Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm sinh lợi khác. Như vậy, mua bán hàng hóa qua SGD là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, hay nói cách khác là hoạt động kinh doanh nhằm tìm kiếm lợi nhuận của các chủ thể khi tham gia vào quan hệ thương mại.
17 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2521 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Nhận xét về các quy định của pháp luật hiện hành về mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
LỜI NÓI ĐẦU
NỘI DUNG 1
I. Khái quát chung về mua bán hàng hóa qua sở giao dịch 1
1. Định nghĩa mua bán hàng hóa qua sở giao dịch 1
2. Đặc điểm của mua bán hàng hóa qua sở giao dịch 1
2.1. Mua bán hàng hóa qua SGD là hoạt động thương mại 1
2.2. Về chủ thể 1
2.3. Hình thức mua bán hàng hóa thông qua SGD 2
2.4. Về phương thức giao dịch 2
2.5. Đối tượng của quan hệ MBHHQSGDHH 3
3. Ý nghĩa của hoạt động mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch 3
II. Pháp luật hiện hành về MBHHQSGDHH ở Việt Nam 3
1. Về tổ chức và hoạt động của SGDHH 4
1.1. Địa vị pháp lý của SGDHH 4
1.2. Điều kiện để thành lập SGDHH 5
1.3. Quyền và trách nhiệm của SGDHH 5
1.4. Thành viên của SGDHH 5
2. Hoạt động mua bán hàng hoá qua SGDHH 6
2.1. Hợp đồng mua bán hàng hoá qua SGDHH 6
2.2. Loại hàng hoá được phép đưa vào giao dịch 7
2.3. Phương thức giao dịch 8
2.4. Phương thức thực hiện hợp đồng 8
2.5. Chế độ ủy thác mua bán hàng hóa qua sở giao dịch 9
3. Quản lí nhà nước và cơ chế giải quyết tranh chấp, vi phạm, khiếu nại, tố cáo liên quan đến hoạt động mua bán hàng hoá qua SGDHH 9
4. Một số hành vi bị cấm trong mua bán hàng hóa qua sở giao dịch 9
5. Sở giao dịch hàng hóa của Việt Nam 10
III. Nhận xét về các quy định của pháp luật hiện hành về mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch 11
1. Những ưu điểm 11
2. Một số bất cập 12
3. Các giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam về mua bán hàng hóa qua sở giao dịch 14
KẾT LUẬN 15
TÀI LIỆU THAM KHẢO 16
NỘI DUNG
I. Khái quát chung về mua bán hàng hóa qua sở giao dịch
1. Định nghĩa mua bán hàng hóa qua sở giao dịch
Có nhiều định nghĩa khác nhau về hoạt động mua bán hàng hoá qua SGDHH trong các tài liệu, luật giao dịch hàng hoá của các nước, trong đó có LTM năm 2005, Nghị định của Chính phủ số 158/2006/NĐ-CP. Khoản 1 Điều 63 LTM năm 2005 quy định: “MBHHQSGDHH là hoạt động thương mại, theo đó các bên thỏa thuận thực hiện việc mua bán một lượng nhất định của một loại hàng hóa nhất định qua SGDHH theo những tiêu chuẩn của SGDHH với giá được thỏa thuận tại thời điểm giao kết hợp đồng và thời gian giao hàng được xác định tại một thời điểm trong tương lai”.
Có thể thấy, khái niệm mua bán hàng hóa qua SGDHH của LTM năm 2005 đã thể hiện đầy đủ bản chất của hoạt động mua bán hàng hóa qua SGDHH.
2. Đặc điểm của mua bán hàng hóa qua sở giao dịch
Mua bán hàng hóa qua SGDHH có những đặc điểm sau:
2.1. Mua bán hàng hóa qua SGD là hoạt động thương mại
Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm sinh lợi khác. Như vậy, mua bán hàng hóa qua SGD là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, hay nói cách khác là hoạt động kinh doanh nhằm tìm kiếm lợi nhuận của các chủ thể khi tham gia vào quan hệ thương mại.
2.2. Về chủ thể
Tham gia vào hoạt động MBHHQSGD gồm những chủ thể chính sau:
Thứ nhất, khách hàng (hay những người có nhu cầu mua bán hàng hoá qua SGD hàng hoá) là tổ chức, cá nhân không phải là thành viên của SGDhàng hoá, thực hiện hoạt động MBHHQSGDHH thông qua việc uỷ thác cho thành viên kinh doanh của SGDHH. Khách hàng là chủ thể hợp đồng mua bán hàng hoá qua SGD và không bắt buộc phải là thương nhân, chỉ là các tổ chức, cá nhân có nhu cầu mua bán hàng hoá qua sở giao dịch. Tuy nhiên, khách hàng không trực tiếp giao dịch tại SGD mà phải uỷ thác cho thành viên kinh doanh của SGD để thực hiện hoạt động mua hoặc bán hàng hoá qua sở giao dịch.
Thứ hai, thành viên kinh doanh của SGDHH. Thành viên kinh doanh có quyền thực hiện các hoạt động mua bán hàng hoá cho chính mình để tìm kiếm lợi nhuận hoặc nhận uỷ thác MBHHQSGDHH cho khách hàng để hưởng thù lao.
Thứ ba, thành viên môi giới của SGD. Thành viên môi giới thực hiện hoạt động môi giới MBHHQSGDHH để nhận thù lao. Thành viên môi giới không được nhận uỷ thác của khách hàng như thành viên kinh doanh để MBHHQSGDHH mà chỉ được thực hiện hoạt động môi giới mua bán hàng hoá qua SGD hàng hoá.
Bên cạnh ba chủ thể chính này, trong mua bán hàng hóa thông qua SGDHH còn có một số chủ thể khác, đó là các nhà tư vấn thực hiện việc phân tích thị trường, lập báo cáo, cho ý kiến tư vấn hoặc đưa ra các đề xuất về việc mua bán hợp đồng kỳ hạn cho một người nào đó và thu phí; các đại lý giao dịch được cấp phép làm đại lý cho công ty môi giới hàng hóa giao sau trong việc môi giới các lệnh mua bán từ khách hàng…
2.3. Hình thức mua bán hàng hóa thông qua SGD
Hình thức mua bán hàng hóa thông qua SGD là hợp đồng, đó là hợp đồng kì hạn và hợp đồng quyền chọn.
Hợp đồng kì hạn là thoả thuận, theo đó bên bán cam kết giao và bên mua cam kết nhận hàng hoá tại một thời điểm trong tương lai theo hợp đồng.
Để giảm thiểu rủi ro cho chính mình, trên cơ sở hợp đồng kì hạn đã giao kết, hai bên có thể kí tiếp hợp đồng về quyền chọn bán hoặc quyền chọn mua (hợp đồng quyền chọn). Hợp đồng về quyền chọn bán hoặc quyền chọn mua là thoả thuận, theo đó bên mua quyền có quyền được mua hoặc được bán một hàng hoá xác định với mức giá định trước (gọi là giá giao kết) và phải trả một khoản tiền nhất định để mua quyền này (gọi là tiền mua quyền). Bên mua quyền có quyền chọn thực hiện hoặc không thực hiện việc mua bán hàng hoá đó.
2.4. Về phương thức giao dịch
Việc MBHH được thực hiện tại SGD hàng hóa. SGDHH là tổ chức được thành lập để cung cấp các tiện ích cho việc tiến hành các giao dịch kỳ hạn, quyền chọn và một số giao dịch khác. Về mô hình, SGDHH thường được tổ chức dưới hình thức doanh nghiệp ở các nước phát triển và việc thành lập các SGD ở các nước này hoàn toàn theo nhu cầu thị trường. Trong khi đó, ở một số nước đang phát triển (Trung Quốc, Thái Lan), SGD thường là một tổ chức có tư cách pháp nhân được quản lý điều hành bởi Nhà nước.
Việc MBHHQSGD, các chủ thể được SGD cung cấp nhiều tiện ích như: - Cung cấp và duy trì một nơi mua bán cụ thể (thường gọi là sàn giao dịch hay khung trường), tại đây hợp đồng kỳ hạn và quyền chọn được các thành viên của sở mua và bán.
- Đề ra các quy tắc, quy chế để điều hành hoạt động kinh doanh hàng hóa giao sau diễn ra tại sở và giám sát, thực thi các quy tắc, quy chế đó.
- Thúc đẩy hoạt động mua bán kỳ hạn và quyền chọn của các thành viên. Bản thân sở không tham gia vào việc mua bán kỳ hạn mà chỉ cung cấp những tiện nghi cho các bên tham gia vào hoạt động mua bán hàng hóa giao sau tại sở.
2.5. Đối tượng của quan hệ MBHHQSGDHH
Đối tượng của quan hệ MBHHQSGDHH là hàng hoá. Hàng hoá được các bên thoả thuận giao kết phải là hàng hoá được phép giao dịch tại sở giao dịch; tuân thủ các quy định về loại hàng, tiêu chuẩn chất lượng, chủng loại và các điều kiện khác mà SGDHH đặt ra. Theo thông lệ chung, hàng hoá được mua bán tại SGD thường là những hàng hoá được giao kết với số lượng lớn và có sự biến động mạnh về giá cả, ví dụ: Nông sản (gạo, hạt tiêu, cà phê, ca cao, ngũ cốc), vàng, kim loại màu, len thô… Hàng hoá được giao dịch tại SGDHHcó thể chưa hiện hữu vào thời điểm giao kết hợp đồng (ví dụ: Máy móc chưa sản xuất; nhà chưa hoặc đang xây dựng; gạo, cà phê, ca cao, cao su, bông vải…chưa đến vụ thu hoạch). Tuy nhiên, chỉ một số hàng hóa nhất định đáp ứng các tiêu chuẩn do SGDHH theo quy định mới được mua bán thông qua sở giao dịch.
3. Ý nghĩa của hoạt động mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch
Có thể nhận thấy SGDHH có ý nghĩa đối với thương nhân ở chỗ, đó là nơi giao dịch mua bán hàng hóa thật trên cơ sở duy trì các giao dịch có giao hàng và là nơi để bảo hiểm rủi ro hoặc để đầu cơ trên cơ sở duy trì các giao dịch công cụ tài chính phát sinh. Tại các SGD hiện đại ngày nay, giao dịch mua bán hàng hóa chỉ chiếm 10% khối lượng, còn lại là các giao dịch công cụ, nghĩa là các giao dịch mua bán khống các đối tượng hàng hóa cụ thể và do đó, bảo hiểm rủi ro và đầu cơ trở thành mục đích chính của thương nhân khi giao dịch qua SGD hàng hóa.Đầu cơ chỉ xảy ra khi nhà đầu tư tin tưởng vào dự đoán xu hướng thay đổi giá của mình và do đó có nhu cầu giao dịch. Do đó, bảo hiểm rủi ro là một ý nghĩa hết sức quan trọng cho sự ổn định kinh doanh. Chính vì yếu tố bảo hiểm rủi ro mà các SGDHH thường là giao dịch các mặt hành là nguyên liệu đầu vào của sản xuất. Sau này trên thị trường tài chính, nhiều “mặt hàng” đặt biệt (như chứng khoán, tiền, vàng…) trở thành đối tượng giao dịch tương lai cũng xuất phát từ nhu cầu bảo hiểm rủi ro như vậy, nó không phải là nguyên liệu đầu vào của sản xuất, nhưng là đối tượng mà nhà đầu tư có nhu cầu sở hữu vào một thời điểm trong tương lai để bảo hiểm rủi ro cho học trước những thay đổi trên thị trường tài chính.
II. Pháp luật hiện hành về MBHHQSGDHH ở Việt Nam
Hiện nay, hành lang pháp lí cho việc xây dựng SGDHH và hoạt động mua bán hàng hoá qua SGDHH ở Việt Nam đã tương đối đầy đủ. LTM năm 2005 đã đặt nền móng đầu tiên về các quy định quản lý nhà nước đối với SGD hàng hóa. Tiếp đó, Chính phủ và các cơ quan quản lý đã ban hành một số văn bản quy định có liên quan như Nghị định số 158/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày 28 tháng 12 năm 2006 quy định chi tiết LTMvề hoạt động mua bán hàng hoá qua SGDhàng hóa; Thông tư số 03/2009/TT-BCT của Bộ Công Thương ngày 10 tháng 2 năm 2009 hướng dẫn hồ sơ, trình tự, thủ tục cấp giấy phép thành lập và quy định chế độ báo cáo của SGDHH theo quy định tại Nghị định số 158/2006/NĐ-CP; Quyết định số 4361/2010/QĐ-BCT của Bộ trưởng Bộ Công Thương ngày 18 tháng 8 năm 2010 ban hành danh mục các loại hàng hóa được phép giao dịch qua SGDhàng hóa. Có thể khái quát ở một số nội dung cơ bản sau:
1. Về tổ chức và hoạt động của SGDHH
Trong thị trường hàng hóa tương lai, SGDHH có vị trí của chủ thể tổ chức và điều hành hoạt động MBHH. SGDHH tồn tại ở các nước rất đa dạng về hình thức tổ chức và cơ chế vận hành. Tuy vậy, bản chất chung của SGDHH là một tổ chức nghề nghiệp, có tư cách pháp nhân, hoạt động theo nguyên tắc hạch toán kinh tế độc lập. Việc thành lập SGDHH phải tuân thủ quy định của pháp luật điều kiện và thủ tục chặt chẽ.
1.1. Địa vị pháp lý của SGDHH
SGDHH được Bộ công thương cấp phép thành lập dưới hình thức công ti cổ phần hoặc công ti TNHH, có tư cách pháp nhân và hoạt động theo quy định của Luật doanh nghiệp, LTM và Nghị định của Chính phủ số 158/2006/NĐ-CP. Đây là điểm khác biệt cơ bản của hoạt động mua bán hàng hóa thông qua SGD với hoạt động mua bán hàng hóa thông thường và hoạt động mua bán hàng hóa giao sau trên thị trường ngoài sở. Trong hoạt động mua bán hàng hóa thông thường, các bên trực tiếp thỏa thuận với nhau về giá cả, số lượng, phẩm cấp hàng hóa, thời hạn giao nhận mà không cần phải thông qua một chủ thể trung gian nào. Hay tại thì trường hàng hóa giao sau ngoài sở, các bên có thể chủ động thỏa thuận với nhau việc mua, bán một lượng hàng hóa nhất định với các điều khoản về chất lượng, giá cả và thời điểm giao hàng trong tương lai nhất định mà không thông qua một tổ chức nào. Nhưng đối với hoạt động mua bán hàng hóa thông qua SGD hàng hóa, thỏa thuận mua bán hàng hóa của các bên nhất thiết phải thực hiện thông qua SGD hàng hóa. SGDHH đóng vai trò trung gian, kết nối quan hệ mua bán hàng hóa của các bên mua bán hàng hóa. Để tham gia được vào quan hệ mua bán này, người mua và người bán phải đáp ứng được những yêu cầu nhất định so SGDHH đặt ra. Việc mua bán được diễn ra theo một trình tự, thủ tục chặt chẽ, thống nhất theo quy định của SGD hàng hóa.
1.2. Điều kiện để thành lập SGDHH
Theo quy định tại Điều 8 NGhị định 158 SGDHH được thành lập nếu đáp ứng đủ các điều kiện sau đây:
1. Vốn pháp định là một trăm năm mươi tỷ đồng trở lên;
2. Điều lệ hoạt động phù hợp với quy định của Nghị định này;
3. Giám đốc hoặc Tổng giám đốc phải có bằng đại học, cử nhân trở lên và có thời gian công tác trong lĩnh vực kinh tế - tài chính ít nhất là 05 năm; có đủ năng lực hành vi dân sự và không thuộc đối tượng bị cấm quản lý doanh nghiệp theo quy định của Luật Doanh nghiệp;
Như vậy, SGDHH chỉ được thành lập nếu đáp ứng các điều kiện trên, trong đó Điều lệ hoạt động của SGD phải phản ánh được tư cách thành viên sở giao dịch, loại hàng hoá, tiêu chuẩn, đơn vị đo lường của hàng hoá giao dịch, mẫu hợp đồng và lệnh giao dịch, hạn mức giao dịch, kí quỹ, phí giao dịch, phương thức giao dịch, chế độ thông tin, báo cáo hoạt động, báo cáo tài chính, quản lí rủi ro, giải quyết tranh chấp.
1.3. Quyền và trách nhiệm của SGDHH
Quyền và trách nhiệm của SGDHH SGDHH được quy định khá cụ thể trong các điều 15, 16 Nghị định của Chính phủ số 158/2006/NĐ-CP. SGDHH có quyền lựa chọn hàng hoá cơ sở đưa vào danh mục giao dịch tại sở; tổ chức điều hành và quản lí hoạt động giao dịch qua sở; chấp thuận, huỷ bỏ tư cách thành viên của các công ti có “chân” tại sở giao dịch; yêu cầu các thành viên kí quỹ để thực hiện giao dịch; thu các loại phí theo quy định; ban hành quy chế niêm yết, công bố thông tin; kiểm tra, giám sát hoạt động giao dịch; yêu cầu thành viên áp dụng biện pháp quản lí rủi ro; làm trung gian giải quyết tranh chấp theo yêu cầu... Đồng thời, SGDHH cũng có nghĩa vụ tổ chức giao dịch một cách vô tư, công bằng và hiệu quả; công bố các giấy tờ chứng minh tư cách như giấy phép thành lập, điều lệ hoạt động, mẫu hợp đồng, mẫu lệnh giao dịch... của sở giao dịch; thực hiện chế độ báo cáo... và là chủ thể chịu trách nhiệm đến cùng về các giao dịch.
1.4. Thành viên của SGDHH
Thành viên của SGDHH bao gồm:
Thứ nhất, Thương nhân môi giới: Theo Điều 19 Nghị định 158 Thành viên môi giới phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện sau đây:“Là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của Luật doanh nghiệp; vốn pháp định là 5 tỉ đồng trở lên; giám đốc hoặc tổng giám đốc phải có bằng đại học, cử nhân trở lên, có đủ năng lực hành vi dân sự và không thuộc đối tượng bị cấm quản lí doanh nghiệp theo quy định của Luật doanh nghiệp; các điều kiện khác theo quy định của Điều lệ hoạt động của SGD hàng hoá”. Thương nhân môi giới thực hiện các hoạt động môi giới mua bán hàng hoá qua SGDHH. Họ có quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật và điều lệ hoạt động của SGDHH mà họ tham gia.
Thứ hai, Thương nhân kinh doanh thực hiện các hoạt động mua bán hàng hoá qua SGDHH. Điều kiện trở thành thành viên kinh doanh của SGDHH bao gồm: “Là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của Luật doanh nghiệp; vốn pháp định 75 tỉ đồng trở lên; giám đốc hoặc tổng giám đốc phải có bằng đại học, cử nhân trở lên, có đủ năng lực hành vi dân sự và không thuộc đối tượng bị cấm quản lí doanh nghiệp theo quy định của Luật doanh nghiệp; các điều kiện khác theo quy định của Điều lệ hoạt động của SGD hàng hoá” (Điều 21 Nghị định 158). Họ có quyền thực hiện các hoạt động tự doanh hoặc nhận uỷ thác mua bán hàng hoá qua SGDHH cho khách hàng; yêu cầu khách hàng kí quỹ để thực hiện giao dịch...
2. Hoạt động mua bán hàng hoá qua SGDHH
2.1. Hợp đồng mua bán hàng hoá qua SGDHH
Hợp đồng được sử dụng làm công cụ để giao dịch theo quy định của LTMlà “hợp đồng kì hạn” và “hợp đồng quyền chọn” và là loại hợp đồng song vụ, theo đó các bên cam kết thực hiện nghĩa vụ trong tương lai.
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 64 LTM 2005: “Hợp đồng kì hạn là thoả thuận, theo đó bên bán cam kết giao và bên mua cam kết nhận hàng hoá tại một thời điểm trong tương lai theo hợp đồng”. Như vậy, theo cách định nghĩa truyền thống, hợp đồng kì hạn giống như những hợp đồng mua bán thông thường, đó là sự thoả thuận, thống nhất ý chí giữa các chủ thể giao kết để chuyển quyền sở hữu hàng hoá cho người mua và đổi lấy khoản tiền là giá trị hàng hoá. Tuy nhiên, khác với mua bán thông thường, việc kí kết hợp đồng kì hạn không phải là kí kết trực tiếp giữa người bán và người mua mà được thực hiện thông qua SGDHH với tư cách là cơ quan trung gian. Khi một người muốn mua hàng hoá qua sở giao dịch, người đó sẽ phải tuân thủ các quy định pháp luật điều chỉnh hoạt động MBHHQSGDHH cũng như quy tắc, điều lệ hoạt động của SGDHH đó. Cụ thể, người này sẽ phải kí quỹ thông qua thành viên kinh doanh của SGD để đảm bảo giao dịch. Mức kí quỹ (hay còn gọi là tiền bảo chứng, bao gồm tiền bảo chứng ban đầu và tiền bảo chứng duy trì) do từng SGD quy định. Hợp đồng kì hạn chứa đựng yếu tố rủi ro cao hơn so với hợp đồng mua bán thông thường nhưng bên mua và bên bán nhiều khi lại tìm kiếm lợi nhuận trên cơ sở sự biến động đó của thị trường.
Trên cơ sở hợp đồng kì hạn đã giao kết, hai bên có thể kí tiếp hợp đồng quyền chọn. Hợp đồng quyền chọn bao gồm hợp đồng về quyền chọn bán hoặc quyền chọn mua. Hợp đồng về quyền chọn bán hoặc quyền chọn mua là thoả thuận, theo đó bên mua quyền có quyền được mua hoặc được bán một hàng hoá xác định với mức giá định trước (gọi là giá giao kết) và phải trả một khoản tiền nhất định để mua quyền này (gọi là tiền mua quyền). Bên mua quyền có quyền chọn thực hiện hoặc không thực hiện việc mua bán hàng hoá đó (khoản 3 Điều 64 LTM). Hợp đồng quyền chọn thực chất là sự tự bảo hiểm cho chính hợp đồng kì hạn mà hai bên đã kí kết; theo đó cho phép dồn nghĩa vụ về một bên (bên bán quyền). Khi giá cả hàng hoá trên thị trường tăng hoặc giảm so với giá thoả thuận trong hợp đồng, bên mua quyền có quyền thực hiện hoặc không thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng kì hạn. Bên bán quyền trong hợp đồng quyền chọn phải sẵn sàng đón nhận hàng hoá nếu bên mua quyền thực hiện quyền giao hàng, mặc dù có thể hợp đồng đó không còn có lợi cho mình. Bù lại, bên bán quyền chắc chắn đã được hưởng một khoản tiền (tiền bán quyền) chứ không phải là lợi nhuận mà hợp đồng mang lại. Điều này đòi hỏi bên bán quyền trong hợp đồng quyền chọn phải là những chủ thể có tiềm lực kinh tế mạnh để sẵn sàng chấp nhận rủi ro đồng thời vẫn thu được lợi nhuận.
2.2. Loại hàng hoá được phép đưa vào giao dịch
Theo quy định của Nghị định số 158/2006/NĐ-CP, danh mục hàng hoá giao dịch tại SGDHH phải được công bố và nằm trong danh mục được phép giao dịch của SGDHH theo quyết định của Bộ trưởng Bộ thương mại trong từng thời kì. SGDHH chỉ được phép giao dịch các loại hàng hoá thuộc danh mục đã công bố với những điều kiện rất nghiêm ngặt về tiêu chuẩn, khối lượng, chất lượng... Danh mục hàng hóa được phép giao dịch qua SGDHH đã được Bộ Công Thương xây dựng tại Quyết định 4361/QĐ-BCT ngày 18/8/2010. Theo đó, có 8 loại hàng được phép giao dịch là: cà phê nhân, chưa rang, chưa khử chất cafein; Mủ cao su tự nhiên, đã hoặc chưa tiền lưu hóa; Cao su tự nhiên ở dạng tấm cao su xông khói; Cao su tự nhiên đã được định chuẩn kỹ thuật; Các sản phẩm thép không hợp kim được cán phẳng, có chiều rộng từ 600 mm trở lên, được cán nóng, chưa phủ, mạ hoặc tráng; Các sản phẩm thép không hợp kim được cán phẳng, có chiều rộng từ 600mm trở lên, cán nguội, chưa dát phủ, mạ hoặc tráng; Các sản phẩm thép không hợp kim được cán phẳng, có chiều rộng từ 600mm trở lên đã phủ, mạ hoặc tráng; Các sản phẩm thép không hợp kim ở dạng thanh và que khác, mới chỉ qua rèn, cán nóng, kéo nóng hoặc ép đùn nóng, kể cả công đoạn xoắn sau khi cán.
Đối với hợp đồng quyền chọn, đối tượng của hợp đồng không phải là hàng hoá mà là quyền chọn mua, quyền chọn bán đối với hàng hoá. Nói cách khác, đối tượng của hợp đồng quyền chọn không hướng tới hàng hoá hữu hình mà hướng tới quyền thực hiện hoặc không thực hiện quyền và nghĩa vụ mà bên mua quyền đã tạo ra trong hợp đồng kì hạn. Tuy nhiên, hợp đồng quyền chọn chỉ là hợp đồng phái sinh từ hợp đồng kì hạn, được các bên kí kết trên cơ sở hợp đồng kì hạn, vì vậy, đối tượng của hợp đồng quyền chọn không trực tiếp là hàng hoá nhưng có liên quan mật thiết đến hàng hoá, hướng tới mục tiêu giảm thiểu rủi ro mà hợp đồng kì hạn mang lại.
2.3. Phương thức giao dịch
Cũng như trên thị trường chứng khoán tập trung, SGDHH thực hiện phương thức giao dịch thông qua việc khớp lệnh tập trung trên cơ sở lệnh mua, lệnh bán với nguyên tắc: Là mức giá thực hiện đạt được khối lượng giao dịch lớn nhất; nếu có nhiều mức giá đạt được khối lượng giao dịch lớn nhất thì lấy mức giá trùng hoặc gần với giá thực hiện của lần khớp lệnh gần nhất. Và nếu có nhiều mức giá thoả mãn điều kiện trên thì lấy mức giá được trả cao nhất. Đồng thời, việc khớp lệnh dựa trên cơ sở lệnh có mức giao cao hơn được ưu tiên thực hiện.
Thời gian giao dịch do SGDHH công bố theo ngày, theo phiên g