010 Hà nội, 12/2009 2 BỘ CÔNG THƯƠNG TỔNG CÔNG TY MÁY ĐỘNG LỰC VÀ MÁY NÔNG NGHIỆP VIỆN NGHIÊN CỨU THIẾT KẾ CHẾ TẠO MÁY NÔNG NGHIỆP BÁO CÁO TỔNG KẾT ĐỀ TÀI Mã số: 174- 09 RD/HĐ - KHCN Tên đề tài: “NGHIÊN CỨU CÔNG NGHỆ LÀM PHÂN VI SINH TỪ Bà MÍA. THIẾT KẾ CHẾ TẠO THIẾT BỊ NGHIỀN Bà MÍA NĂNG SUẤT 500KG/H TRONG DÂY CHUYỀN LÀM PHÂN VI SINH” Đơn vị chủ trì VIỆN NCTKCT MÁY NÔNG NGHIỆP Chủ nhiệm đề tài Ks. Nguyễn Minh Tùng Hà Nội, tháng 12 /2009 3 Danh sách những người thực hiện TT Họ và tên Học hàm, học vị, chuyên môn Chức vụ Cơ quan 1 Nguyễn Tường Vân Tiến sỹ Viện trưởng Viện 2 Đặng Việt Hòa Thạc sỹ Trưởng phòng NCTKCT 3 Đỗ Mai Trang Thạc sỹ Máy 4 Đỗ Văn Mạnh Kỹ sư Nông 5 Vũ Ngọc Tú Cán bộ kỹ thuật nghiệp 6 Nguyễn Thị Hằng Cử Nhân 7 Đinh Văn Thắng Kỹ sư 8 Nguyễn Văn Thành Kỹ sư 4 MỤC LỤC TT Danh mục Tr I. LỜI MỞ ĐẦU 6 II. NỘI DUNG CHÍNH 8 2.1. Khái niệm về phân hữu cơ sinh học và phân hữu cơ vi sinh 8 2.2. Các ứng dụng của bã mía và tình hình sản xuất phân vi sinh từ bã mía 8 2.2.1 Các ứng dụng của bã mía từ nhà máy đường 10 2.2.2 Tình hình hình sản xuất phân vi sinh từ bã mía trong dây chuyền ở nước ngoài 13 2.2.3 Tình hình hình sản xuất phân vi sinh từ bã mía ở trong nước 13 2.3. Nghiên cứu, khảo sát quy trình công nghệ sản xuất phân vi sinh từ bã mía 15 2.3.1. Khái quát quy trình công nghệ sản xuất phân vi sinh từ bã mía 15 2.3.2. Xây dựng công nghệ và thiết bị sản xuất phân hữu cơ vi sinh từ nguồn bã mía 16 a. Tìm hiểu quy trình công nghệ sản xuất phân hữu cơ vi sinh của FITOHOOCMON đã được áp dụng 16 b. Quy trình công nghệ sản xuất phân hữu cơ vi sinh từ bã mía và các chất thải từ nhà máy mía đường khác 19 c. Sơ đồ công nghệ sản và thiết bị sản xuất phân hữu cơ vi sinh từ bã mía và các chất thải từ nhà máy mía đường khác 26 2.4. Lựa chọn mẫu máy nghiền bã mía 29 a. Yêu cầu về mặt công nghệ của sản phẩm sau nghiền 29 b. Sơ lược nguyên lý làm việc của một số máy nghiền nông sản và phụ phế liệu nông nghiệp. 29 c. Tìm hiểu các mẫu máy nghiền nguyên liệu nhiều chất xơ ở nước ngoài 31 d. Phân tích và lựa chọn mẫu máy nghiền phù hợp 32 2.5. Tính toán một số tham số động học làm cơ sở thiết kế máy máy nghiền bã mía. 36 5 2.5.1. Vận tốc đầu búa. 36 2.5.2. Thiết kế thông số hình học của búa, đường kính đĩa treo và chiều rộng rô to nghiền. 37 a. Đường kính đầu búa. 38 b. Chiều rộng rô to nghiền 38 c. Các thông số hình học của búa 38 d. Số lượng búa 40 e. Khe hở giữa đầu búa và sàng (∆R) 40 f. Đường kính đĩa treo búa 40 g. Tính toán thiết kế lựa chọn quạt và Cyclone cho máy nghiền 41 h. Tính toán công suất động cơ 42 i. Ứng dụng phần mềm thiết kế bộ truyền động Puli (bánh đai) đai thang 43 2.5.3. Kết quả thiết kế và các thông số kỹ thuật của máy nghiền bã mía năng suất 500 kg/giờ 46 2.6. Chạy khảo nghiệm máy nghiền bã mía năng suất 500 kg/giờ 47 a. Điều kiện khảo nghiệm 47 b. Kết quả 48 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 50 TÀI LIỆU THAM KHẢO 51 PHỤ LỤC Phụ lục 1: Quyết định của viện trưởng về việc thành lập hội đồng khảo nghiệm đề tài cấp Bộ Phụ lục 2: Danh sách hội đồng khảo nghiệm Phụ lục 3: Biên bản khảo nghiệm Phụ lục 4: Quyết định thành lập hội đồng nghiệm thu cấp cơ sở Phụ lục 5: Danh sách hội đồng nghiệm thu cấp cơ sở Phụ lục 6: Biên bản nghiệm thu sản phẩm của đề tài Phụ lục 7: Bản vẽ máy nghiền Phụ lục 8: Biên bản Đánh giá cấp cơ sở Phụ lục 9: Quyết định về việc thành lập hội đồng khoa học công nghệ để đánh giá, nghiệm thu kết quả đề tài nghiên cứu cấp Bộ 2009 Phụ lục 10: Hợp đồng nghiên cứu KH và phát triển CN năm 2009 6 I. LỜI MỞ ĐẦU Việt Nam là một nước nông nghiệp, được hình thành và phát triển từ rất lâu. Những năm gần đây, cùng với xu thế phát triển chung của xã hội, ngành nông nghiệp Việt Nam cũng đã phát triển không ngừng có được điều đó là nhờ ứng dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật. Trong đó, ngành phân bón luôn đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong việc phát triển ngành nông nghiệp trồng trọt, nó quyết định cả về chất lượng cũng như sản lượng thu hoạch của cây trồng, điều này đã được khẳng định từ xưa và cho đến bây giờ vẫn giữ nguyên giá trị. Thấy được tầm quan trọng đó, ngay từ những ngày đầu lập nước, Đảng và Nhà nước ta đã chú trọng đến phát triển ngành sản xuất phân bón phục vụ sản xuất nông nghiệp. Trong đó, ngành sản xuất phân bón vô cơ, phân hỗn hợp NPK ở Việt Nam đến nay đã có những thành tựu phát triển quan trọng cả về quy mô và chất lượng, bên cạnh đó lĩnh vực phân bón hữu cơ, phân vi sinh mặc dù đã xuất hiện từ lâu nhưng chỉ ở quy mô nhỏ lẻ tại các hộ nông dân và đa số là ở dạng phân hữu cơ để tận dụng các phụ phế liệu nông nghiệp của gia đình như trấu, vỏ cà phê, chất thải chăn nuôi… Thực tế sản xuất nông nghiệp đã khẳng định vai trò thiết yếu của phân hữu cơ hay phân hữu cơ vi sinh trong việc duy trì độ phì nhiêu của đất, ổn định năng suất cây trồng, góp phần vào sản xuất nông nghiệp bền vững. Tuy nhiên, hiện nay nguồn phân hữu cơ từ chất thải của gia súc ngày càng khan hiếm không đủ để đáp ứng cho canh tác nông nghiệp hiện đại, trong khi đó nguồn nguyên liệu từ các phụ phế liệu của hầu hết các nhà máy chế biến lại rất nhiều, đây là một nguồn hữu cơ qúy giá để sản xuất phân hữu cơ vi sinh, trong đó có phụ phế liệu của nhà máy mía đường vì lượng bã mía, bã bùn, rỉ mật thải là rất lớn, lại giàu hữu cơ dễ chuyển hóa, không chỉ vậy trên thực tế thử nghiệm phân hữu cơ vi sinh được sản xuất từ nguồn chất thải của nhà máy mía đường được cho là phù hợp với rất nhiều loại cây hơn so với các nguồn nguyên liệu khác như vỏ cà phê, trấu, bã sắn,… 7 Vì vậy, việc tìm hiểu các phương pháp công nghệ sản xuất phân vi sinh từ chất thải nhà máy mía đường, đồng thời kết hợp với kiến thức và kinh nghiệm chế tạo thiết bị máy chế biến nông nghiệp vốn có của đơn vị mình để từ đó đưa ra một sơ đồ các thiết bị và công nghệ sản xuất phân vi sinh phù hợp cũng như các thiết bị chính trong dây chuyền để đáp ứng được yêu cầu về vốn đầu tư cũng như chất lượng sản phẩm phân vi sinh ổn định, hiệu quả là rất cần thiết, cấp bách. Như vậy, đây có thể là một hướng đi mới đem lại hiệu quả cao. 8 II. NỘI DUNG CHÍNH 2.1. Khái niệm về phân hữu cơ sinh học và phân hữu cơ vi sinh Khái niệm về phân hữu cơ sinh học: Là sản phẩm phân bón được tạo thành thông qua quá trình lên men vi sinh vật các hợp chất hữu cơ có nguồn gốc khác nhau, có sự tác động của vi sinh vật hoặc các hợp chất sinh học được chuyển hóa thành mùn. Trong lọai phân này có đầy đủ thành phần là chất hữu cơ, có phối chế thêm các chế phẩm sinh học (vi sinh, nấm đối kháng) bổ sung thêm thành phần vô cơ đa lượng (NPK) và vi lượng. Tuỳ thuộc vào nhu cầu của sản xuất mà có thể cân đối phối trộn các loại phân nguyên liệu sao cho cây trồng phát triển tốt nhất mà không cần phải bón bất kỳ các loại phân đơn nào. Phân phức hợp hữu cơ sinh học có thể dùng để bón lót hoặc bón thúc. Loại phân này có hàm lượng dinh dưỡng cao nên khi bón trộn đều với đất. Nếu sản xuất phù hợp cho từng loại cây trồng thì đây là loại phân hữu cơ tốt nhất. Khái niệm phân hữu cơ vi sinh: là nhóm phân hữu cơ sinh học có bổ sung vi sinh vật trợ giúp và làm giàu dinh dưỡng, thường được chế biến bằng cách đưa thêm một số vi sinh vật có ích khác vào sau khi nhiệt độ đống ủ đã ổn định (~30oC ). Như nhóm vi khuẩn cố định nitơ tự do (Azotobacter), vi khuẩn hoặc nấm sợi phân giải phot phát khó tan (Bacillus polymixa, Bacillus megaterium, Pseudomonas striata; Aspergillus awamori .. ), xạ khuẩn Streptomyces. Rất nhiều loại phân hữu cơ vi sinh (có nguồn gốc từ phụ phế liệu nông nghiệp, chất thải các nhà máy chế biến nông lâm thủy sản) và các chế phẩm sinh học để sử dụng cho chúng đã được sản xuất tại Việt Nam. 2.2. Các ứng dụng của bã mía và tình hình sản xuất phân vi sinh từ bã mía Theo thống kê, khi thu hoạch mía thì sản phẩm chính của cây mía là đường saccaro, nhưng lại chiếm tỉ trọng nhỏ (khoảng 10% khối lượng cây mía), khối lượng các phụ phế liệu còn lại là rất lớn có thể biểu diễn bằng sơ đồ khối (hình 2.1) như sau: 9 Hình 2.1: Sơ đồ biểu diễn khối lượng thành phần cây mía đường (theo Z.O. Muller) Với lượng thải là ngọn mía và lá mía được người nông dân sử dụng chủ yếu làm thức ăn gia súc dưới hình thức cho ăn tươi hoặc sơ chế. Các thành phần còn lại sau đường (bã mía, bùn lọc, váng bọt và mật rỉ) đều là phụ phế liệu của nhà máy đường chiếm 29 ÷ 38% khối lượng cây mía, trong đó thành phần bã mía chiếm tỉ khối nhiều nhất (25 ÷ 30% khối lượng cây mía). Như vậy, với lượng phụ phế liệu đáng kể trên (nhất là lượng bã mía) thì để giải quyết việc tận dụng nguồn hữu cơ giàu năng lượng này là một bài toán đối với bất cứ nhà máy mía đường nào. Để có thể giải quyết được bài toán này thì trước hết cần tìm hiểu thành phần cơ bản của bã mía (Bảng 1) Cây mía đường Ngọn mía, lá mía 35-40% Thân cây được thu hoạch 60-65% Đường 9-10% Bã mía 25-30% Bùn lọc và váng bọt 1-4% Mật rỉ 3-4% 10 Bảng 1: Thành phần bã mía sau ép đường (Theo Gohl) Thành phần Tính theo vật chất khô (%) Tính theo khối lượng tươi (%) Độ ẩm 6,9 Protein thô 4 3,7 Chất béo 1,3 1,2 Chất xơ 37,0 34,5 Tro 3,9 3,6 Nitơ tự do chiết xuất được 53,8 50,1 2.2.1. Các ứng dụng của bã mía từ nhà máy đường Như đã phân tích ở trên, trong thành phần chất thải của nhà máy đường thì lượng bã mía chiếm khối lượng lớn nhất. Qua tìm hiểu thực tế các nhà máy mía đường trong nước cũng như qua sách báo và trên internet về việc sử dụng bã mía của nhà máy mía đường trên thế giới rất đa dạng và thay đổi theo nhu cầu thị trường. Do vậy, nhóm đề tài xin thống kê ra một số phương pháp sử dụng của bã mía đã và đang được áp dụng với quy mô công nghiệp ở trong nước cũng như các nước có ngành công nghiệp mía đường phát triển. ™ Sử dụng bã mía làm nhiên liệu đốt lò hơi. Hiện tại nhiều nhà máy đường ở nước ta đã dùng bã mía để đốt lò hơi, tuy nhiên trên thực tế cũng như theo tính toán (dựa vào nhiệt trị của bã mía ≈ 2.340 kCal/kg) thì với nhà máy sử dụng bã mía để đốt chỉ dùng hết 80% lượng bã mía là đáp ứng được toàn bộ lượng hơi để sản xuất trong nhà máy. Như vậy với nhà máy sử dụng phương án này thì mỗi khi ép khoảng 400 tấn mía cây thì sẽ cho ra 100 tấn bã mía và sau khi đốt lò hơi sẽ còn dư ra khoảng 5 tấn bã mía, số lượng bã mía này với một nhà máy quy mô trung bình 4500 tấn/ngày (tương đương nhà máy mía đường Gia Lai) thì lượng bã mía thừa sẽ khoảng 56 tấn bã mía/ngày, đây là một lượng bã mía khá lớn. 11 ™ Sử dụng bã mía làm thức ăn gia súc Theo bảng thành phần của bã mía (bảng 1) thì lượng xơ trong bã mía là khá lớn, nếu cứ để như vậy hoặc chỉ xử lý thô thì năng lượng gia súc tiêu hóa bã mía lớn hơn năng lượng mà chúng nhận được từ bã mía, cũng theo Issay Isaias, 1990 thì đối với con non khả năng tiêu hóa chất khô thường 25% và 50 % đối với con trưởng thành. Tuy nhiên ngày này với công nghệ phát triển, người ta đưa bã mía vào ủ và xử lý hóa học nhằm phân hủy một phần chất xơ, tăng vị ngon đồng thời vẫn giữ được giá trị dinh dưỡng. Hiện thực vấn đề này, đã có nhiều hãng trên thế giới đưa ra các dây chuyền thiết bị chế biến bã mía làm thức ăn gia súc ở quy mô công nghiệp (hãng Desmy - Đan Mạch, công ty BMA - Anh,…) ở trong nước cũng đã có nhà máy áp dụng các công nghệ này để chế biến bã mía, đơn cử Viện Nghiên cứu thiết kế chế tạo máy Nông nghiệp cũng đã đưa ra một hệ thống sấy bã mía (Hình 2.2) sau khi đã ủ và xử lý để làm thức ăn cho gia súc với quy mô 3 tấn/giờ. Hình 2.2: Hệ thống sấy bã mía làm thức ăn gia súc 3 tấn/giờ của Viện NCTKCT máy Nông nghiệp Như vậy, hướng đi này cũng đã giải quyết được phần nào lượng chất thải bã mía của nhà máy mía đường. Tuy nhiên chi phí để chế biến lượng bã mía thô 12 thành sản phẩm thức ăn gia súc là khá lớn do phải qua nhiều công đoạn, thời gian ủ lên men khá lâu,… do đó xu hướng tận dụng bã mía cho các lĩnh vực khác vẫn được tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện. ™ Sử dụng bã mía trong các lĩnh vực khác Trên đây, nhóm đề tài nêu ra hai lĩnh vực hiện được áp dụng chủ yếu để xử lý bã mía ở quy mô công nghiệp, ngoài ra bã mía còn được sử dụng với nhiều mục đích khác nhau như: - Sử dụng bã mía để nuôi trồng nấm ăn - Sử dụng bã mía để sản xuất tấm lợp, ván ép - Sử dụng bã mía để sản xuất giấy - Sử dụng bã mía trong công nghệ sản xuất chất dẻo Như vậy, mặc dù trên thực tế đã và đang có nhiều công nghệ để xử lý lượng bã mía thải “khổng lồ” của nhà máy mía đường, nhưng qua tìm hiểu và phân tích đã cho thấy cần phải nghiên cứu thêm những lĩnh vực khác để xử lý lượng bã mía còn dư này. Như đã đề cập phương án sử dụng bã mía để sản xuất phân hữu cơ vi sinh là rất khả thi vì: - Hiện các phụ phẩm cuối của rỉ mật, bã mía (sau khi làm nấm) cũng như bùn lọc và tro lò đã được phần lớn các nhà máy dùng làm phân hữu cơ vi sinh. Do vậy có thể đưa ra một công nghệ sản xuất phân vi sinh để bổ sung thêm lượng bã mía còn thừa sau khi đốt nồi hơi. Phương án dùng bã mía để sản xuất phân vi sinh không chỉ giúp nhà máy sử dụng triệt để nguồn bã mía mà còn quay lại cải tạo đất như đã phân tích ở trên. - Có thể phát triển ở quy mô công nghiệp nhờ ứng dụng các thiết bị và công nghệ tiên tiến. 13 2.2.2. Tình hình hình sản xuất phân vi sinh từ bã mía và chế tạo thiết bị nghiền bã mía trong dây chuyền ở nước ngoài Trên thế giới hiện nay có trên 60 quốc gia có ngành công nghiệp mía đường, dự kiến niên vụ 2007- 2008 sản lượng đường thế giới đạt khoảng 169 triệu tấn. Bên cạnh đó, lượng chất thải của nhà máy mía đường cũng tăng theo. Hiện nay, những nước có nền công nghiệp mía đường lớn như CuBa, Braxin, Ấn Độ,…thì bã mía được thải ra từ nhà máy vẫn chủ yếu được sử dụng vào hai lĩnh vực chính là: làm nhiên liệu (bằng cách đốt trực tiếp hoặc ép viên nhiên liệu) và sử dụng bã mía, các chất thải cuối khác làm phân hữu cơ vi sinh rất được coi trọng. Về công nghệ sản xuất nói chung bã mía được nghiền nhỏ kết hợp với các nguồn hữu cơ khác trộn đều ủ để vi sinh vật phân giải sau đó phối trộn thêm NPK và cấy men vi lượng sẽ cho ra được phân vi sinh từ bã mía. Trong công đoạn sản xuất trên kích thước bã mía sau khi nghiền co ảnh hưởng rất lớn đến thời gian sản xuất, độ đồng đều cũng như chất lượng của phân vi sinh, do đó việc tính toán thiết kế thiết bị nghiền bã mía là rất quan trọng. 2.2.3. Tình hình hình sản xuất phân vi sinh từ bã mía ở trong nước Để sản xuất đường, hàng năm Việt Nam phải trồng từ 10 đến 12 triệu tấn mía cây, khi biến số lượng mía này để làm đường sinh ra một lượng phế thải khổng lồ: 2,5 triệu tấn bã mía, 250.000 tấn bã bùn (sau khi đã lấy nước đường) và 250.000 tấn mật rỉ. Trước đây 80% lượng bã mía này được dùng để đốt lò hơi trong các nhà máy sản xuất đường, sinh ra 50.000 tấn tro và 20% còn lại là 500.000 tấn bã được dùng làm ván ép, còn mật rỉ dùng để sản xuất cồn, mỳ chính hoặc dùng cho các công nghệ vi sinh khác như chế biến thành thức ăn chăn nuôi. Riêng tro và đặc biệt là bã bùn không sử dụng phải đổ ra các bãi đất trống gây ô nhiễm nghiêm trọng. Đứng trước tình hình đó, đã có thêm nhiều giải pháp được đặt ra để sử dụng triệt để nguồn chất thải này đơn cử như làm thức ăn chăn nuôi, với giải pháp này chỉ sử dụng với những loại bã mía sạch, chất lượng tốt mặt khác vẫn chưa giải 14 quyết được thành phần bã bùn (nguyên nhân chính gây hôi thối khi đổ ra ngoài môi trường). Một giải pháp được coi khả quan nhất xét cả về mặt kinh tế đó là làm phân vi sinh. Sở dĩ như vậy vì giải pháp này đã quay lại cải tạo đất trồng mía, đơn cử diện tích canh tác từ 250.000 đến 300.000 ha chủ yếu là đất bạc màu và vùng nhiễm phèn nặng (không trồng được các loại cây khác). Vì thế, để trồng được 250.000 ha mía, ngoài phân hóa học (đạm - lân - kali) tối thiểu phải bón 4 ÷ 5 tấn phân chuồng cho 1 ha tức là phải có 1 triệu tấn phân chuồng bón cho 250.000 ha. Số lượng phân này sẽ được bù đắp bằng lượng phân vi sinh được sản xuất từ bã mía. Nắm được vấn đề này đã có nhiều đề tài nghiên cứu công nghệ sản xuất phân bón hữu cơ vi sinh (phân bón Huđavil, Fitohoocmon) từ nguồn chất thải nhà máy mía đường. Hai công nghệ này đã được áp dụng thử nghiệm ở bảy nhà máy đường, ngoài mía đã được bón thử nghiệm cho lúa, chè, hồ tiêu... ở một số địa phương đạt kết quả tốt: Cho phép thâm canh tăng năng suất lúa lên 25% - 30% ở Tam Điệp (Ninh Bình), tăng năng suất chè lên 70% ở Văn Chấn, Nghĩa Lộ (Yên Bái), tăng năng suất hồ tiêu gần 100% ở Tân Lâm (Quảng Trị); một số loại cây công nghiệp trồng ở Tuyên Quang, Hà Nam, Thanh Hóa, Nghệ An... năng suất tăng gấp ba lần; mía trồng ở Thạch Thành, Nông Cống (Thanh Hóa), Quảng Hà (Cao Bằng)... luôn xanh tốt, chịu được hạn, giữ được đường lâu, ít sâu bệnh... nên được người dân ưa dùng loại phân bón này. Tuy nhiên với công nghệ này nguồn hữu cơ dùng vẫn chủ yếu là bã bùn, tro lò sau khi đốt bã mía, lượng bã mía còn chiếm tỷ lệ nhỏ do thời gian vi sinh vật phân huỷ chất xơ lâu, để rút ngắn thời gian này đòi hỏi bã mía phải nghiền nhỏ và mịn. Như vậy, ta đã khẳng định được tầm quan trọng của công nghệ, thiết bị sản xuất phân bón hữu cơ vi sinh từ nguồn chất thải nhà máy mía đường. Khi nghiên cứu công nghệ sản xuất phân hữu cơ vi sinh từ bã mía, người ta cũng nhận thấy chất lượng, năng suất phân bón phụ thuộc nhiều ở thiết bị nghiền, vì nguồn nguyên liệu này rất nhiều chất xơ. Do đó việc nghiên cứu, chế tạo ra mẫu máy đáp ứng được yêu cầu là rất quan trọng trong dây chuyền công nghệ này. 15 2.3. Nghiên cứu, khảo sát quy trình công nghệ sản xuất phân vi sinh từ bã mía 2.3.1. Khái quát quy trình công nghệ sản xuất phân vi sinh từ bã mía Việc thành lập ra một sơ đồ thiết bị và công nghệ đồng bộ để sản xuất phân hữu cơ vi sinh từ bã mía phù hợp là một trong những nhiệm vụ của đề tài. Để thực hiện, trước tiên nhóm đề tài tìm hiểu các quy trình công nghệ hiện đã và đang được ứng dụng tại các nhà máy mía đường trong và ngoài nước, từ đó có thể đưa ra sơ đồ thiết bị và công nghệ sản xuất phân vi sinh. Trên thế giới cũng như ở Việt Nam, đã có nhiều phương pháp tận dụng được nguồn phế thải của nhà máy mía đường trên và phân hữu cơ vi sinh được coi là sản phẩm cuối cùng. Trong phạm vi của đề tài, nhóm đề tài chỉ tập trung vào nghiên cứu, phân tích quy trình công nghệ sản xuất phân vi sinh từ chất thải nhà máy mía đường với giải pháp nguồn hữu cơ chủ yếu của phân vi sinh là bã mía. Trong chất thải nhà máy mía đường thì bã mía có tỉ trọng lớn nhất, thông thường các nhà máy sẽ sử dụng một phần để làm nhiên liệu đốt lò hơi, lượng tro được lấy ra cũng sẽ được đưa vào làm phân vi sinh, lượng bã mía còn lại sẽ được nghiền nhỏ làm phân vi sinh. Một thành phần của bã thải là bã bùn, váng bọt (chiếm 1÷4% so với cây mía), thành phần này chủ yếu là đất bùn (các Oxit SiO2, CaO, P2O5, MgO,…), chất xơ, đường, prôtein, Lipit,… đây là thành phần được đem đi sản xuất phân vi sinh ngay. Trong chất thải của nhà máy còn một thành phần đáng kể nữa là rỉ đường (chiếm 3÷4% lượng mía đưa vào), đây là thành phần vẫn còn nhiều đường (chiếm 48÷52% đường), ngoài ra rỉ đường rất giàu các chất sinh trưởng (các axit pantotenic, folic, B1, B2, biotin,…). Do đó, rỉ đường là nguồn nguyên liệu rất tốt để lên men sản xuất cồn (etylic), axit axetic, mì chính,… Trong qua trình sản xuất
Luận văn liên quan