Chăn nuôi ngày càng có vị trí hết sức quan trọng trong cơ cấu của ngành nông nghiệp. Sản phẩm của ngành chăn nuôi là nguồn thực phẩm không thể thiếu được đối với nhu cầu đời sống con người. Chủ trương hiện nay của nhà nước là phát triển ngành chăn nuôi thành ngành sản xuất hàng hóa thực sự nhằm tạo ra sản phẩm chăn nuôi có chất lượng cao phục vụ cho nhu cầu tiêu thụ trong nước và một phần cho xuất khẩu.
Nói đến ngành chăn nuôi phải kể đến chăn nuôi lợn bởi tầm quan trọng và ý nghĩa thiết thực của nó đối với đời sống kinh tế xã hội của nhân dân. Chăn nuôi lợn đã góp phần giải quyết công ăn việc làm, xóa đói giảm nghèo, tăng thu nhập và là cơ hội làm giàu cho nông dân.
Theo thống kê của tổ chức nông lương thế giới (FAO), Việt Nam là nước nuôi nhiều lợn, đứng hàng thứ 7 thế giới, hàng thứ 2 châu á và ở vị trí hàng đầu khu vực đông nam châu á. Hiện nay nước ta đang có gần 23 triệu đầu lợn, bình quân tốc độ tăng hàng năm là 3,9%, đảm bảo cung cấp 80% sản phẩm thịt cho thị trường nội địa và một phần cho xuất khẩu. Kế hoạch đến năm 2010, Việt Nam sẽ có 25 triệu đầu lợn và sẽ đạt sản lượng 2 triệu tấn thịt, chiếm tỷ trọng trên 30% tổng thu nhập của ngành nông nghiệp ( Trích theo Đoàn Thị Kim Dung (2004) [3]).
Yên Định là huyện đồng bằng cuả tỉnh Thanh Hóa, sản xuất nông nghiệp là chủ yếu. Trong những năm gần đây, thực hiện mục tiêu Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn theo chủ chương của Đảng và Nhà nước, Yên Định đã tập trung chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu trong nông nghiệp, ngành chăn nuôi từng bước đã có sự đầu tư về khoa học kỹ thuật, vốn, đưa giống mới có giá trị kinh tế cao vào sản xuất góp phần làm thay đổi bộ mặt kinh tế nông thôn. Trong những năm qua tốc độ phát triển chăn nuôi đạt khá cao 18,5%, tỷ trọng giá trị chăn nuôi trong ngành nông nghiệp đến năm 2007 của huyện là 39,5%, Phòng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn huyện Yên Định (2006) [34]
Với địa hình thuận lợi, chính sách phát triển chăn nuôi phù hợp, đặc biệt địa bàn huyện có Công ty sản xuất giống lợn của tỉnh, nên chăn nuôi lợn phát triển mạnh mẽ. Mấy năm gần đây Yên Định là huyện điển hình của tỉnh trong phong trào chăn nuôi lợn đặc biệt là chăn nuôi lợn ngoại theo mô hình trang trại. Năm 2007, tổng số đầu lợn của huyện là 71.000 con, kế hoạch đến năm 2010 sẽ là 120.000 con chiếm 6% tổng kế hoạch phát triển chăn nuôi đàn lợn của tỉnh. Mô hình chăn nuôi trang trại ngày càng được nhân rộng. Năm 2005, toàn huyện có 49 trang trại chăn nuôi lợn, đến năm 2007 là 95 trang trại và kế hoạch đến năm 2010 sẽ là 168 trang trại. Quy mô cũng ngày càng được mở rộng, đã có trang trại nuôi từ 80 – 100 nái ngoại.
Chăn nuôi lợn là thế mạnh trong phát triển nông nghiệp của huyện. Theo kế hoạch đề ra đến, năm 2010 tổng đàn lợn sẽ tăng 49.000 con so với năm 2007 (chiếm 69%). Chăn nuôi lợn theo mô hình trang trại với quy mô lớn với những con giống cho năng xuất chất lượng sản phẩm cao là hướng đi chính trong sản xuất chăn nuôi của huyện thúc đẩy ngành chăn nuôi lợn thành ngành sản xuất hàng hóa thực sự trong những năm tiếp theo.
Với sự đầu tư khá lớn về con giống, kỹ thuật, vốn, xây dựng chuồng trại nhưng hiện nay vẫn tồn tại hai kiểu chuồng nuôi là chuồng nền và chuồng sàn. Bên cạnh đó dịch bệnh ở đàn lợn vẫn xảy ra thường xuyên, trong đó hội chứng tiêu chảy với đặc điểm dịch tễ hết sức phức tạp, đã và đang gây nên những thiệt hại to lớn, làm giảm năng xuất và chất lượng sản phẩm vật nuôi. Bệnh thường xuất hiện khi gia súc chuyển vùng, điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng không hợp lý, thức ăn kém phẩm chất, do bội nhiễm vi khuẩn E. Coli, Salmonella .trong đó những bất lợi của điều kiện ngoại cảnh là yếu tố mở đường, đóng vai trò quan trọng trong quá trình bệnh
Để đánh giá tình hình hội chứng tiêu chảy ở đàn lợn nuôi trong kiểu chuồng nền và chuồng sàn, giảm tỷ lệ bệnh, tỷ lệ chết, có biện pháp phòng bệnh thích hợp, nâng cao hiệu quả chăn nuôi, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu tình hình hội chứng tiêu chảy ở đàn lợn nuôi trong chuồng nền và chuồng sàn tại huyện Yên Định – tinh Thanh Hóa”
125 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 6157 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nghiên cứu tình hình hội chứng tiêu chảy ở đàn lợn nuôi trong chuồng nền và chuồng sàn tại Huyện Yên Định – Tỉnh Thanh Hóa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1. Mở đầu
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Chăn nuôi ngày càng có vị trí hết sức quan trọng trong cơ cấu của ngành nông nghiệp. Sản phẩm của ngành chăn nuôi là nguồn thực phẩm không thể thiếu được đối với nhu cầu đời sống con người. Chủ trương hiện nay của nhà nước là phát triển ngành chăn nuôi thành ngành sản xuất hàng hóa thực sự nhằm tạo ra sản phẩm chăn nuôi có chất lượng cao phục vụ cho nhu cầu tiêu thụ trong nước và một phần cho xuất khẩu.
Nói đến ngành chăn nuôi phải kể đến chăn nuôi lợn bởi tầm quan trọng và ý nghĩa thiết thực của nó đối với đời sống kinh tế xã hội của nhân dân. Chăn nuôi lợn đã góp phần giải quyết công ăn việc làm, xóa đói giảm nghèo, tăng thu nhập và là cơ hội làm giàu cho nông dân.
Theo thống kê của tổ chức nông lương thế giới (FAO), Việt Nam là nước nuôi nhiều lợn, đứng hàng thứ 7 thế giới, hàng thứ 2 châu á và ở vị trí hàng đầu khu vực đông nam châu á. Hiện nay nước ta đang có gần 23 triệu đầu lợn, bình quân tốc độ tăng hàng năm là 3,9%, đảm bảo cung cấp 80% sản phẩm thịt cho thị trường nội địa và một phần cho xuất khẩu. Kế hoạch đến năm 2010, Việt Nam sẽ có 25 triệu đầu lợn và sẽ đạt sản lượng 2 triệu tấn thịt, chiếm tỷ trọng trên 30% tổng thu nhập của ngành nông nghiệp ( Trích theo Đoàn Thị Kim Dung (2004) [3]).
Yên Định là huyện đồng bằng cuả tỉnh Thanh Hóa, sản xuất nông nghiệp là chủ yếu. Trong những năm gần đây, thực hiện mục tiêu Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn theo chủ chương của Đảng và Nhà nước, Yên Định đã tập trung chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu trong nông nghiệp, ngành chăn nuôi từng bước đã có sự đầu tư về khoa học kỹ thuật, vốn, đưa giống mới có giá trị kinh tế cao vào sản xuất góp phần làm thay đổi bộ mặt kinh tế nông thôn. Trong những năm qua tốc độ phát triển chăn nuôi đạt khá cao 18,5%, tỷ trọng giá trị chăn nuôi trong ngành nông nghiệp đến năm 2007 của huyện là 39,5%, Phòng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn huyện Yên Định (2006) [34]
Với địa hình thuận lợi, chính sách phát triển chăn nuôi phù hợp, đặc biệt địa bàn huyện có Công ty sản xuất giống lợn của tỉnh, nên chăn nuôi lợn phát triển mạnh mẽ. Mấy năm gần đây Yên Định là huyện điển hình của tỉnh trong phong trào chăn nuôi lợn đặc biệt là chăn nuôi lợn ngoại theo mô hình trang trại. Năm 2007, tổng số đầu lợn của huyện là 71.000 con, kế hoạch đến năm 2010 sẽ là 120.000 con chiếm 6% tổng kế hoạch phát triển chăn nuôi đàn lợn của tỉnh. Mô hình chăn nuôi trang trại ngày càng được nhân rộng. Năm 2005, toàn huyện có 49 trang trại chăn nuôi lợn, đến năm 2007 là 95 trang trại và kế hoạch đến năm 2010 sẽ là 168 trang trại. Quy mô cũng ngày càng được mở rộng, đã có trang trại nuôi từ 80 – 100 nái ngoại.
Chăn nuôi lợn là thế mạnh trong phát triển nông nghiệp của huyện. Theo kế hoạch đề ra đến, năm 2010 tổng đàn lợn sẽ tăng 49.000 con so với năm 2007 (chiếm 69%). Chăn nuôi lợn theo mô hình trang trại với quy mô lớn với những con giống cho năng xuất chất lượng sản phẩm cao là hướng đi chính trong sản xuất chăn nuôi của huyện thúc đẩy ngành chăn nuôi lợn thành ngành sản xuất hàng hóa thực sự trong những năm tiếp theo.
Với sự đầu tư khá lớn về con giống, kỹ thuật, vốn, xây dựng chuồng trại nhưng hiện nay vẫn tồn tại hai kiểu chuồng nuôi là chuồng nền và chuồng sàn. Bên cạnh đó dịch bệnh ở đàn lợn vẫn xảy ra thường xuyên, trong đó hội chứng tiêu chảy với đặc điểm dịch tễ hết sức phức tạp, đã và đang gây nên những thiệt hại to lớn, làm giảm năng xuất và chất lượng sản phẩm vật nuôi. Bệnh thường xuất hiện khi gia súc chuyển vùng, điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng không hợp lý, thức ăn kém phẩm chất, do bội nhiễm vi khuẩn E. Coli, Salmonella ...trong đó những bất lợi của điều kiện ngoại cảnh là yếu tố mở đường, đóng vai trò quan trọng trong quá trình bệnh
Để đánh giá tình hình hội chứng tiêu chảy ở đàn lợn nuôi trong kiểu chuồng nền và chuồng sàn, giảm tỷ lệ bệnh, tỷ lệ chết, có biện pháp phòng bệnh thích hợp, nâng cao hiệu quả chăn nuôi, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu tình hình hội chứng tiêu chảy ở đàn lợn nuôi trong chuồng nền và chuồng sàn tại huyện Yên Định – tinh Thanh Hóa”
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
- Xác định tình hình hội chứng tiêu chảy ở lợn theo: lứa tuổi, mùa vụ ở lợn nuôi trong hai kiểu chuồng nuôi.
- Đo độ ẩm ở hai kiểu chuồng nuôi.
- Xác định sự biến động tổng số vi khuẩn hiếu khí, vi khuẩn E.coli và vi khuẩn Salmonella trong phân lợn tiêu chảy nuôi ở hai kiểu chuồng.
- Xác định khả năng mẫn cảm với kháng sinh của E.coli và Salmonella phân lập.
- ứng dụng một số phác đồ điều trị bằng kháng sinh.
- ứng dụng điều trị bệnh tiêu chảy bằng kháng sinh mẫn cảm kết hợp chế phẩm sinh học.
1.3. ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
1.4.1. ý nghĩa khoa học
- Kết quả nghiên cứu của đề tài là cơ sở đánh giá tình hình hội chứng tiêu chảy ở đàn lợn nuôi trong hai kiểu chuồng trên địa bàn huyện Yên Định - Thanh Hoá, ảnh hưởng của mùa vụ, lứa tuổi đến tỷ lệ bị bệnh, tỷ lệ chết.
- Đánh giá được tình trạng loạn khuẩn đường tiêu hoá, khả năng mẫn cảm kháng sinh của E.coli và Salmonella phân lập được từ lợn bị tiêu chảy nuôi trong hai kiểu chuồng.
1.4.2. ý nghĩa thực tiễn
- Kết quả nghiên cứu về tình hình hội chứng tiêu chảy ở đàn lợn nuôi trong hai kiểu chuồng khác nhau là cơ sở khoa học để xác định các biện pháp phòng bệnh cho đàn lợn, hạn chế ảnh hưởng của các điều kiện ngoại cảnh, chuồng trại đối với từng lứa tuổi, phù hợp với điều kiện của các cơ sở chăn nuôi, nhằm làm giảm tỷ lệ bệnh.
- Kết quả xác định khả năng mẫn cảm với kháng sinh của E.coli và Salmonella là cơ sở khoa học cho việc xây dựng các phác đồ điều trị phù hợp và có hiệu quả hội chứng tiêu chảy ở đàn lợn, làm giảm tỷ lệ chết, giảm tỷ lệ còi cọc, nâng cao hiệu quả chăn nuôi.
2. Tổng quan tài liệu
2.1. Những nghiên cứu về hội chứng tiêu chảy
Hội chứng tiêu chảy ở lợn là một bệnh phổ biến đã và đang gây thiệt hại lớn cho ngành chăn nuôi. Hội chứng tiêu chảy gây chết với tỷ lệ thấp, nhưng tác hại của nó là làm tổn thương hệ nhung mao ruột non, giảm hấp thu thức ăn, làm cho lợn con còi cọc, tăng chỉ số tiêu tốn thức ăn cho 1 kg tăng trọng. Nguy hiểm hơn nguyên nhân của hội chứng tiêu chảy rất phức tạp đã gây ra sự nhầm lẫn trong chẩn đoán và điều trị. Qua nhiều nghiên cứu cho thấy, tiêu chảy là một hiện tượng bệnh lý ở đường tiêu hóa, có liên quan đến rất nhiều các yếu tố, có yếu tố là nguyên nhân nguyên phát, có yếu tố là nguyên nhân thứ phát.
Tuỳ theo đặc điểm, tính chất, diễn biến; tuỳ theo độ tuổi gia súc; tuỳ theo yếu tố được coi là nguyên nhân chính mà hội chứng ỉa chảy được gọi bằng các tên khác nhau như: Bệnh lợn con ỉa phân trắng, bệnh ỉa chảy ở gia súc sau cai sữa; chứng khó tiêu; chứng rối loạn tiêu hoá…
Các nghiên cứu bệnh lý tiêu chảy ở gia súc cho thấy biểu hiện bệnh lý chủ yếu là tình trạng mất nước và chất điện giải và cuối cùng con vật trúng độc, kiệt sức và chết. Vì lẽ đó, trong điều trị tiêu chảy việc bổ sung nước và các chất điện giải là yếu tố cần thiết.
Theo Nguyễn Lương (1963) [20], Trịnh Văn Thịnh (1985) [59], Lê Minh Chí (1995) [1], lợn bị tiêu chảy thường mất nước, mất chất điện giải và kiệt sức. Những lợn khỏi bệnh thường chịu hậu quả còi cọc, thiếu máu, chậm lớn dẫn đến tỷ lệ nuôi sống thấp và tỷ lệ chết cao. Đó cũng là nguyên nhân làm cho hiệu quả chăn nuôi không cao.
Do điều kiện khí hậu thời tiết thay đổi phức tạp, bệnh tiêu chảy xảy ra quanh năm ở nước ta, đặc biệt khi thời tiết thay đổi đột ngột, lạnh, độ ẩm không khí cao.
Theo Đoàn Thị Băng Tâm (1987) [51], Sử An Ninh (1993) [26], Lê Văn Tạo và cộng sự (cs) (1993) [48], Phan Thanh Phượng và cs (1995) [40], ở nước ta bệnh tiêu chảy xảy ra quanh năm, đặc biệt là vào vụ đông xuân, khi thời tiết thay đổi đột ngột và vào những giai đoạn chuyển mùa trong năm.
Kết quả nghiên cứu của Hoàng Văn Tuấn, Lê văn Tạo, Trần Thị Hạnh (1998) [62] cho thấy bệnh tiêu chảy xảy ra ở mọi lứa tuổi, sơ sinh, cai sữa và cả lợn sinh sản, nhưng trầm trọng nhất là ở lợn sơ sinh đến cai sữa.
2.1.1. Nguyên nhân gây ra hội chứng tiêu chảy
Trong lịch sử nghiên cứu về hội chứng tiêu chảy, nhiều tác giả đã dày công nghiên cứu, tìm hiểu nguyên nhân gây ra hội chứng tiêu chảy kết quả cho thấy nguyên nhân gây hội chứng tiêu chảy rất phức tạp. Tuy nhiên tiêu chảy là một hiện tượng bệnh lý ở đường tiêu hóa, có liên quan đến rất nhiều các yếu tố, có yếu tố là nguyên nhân nguyên phát, có yếu tố là nguyên nhân thứ phát. Song cho dù bất cứ nguyên nhân nào dẫn đến tiêu chảy thì hậu quả của nó cũng gây ra viêm nhiễm, tổn thương thực thể đường tiêu hoá và cuối cùng là nhiễm trùng. Qua nhiều nghiên cứu cho thấy, hội chứng tiêu chảy ở gia súc xảy ra do các nguyên nhân sau đây:
2.1.1.1. Do vi sinh vật
- Do vi khuẩn
Khi nghiên cứu về nguyên nhân gây hội chứng tiêu chảy nhiều tác giả đã kết luận rằng trong bất cứ trường hợp nào của bệnh cũng có vai trò tác động của vi khuẩn.
Trong đường ruột của gia súc nói chung và của lợn nói riêng, có rất nhiều loài vi sinh vật sinh sống. Vi sinh vật trong đường ruột tồn tại dưới dạng một hệ sinh thái. Hệ sinh thái vi sinh vật đường ruột ở trạng thái cân bằng động theo hướng có lợi cho cơ thể vật chủ. Hoạt động sinh lý của gia súc chỉ diễn ra bình thường khi mà hệ sinh thái đường ruột luôn ở trạng thái cân bằng. Sự cân bằng này biểu hiện ở sự ổn định của môi trường đường tiêu hóa của con vật và quan hệ cân bằng giữa các nhóm vi sinh vật với nhau trong hệ vi sinh vật đường ruột. Dưới tác động của các yếu tố gây bệnh, trạng thái cân bằng này bị phá vỡ dẫn đến loạn khuẩn và hậu quả là lợn bị tiêu chảy.
Nhiều tác giả nghiên cứu về hội chứng tiêu chảy đã chứng minh rằng khi gặp những điều kiện thuận lợi, những vi khuẩn thường gặp ở đường tiêu hóa sẽ tăng độc tính, phát triển với số lượng lớn trở thành có hại và gây bệnh.
Trịnh Văn Thịnh (1964) [58], Vũ Văn Ngữ (1979) [29],Trương Quang (2005) [45] cho rằng do một tác nhân nào đó, trạng thái cần bằng của khu hệ vi sinh vật đường ruột bị phá vỡ, tất cả hoặc chỉ một loại nào đó sinh sản lên quá nhiều sẽ gây ra hiện tượng loạn khuẩn. Loạn khuẩn đường ruột là nguyên nhân chủ yếu gây bệnh ở đường tiêu hoá, đặc biệt là gây ỉa chảy.
Bình thường vi khuẩn E.coli cư trú ở ruột già và phần cuối ruột non, nhưng khi gặp điều kiện thận lợi sẽ nhân lên với số lượng lớn ở lớp sâu tế bào thành ruột, đi vào máu đến các nội tạng.Trong máu, nhờ cấu trúc kháng nguyên O và khả năng dung huyết, vi khuẩn chống lại các yếu tố phòng vệ không đặc hiệu, khả năng thực bào. ở các cơ quan nội tạng, vi khuẩn này tiếp tục phát triển và sự cư trú của chúng làm cho con vật rơi vào trạng thái bệnh lý.
Đào Trọng Đạt và cs (1996) [6] cho biết, khi sức đề kháng của cơ thể giảm sút. E.coli thường xuyên cư trú trong đường ruột của lợn thừa cơ sinh sản rất nhanh và gây nên sự mất cân bằng hệ vi sinh vật đường ruột, gây tiêu chảy.
Khi tiến hành xét nghiệm 140 mẫu phân lợn khoẻ ở các lứa tuổi khác nhau (từ sơ sinh đến lợn nái) Hồ Văn Nam và cs (1997) [24] đã cho biết 100% các mẫu phân lợn ở các lứa tuổi có E.coli, xét nghiệm 170 mẫu phân lợn bị tiêu chảy ở các lứa tuổi tương tự, tỷ lệ này cũng là 100%, nhưng có sự bội nhiễm vi khuẩn đường ruột một cách rõ rệt. Trong phân lợn không tiêu chảy số lượng vi khuẩn 150,70 triệu/1 gram phân, nhưng khi bị tiêu chảy số lượng này đã là 196,35 triệu, tăng hơn 45, 65 triệu.
Theo Nguyễn Như Thanh và cs (2001) [54] ở bệnh phân trắng lợn con, tác nhân gây bệnh chủ yếu là E.coli, ngoài ra có sự tham gia của Salmonella và vai trò thứ yếu là Proteus, Streptococcus.
Theo Phạm Sỹ Lăng, Phan Địch Lân (1997) [17] tác nhân gây bệnh lợn con phân trắng chủ yếu là E.coli và nhiều loại Salmonella
Radostits O.M. và cs (1994) [82] cho rằng E.coli gây bệnh cho lợn là các chủng có kháng nguyên pili và sản sinh độc tố đường ruột đóng vai trò quan trọng và phổ biến trong quá trình tiêu chảy ở lợn.
Hồ Văn Nam, Trương Quang và cs (1997)[23] khi xét nghiệm phân lợn khoẻ và lợn bị tiêu chảy đã nhận thấy trong phân lợn thường xuyên có các loại vi khuẩn hiếu khí: E.coli, Salmonella Streptococcus, Klebsiella, Bacilus subtilis. Khi lợn bị tiêu chảy E.coli, Salmonella tăng lên một cách bội nhiễm.
Theo Nguyễn Thị Nội (1985) [33], các tác nhân gây bệnh tiêu chảy cho lợn ngoài Salmonella còn có nhiều loại vi khuẩn khác tham gia như E.coli, Streptococcus, Klebsiella, Proteus, Pseudomonas, trong đó chủ yếu là do E.coli độc, Salmonella và Streptococcus.
Trịnh Văn Thịnh (1985) [59] cho rằng tác nhân gây tiêu chảy ở lợn con là E.coli, nhiều loại Salmonella, đóng vai trò phụ là Proteus, trực trùng sinh mủ, Streptococcus.
Đoàn Thị Kim Dung (2004) [3] cho biết khi lợn bị tiêu chảy số loại vi khuẩn và tổng số vi khuẩn hiếu khí trong một gram phân tăng lên so với ở lợn không bị tiêu chảy. Khi phân lập tác giả thấy rằng các vi khuẩn đóng vai trò quan trọng trong hội chứng tiêu chảy như E.coli, Salmonella và Streptococcus tăng lên, trong khi Staphylococcus và Bacillus subtilis giảm đi.
Theo Nguyễn Thị Oanh (2003) [35] lợn nuôi ở Đắc Lắc nhiễm Salmonella với tỷ lệ 17,2%; trong đó lợn ở lứa tuổi 2- 4 tháng nhiễm Salmonella cao nhất (24,78%). Lợn khoẻ, tỷ lệ nhiễm Salmonella là 11,2%; trong khi đó ở lợn tiêu chảy nhiễm 23,68%.
Tạ Thị Vịnh, Đặng Khánh Vân (1996) [65] khi nghiên cứu E.coli và Salmonella cho biết tỷ lệ nhiễm E.coli độc ở lợn bình thường là 14,66%, ở lợn tiêu chảy tỷ lệ này là 33,84%.
Vũ Bình Minh, Cù Hữu Phú (1999) [21] khi nghiên cứu về E.coli ở phân lợn tiêu chảy, tỷ lệ phát hiện E.coli độc trong phân là 80- 90% số mẫu xét nghiệm.
Nguyễn Thị Nội (1985) [33] nghiên cứu định type kháng nguyên O của 5430 chủng E.coli phân lập ở lợn nuôI tại 8 tỉnh, thành phố trong cả nước cho biết các serotype gây bệnh phổ biến ở lợn là O141, O149, O117, O147, O138, và O139. Ngoài những chủng phổ biến trên, mỗi địa phương còn có những serotype riêng biệt.
Lê Văn Tạo (1996) [50] qua phân lập từ bệnh phẩm của lợn dưới 30 ngày tuổi, đã kết luận các chủng E.coli thuộc serotype kháng nguyên O thường gây bệnh phân trắng lợn con ở các cơ sở chăn nuôi phía Bắc là O111, O86, O26 tiếp đó là O141, và O1.
Theo Nagy B và cs (1991) [79] tiêu chảy ở lợn con trong thời kỳ bú mẹ phần lớn gây ra do các chủng O8, O129 ,O138 ,O141, O147 ,O149 và O157. Do vậy những nhóm này thường được phân lập từ phân của lợn tiêu chảy.
E.coli có sẵn trong đường ruột của động vật, nhưng không phải lúc nào cũng gây bệnh mà chỉ gây bệnh khi sức đề kháng của con vật giảm sút do chăm sóc nuôi dưỡng kém, điều kiện thời tiết thay đổi đột ngột, các bệnh kế phát.
Radostits O.M. (1994) [82] cho biết Salmonella là vi khuẩn có vai trò quan trọng trong quá trình gây ra hội chứng tiêu chảy. Hiện nay các nhà khoa học đã ghi nhận có khoảng 2.200 serotype Salmonella và được chia ra 67 nhóm huyết thanh dựa vào cấu trúc kháng nguyên O.
Theo Niconxki V.V. (1986) [27], Đoàn Thị Băng Tâm (1987) [51] thì sự xuất hiện bệnh do Salmonella phụ thuộc vào các điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng. Mỗi yếu tố bất lợi làm giảm sức đề kháng của vật nuôi đều phải coi là nguyên nhân tiên phát của sự xuất hiện bệnh.
Phùng Quốc Chướng (1995) [2] kết luận Salmonella có vai trò quan trọng gây nên hội chứng tiêu chảy ở lợn, đặc biệt là lợn sau cai sữa tại các tỉnh Tây Nguyên.
Tô Thị Phượng (2006) [43] khi nghiên cứu biến động của Salmonella và Ecoli ở lợn qua các lứa tuổi cho thấy, có 100 % các mẫu phân có vi khuẩn E.coli dù lợn bị tiêu chảy hay không tiêu chảy. Lợn từ sơ sinh đến 21 ngày tuổi tỷ lệ nhiễm Salmonella là 41,165%, sau đó theo độ tuổi tỷ lệ nhiễm tăng dần từ 58,33% đến 60%. Khi lợn bị tiêu chảy, tỷ lệ Salmonella cũng tăng lên đáng kể, tỷ lệ nhiễm là 81,25% ở lợn 1 – 21 ngày tuổi , 85,71% ở lợn 22 - 60 ngày tuổi và 75% ở lợn > 60 ngày tuổi. Số lượng vi khuẩn Salmonella cũng tăng lên từ 13,91 triệu đến 41,48 triệu vi khuẩn/1gram phân ở lợn từ 1 đến >60 ngày tuổi.
Nguyễn Thị Ngữ (2005) [32] khi nghiên cứu về E.coli và Salmonella trong phân lợn tiêu chảy và lợn không tiêu chảy cho biết: ở lợn không tiêu chảy có 83,30% - 88,29% số mẫu có E.coli, 61,00% - 70,50% số mẫu có mặt Salmonella. Trong khi đó ở mẫu phân của lợn bị tiêu chảy thì có tới 93,7% - 96,4% số mẫu phân lập có E.coli, và 75,0%-78,6% số mẫu phân lập có Salmonella.
Phan Thanh Phượng và cs (1996) [41] đã xác định vi khuẩn yếm khí Clostridium perfringens là một trong những tác nhân quan trọng gây ra hội chứng tiêu chảy ở lợn lứa tuổi 1 đến 120 ngày. ở lợn con theo mẹ, tỷ lệ mắc bệnh có thể đến 100% và tỷ lệ chết là 60%. Số lượng vi khuẩn Clostridium perfringens trong 1 gam phân lợn tiêu chảy ở lứa tuổi 1 đến 60 ngày dao động từ 106 đến 1010 CFU, số mẫu có lượng vi khuẩn cao (108, 109, 1010) chiếm tỷ lệ 37% đến 45%. ở lợn từ 60 đến 120 ngày tuổi bị tiêu chảy, những mẫu phân có số lượng vi khuẩn /1gram phân ở mức 108; 109 chiếm tỷ lệ 27,14% đến 35,71%.
Do virus
Đã có nhiều nghiên cứu chứng tỏ rằng vius cũng là nguyên nhân gây tiêu chảy ở lợn. Nhiều tác giả đã nghiên cứu và kết luận một số virus như Rota- virus, TGE, Enterovirus, Parvovirus, Adenovirus có vai trò nhất định gây hội chứng tiêu chảy ở lợn. Sự xuất hiện của vius đã làm tổn thương niêm mạc đường tiêu hóa, suy giảm sức đề kháng của cơ thể và gây ỉa chảy ở thể cấp tính.
Trước tiên là vius TGE (Transmissible gastro enteritis) được chú ý nhiều trong hội chứng tiêu chảy ở lợn. TGE gây bệnh viêm dạ dày ruột truyền nhiễm ở lợn, là một bệnh có tính chất truyền nhiễm cao, biểu hiện đặc trưng là nôn mửa và tiêu chảy nghiêm trọng. Bệnh thường xảy ra ở các cơ sở chăn nuôi tập trung khi thời tiết rét, lạnh. Virus chỉ gây bệnh cho lợn, lợn con 2 đến 3 ngày tuổi hay mắc nhất và thường có tỷ lệ chết cao. ở lợn, virus nhân lên mạnh nhất trong niêm mạc của không tràng và tá tràng rồi đến hồi tràng, chúng không sinh sản trong dạ dày và kết tràng.
Theo Phạm Sỹ Lăng, Phan Địch Lân, Trương Văn Dung (1997) [18] vius TGE có sự liên hệ đặc biệt với các tế bào màng ruột non. Khi vius xâm nhập vào tế bào nó nhân lên và phá hủy tế bào trong vòng 4 đến 5 tiếng. Sữa và các thức ăn khác ăn vào không tiêu hóa được ở lợn nhiễm vius TGE. Các chất dinh dưỡng không được tiêu hóa, nước không được hấp thu, con vật tiêu chảy, mất dịch, mất chất điện giải và chết.
Rotavirus thường gây tiêu chảy cho lợn, bò và người. Lợn con từ 1 đến 6 tuần tuổi hay mắc với các biểu hiện lâm sàng như kém ăn hay bỏ ăn, tiêu chảy nhiều lần trong ngày, gầy sút nhanh chóng do mất nước, nằm bẹp một chỗ. Giai đoạn cuối, con bệnh biểu hiện thiếu máu, truỵ tim mạch và chết trong vòng 2 đến 3 ngày. Lợn hậu bị thường mắc bệnh ở thể nhẹ, tỷ lệ chết ít hơn nhưng để lại những biến chứng.
Lecce J.G. (1976) [78], Nilson O. (1984) [80] nghiên cứu về virus gây bệnh đường tiêu hoá đã xác định được vai trò của Rotavirus trong hội chứng tiêu chảy ở lợn.
Khoon Teng Hout (1995) [14] đã thống kê được 11 loại virus có tác động làm tổn thương đường tiêu hoá gây viêm ruột ỉa chảy như Adenovirus type IV, Enterovirus, Rotavirus.
Theo Bergenland H.U. (1992) [67] trong số những mầm bệnh thường gặp ở lợn trước và sau cai sữa bị bệnh tiêu chảy có rất nhiều loại virus, 29% phân lợn bệnh tiêu chảy phân lập được Rotavirus, 11,2% có virus TGE, 2% có Enterovirus, 0,7% có Parvovirus.
2.1.1.2. Do ký sinh trùng
Ký sinh trùng ký sinh trong đường tiêu hóa là một trong những nguyên nhân gây hội chứng tiêu chảy. Khi ký sinh trong đường tiêu hóa ngoài việc chúng cướp đoạt chất dinh dưỡng của vật chủ, tiết độc tố đầu độc cơ thể vật chủ, chúng còn gây tác động cơ giới làm tổn thương niêm mạc đường tiêu hóa và là cơ hội khởi đầu cho một quá trình nhiễm trùng. Có rất nhiều loại ký sinh trùng đường ruột tác động gây ra hội chứng tiêu chảy như sán lá ruột lợn (Fasciolopsis busky), giun đũa lợn (Ascaris suum)…
Theo Phạm Văn Khuê, Phan Lục (1996) [15] sán lá ruột lợn và giun đũa lợn ký sinh trong đường tiêu hoá, chúng làm tổn thương niêm mạc đường tiêu hoá gây viêm ruột ỉa chảy.
Theo Phạm Sỹ Lăng, Phan Địch Lân, Trương Văn Dung (1997) [18] giun đũa ký sinh trong ruột non của lợn là loài Ascaris suum. Vòng đời giun đũa lợn phát triển và gây bệnh không cần vật chủ trung gian, lợn trực tiếp nuốt phải trứng g