1. Tính cấp thiết của đề tài:
Ở mỗi giai đoạn phát triển kinh tế, các quốc gia chọn cho mình một mô hình
phát triển riêng biệt. Trong những năm vừa qua, mô hình phát triển kinh tế của Việt
Nam là dựa vào xuất khẩu, điều đó thể hiện ở sự tăng trưởng cao của xuất khẩu với
mức đóng góp vào GDP luôn ở mức trên 60% đã thúc đẩy tăng trưởng kinh tế luôn đạt
mức cao, tốc độ tăng trưởng trong những năm từ 2004 tới 2008 luôn trên mức 8%. Tuy
nhiên, kể từ năm 2008 đến nay, khủng hoảng kinh tế đã khiến cho kim ngạch xuất khẩu
hàng hóa của Việt Nam giảm đáng kể. Nếu như tốc độ tăng trưởng xuất khẩu năm 2008
đạt 29% thì sang đến năm 2009 tốc độ tăng trưởng xuất khẩu đã sụt giảm mạnh thậm
chí xuống mức âm -8,92%. Điều này đã gây ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng kinh
tế, năm 2009 tốc độ tăng trưởng kinh tế đã giảm xuống chỉ còn 5,23%. Do vậy, vấn đề
cấp thiết hiện nay là làm thế nào để có thể thúc đẩy xuất khẩu tăng mạnh trở lại trong
thời gian tới. Có thể thấy kinh tế thể giới đang phục hồi sau khủng hoảng nhưng điều
đó không đảm bảo chắc chắn một sự phục hồi xuất khẩu nhanh chóng cho Việt Nam
nếu như chúng ta không có những biện pháp ứng phó đúng đắn. Để có được những
biện pháp thích hợp, cụ thể và khả thi, chúng ta cần nắm được rõ các yếu tố ảnh hưởng
đến xuất khẩu của Việt Nam, đặc biệt là những ảnh hưởng khác nhau của những yếu tố
này đối với từng nhóm hàng xuất khẩu. Chỉ trên cơ sở đó, chúng ta mới có thể có được
những định hướng đúng đắn, những điều chỉnh kịp thời, nhanh chóng nắm bắt cơ hội,
tận dụng mọi thế mạnh để thúc đẩy xuất khẩu Việt Nam tăng nhanh trở lại. Trước yêu
cầu đó, nhóm tác giả đã quyết định chọn đề tài tham dự cuộc thi là: “Những yếu tố tác
động tới kim ngạch xuất khẩu các nhóm hàng của Việt Nam.”
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Trong thời gian qua có khá nhiều nghiên cứu về hoạt động xuất nhập khẩu của
Việt Nam và các yếu tố tác động đến nó song những nghiên cứu này chủ yếu đều phân
tích bằng phương pháp định tính. Thực ra, cũng đã có một số nghiên cứu định lượng về
vấn đề này song những nghiên cứu đó mới chỉ tập trung đánh giá tác động của các
nhân tố tới tổng kim ngạch xuất nhập khẩu. Những nghiên cứu này mới cho những kết
quả rất chung chung đối với xuất khẩu các nhóm hàng mà chưa có phân tích về mức độ
tác động của các yếu tố tới xuất khẩu của các nhóm hàng khác nhau. Do vậy đề tài này
hi vọng sẽ đưa ra được những tác động cụ thể hơn của các nhân tố tới từng nhóm hàng
xuất khẩu của Việt Nam
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hoạt động xuất khẩu của Việt Nam và các
nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động này trong giai đoạn vừa qua.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài được giới hạn trong khoảng thời gian ngắn từ
năm 2004 đến 2008 bởi lý do giai đoạn này xuất khẩu của Việt Nam khá ổn đinh, như
vậy xuất khẩu trong giai đoạn này sẽ không gặp phải những tác nhân gây ảnh hưởng
đột biến và sẽ dễ dàng hơn trong việc đánh giá tác động của các nhân tố chính. Bên
cạnh đó, vì lí do nghiên cứu có sử dụng phân tích định lượng nên yêu cầu sự sẵn có của
các số liệu là rất cần thiết. Do việc số liệu thu thập chỉ hạn chế cho đến năm 2008 nên
phạm vi nghiên cứu bị giới hạn hẹp lại trong khoảng thời gian này.
4. Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu sẽ tập trung nhằm tìm ra những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng tới hoạt
động xuất khẩu các nhóm hàng hoá của Việt Nam với các đối tác chính, trên cơ sở đó
sẽ đưa ra những biện pháp đẩy mạnh tác động tích cực cũng như hạn chế các tác động
tiêu cực từ các nhân tố đó nhằm thúc đẩy hơn nữa hoạt động xuất khẩu của Việt Nam,
tạo đà phát triển kinh tế theo mô hình đã chọn.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành nghiên cứu, nhóm tác giả đã sử dụng phương pháp phân tích
định lượng với thông tin và số liệu thứ cấp được tổng hợp từ nhiều nguồn khác nhau
như sách, báo, internet và các bài nghiên cứu khác. Bên cạnh đó, nhóm tác giả cũng sử
dụng phương pháp duy vật lịch sử, duy vật biện chứng, luôn đặt đối tượng nghiên cứu
trong những mối tương quan tác động nhiều chiều và xem xét đầy đủ các khía cạnh
trong các hoàn cảnh khác nhau.
Ngoài các mục mở đầu, kết luận, danh mục từ viết tắt, danh mục tài liệu tham
khảo và phụ lục, đề tài được chia làm ba chương chính như sau:
Chương 1: Khái quát về xuất khẩu và mô hình hấp dẫn trong thương mại
quốc tế
Chương 2: Phân tích tác động của các yếu tố tới kim ngạch xuất khẩu các
nhóm hàng của Việt Nam giai đoạn 2004 – 2008
Chương 3: Những giải pháp cho xuất khẩu các nhóm hàng của Việt Nam
trong thời gian tới
81 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 6182 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Những yếu tố tác động tới kim ngạch xuất khẩu các nhóm hàng của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƢƠNG
---------o0o---------
Công trình dự thi Cuộc thi
Sinh viên nghiên cứu khoa học trƣờng Đại học Ngoại thƣơng 2010
Tên công trình:
NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG TỚI KIM NGẠCH XUẤT KHẨU
CÁC NHÓM HÀNG CỦA VIỆT NAM
Thuộc nhóm ngành : XH1a
Họ và tên sinh viên: Nguyễn Thị Hà Trang
Nam/nữ : Nữ Dân tộc: Kinh
Lớp:B – CLC Khoá: 46
Khoa: Kinh tế và Kinh doanh quốc tế - năm thứ : 3/ số năm đào tạo 4
Ngành học : Kinh tế quốc tế
Họ và tên sinh viên: Nguyễn Thị Thanh Tâm
Nam/nữ : Nữ Dân tộc: Kinh
Lớp: Anh 8 Khoá: 46
Khoa: Kinh tế và Kinh doanh quốc tế - năm thứ : 3/ số năm đào tạo 4
Ngành học : Kinh tế đối ngoại
Ngƣời hƣớng dẫn : T.S. Vũ Hoàng Nam
Khoa: Kinh tế quốc tế
Hà Nội – 2010
2
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Ở mỗi giai đoạn phát triển kinh tế, các quốc gia chọn cho mình một mô hình
phát triển riêng biệt. Trong những năm vừa qua, mô hình phát triển kinh tế của Việt
Nam là dựa vào xuất khẩu, điều đó thể hiện ở sự tăng trƣởng cao của xuất khẩu với
mức đóng góp vào GDP luôn ở mức trên 60% đã thúc đẩy tăng trƣởng kinh tế luôn đạt
mức cao, tốc độ tăng trƣởng trong những năm từ 2004 tới 2008 luôn trên mức 8%. Tuy
nhiên, kể từ năm 2008 đến nay, khủng hoảng kinh tế đã khiến cho kim ngạch xuất khẩu
hàng hóa của Việt Nam giảm đáng kể. Nếu nhƣ tốc độ tăng trƣởng xuất khẩu năm 2008
đạt 29% thì sang đến năm 2009 tốc độ tăng trƣởng xuất khẩu đã sụt giảm mạnh thậm
chí xuống mức âm -8,92%1 . Điều này đã gây ảnh hƣởng tiêu cực đến tăng trƣởng kinh
tế, năm 2009 tốc độ tăng trƣởng kinh tế đã giảm xuống chỉ còn 5,23%. Do vậy, vấn đề
cấp thiết hiện nay là làm thế nào để có thể thúc đẩy xuất khẩu tăng mạnh trở lại trong
thời gian tới. Có thể thấy kinh tế thể giới đang phục hồi sau khủng hoảng nhƣng điều
đó không đảm bảo chắc chắn một sự phục hồi xuất khẩu nhanh chóng cho Việt Nam
nếu nhƣ chúng ta không có những biện pháp ứng phó đúng đắn. Để có đƣợc những
biện pháp thích hợp, cụ thể và khả thi, chúng ta cần nắm đƣợc rõ các yếu tố ảnh hƣởng
đến xuất khẩu của Việt Nam, đặc biệt là những ảnh hƣởng khác nhau của những yếu tố
này đối với từng nhóm hàng xuất khẩu. Chỉ trên cơ sở đó, chúng ta mới có thể có đƣợc
những định hƣớng đúng đắn, những điều chỉnh kịp thời, nhanh chóng nắm bắt cơ hội,
tận dụng mọi thế mạnh để thúc đẩy xuất khẩu Việt Nam tăng nhanh trở lại. Trƣớc yêu
cầu đó, nhóm tác giả đã quyết định chọn đề tài tham dự cuộc thi là: “Những yếu tố tác
động tới kim ngạch xuất khẩu các nhóm hàng của Việt Nam.”
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Trong thời gian qua có khá nhiều nghiên cứu về hoạt động xuất nhập khẩu của
Việt Nam và các yếu tố tác động đến nó song những nghiên cứu này chủ yếu đều phân
1
Tính toán theo số liệu của Tổng cục Thống kê
3
tích bằng phƣơng pháp định tính. Thực ra, cũng đã có một số nghiên cứu định lƣợng về
vấn đề này song những nghiên cứu đó mới chỉ tập trung đánh giá tác động của các
nhân tố tới tổng kim ngạch xuất nhập khẩu. Những nghiên cứu này mới cho những kết
quả rất chung chung đối với xuất khẩu các nhóm hàng mà chƣa có phân tích về mức độ
tác động của các yếu tố tới xuất khẩu của các nhóm hàng khác nhau. Do vậy đề tài này
hi vọng sẽ đƣa ra đƣợc những tác động cụ thể hơn của các nhân tố tới từng nhóm hàng
xuất khẩu của Việt Nam
3. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài là hoạt động xuất khẩu của Việt Nam và các
nhân tố ảnh hƣởng đến hoạt động này trong giai đoạn vừa qua.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài đƣợc giới hạn trong khoảng thời gian ngắn từ
năm 2004 đến 2008 bởi lý do giai đoạn này xuất khẩu của Việt Nam khá ổn đinh, nhƣ
vậy xuất khẩu trong giai đoạn này sẽ không gặp phải những tác nhân gây ảnh hƣởng
đột biến và sẽ dễ dàng hơn trong việc đánh giá tác động của các nhân tố chính. Bên
cạnh đó, vì lí do nghiên cứu có sử dụng phân tích định lƣợng nên yêu cầu sự sẵn có của
các số liệu là rất cần thiết. Do việc số liệu thu thập chỉ hạn chế cho đến năm 2008 nên
phạm vi nghiên cứu bị giới hạn hẹp lại trong khoảng thời gian này.
4. Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu sẽ tập trung nhằm tìm ra những nhân tố chủ yếu ảnh hƣởng tới hoạt
động xuất khẩu các nhóm hàng hoá của Việt Nam với các đối tác chính, trên cơ sở đó
sẽ đƣa ra những biện pháp đẩy mạnh tác động tích cực cũng nhƣ hạn chế các tác động
tiêu cực từ các nhân tố đó nhằm thúc đẩy hơn nữa hoạt động xuất khẩu của Việt Nam,
tạo đà phát triển kinh tế theo mô hình đã chọn.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để hoàn thành nghiên cứu, nhóm tác giả đã sử dụng phƣơng pháp phân tích
định lƣợng với thông tin và số liệu thứ cấp đƣợc tổng hợp từ nhiều nguồn khác nhau
nhƣ sách, báo, internet và các bài nghiên cứu khác. Bên cạnh đó, nhóm tác giả cũng sử
4
dụng phƣơng pháp duy vật lịch sử, duy vật biện chứng, luôn đặt đối tƣợng nghiên cứu
trong những mối tƣơng quan tác động nhiều chiều và xem xét đầy đủ các khía cạnh
trong các hoàn cảnh khác nhau.
Ngoài các mục mở đầu, kết luận, danh mục từ viết tắt, danh mục tài liệu tham
khảo và phụ lục, đề tài đƣợc chia làm ba chƣơng chính nhƣ sau:
Chƣơng 1: Khái quát về xuất khẩu và mô hình hấp dẫn trong thƣơng mại
quốc tế
Chƣơng 2: Phân tích tác động của các yếu tố tới kim ngạch xuất khẩu các
nhóm hàng của Việt Nam giai đoạn 2004 – 2008
Chƣơng 3: Những giải pháp cho xuất khẩu các nhóm hàng của Việt Nam
trong thời gian tới
5
CHƢƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ XUẤT KHẨU VÀ MÔ HÌNH HẤP
DẪN TRONG THƢƠNG MẠI QUỐC TẾ
I. Khái niệm và vai trò của xuất khẩu
1. Khái niệm xuất khẩu
Trong Giáo trình Kinh tế ngoại thƣơng2, khái niệm xuất khẩu (bán) đƣợc đề cập
đến cùng với khái niệm nhập khẩu (mua) là thành hai nhánh của hoạt động ngoại
thƣơng. Thêm nữa, hoạt động ngoại thƣơng lại đƣợc định nghĩa là việc mua, bán hàng
hoá và dịch vụ qua biên giới quốc gia, từ đó, xuất khẩu là việc bán hàng hoá, dịch vụ
cho nƣớc ngoài, và nhập khẩu là việc mua hàng hoá, dịch vụ của nƣớc ngoài.
Nhƣ vậy xét về phạm vi thì khác với hoạt động mua bán diễn ra trên thị trƣợng
nội địa, hoạt động xuất khẩu vƣợt ra biên giới quốc gia và diễn ra phức tạp hơn nhiều
bởi thị trƣờng giờ đây vô cùng rộng lớn và khó kiểm soát, việc thanh toán phải tiến
hành bằng ngoại tệ (đối với ít nhất một bên tham gia) và các hoạt động này phải tuân
theo những tập quán và thông lệ quốc gia cũng nhƣ luật pháp của từng địa phƣơng.
Để hiểu sâu hơn bản chất của xuất khẩu, khi đƣa ra khái niệm hoạt động xuất
khẩu cần phải xem xét đến cả vai trò của nó (sẽ đƣợc nói chi tiết hơn ở phần sau) bao
gồm: tạo vốn chủ yếu cho nhập khẩu, tạo nguồn vốn và kĩ thuật bên ngoài cho quá
trình sản xuất trong nƣớc; góp phần mở rộng tiêu thụ hàng hóa, giải quyết công ăn việc
làm và cải thiện đời sống nhân dân; góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nƣớc;
thúc đẩy quan hệ kinh tế đối ngoại.
Nhƣ vậy, xét đầy đủ hơn thì hoạt động xuất khẩu nên đƣợc hiểu là việc bán
hàng hóa và dịch vụ ra nƣớc ngoài nhằm mục đích thu ngoại tệ, tăng tích lũy cho ngân
sách nhà nƣớc, phát triển sản xuất kinh doanh, khai thác ƣu thế tiềm năng đất nƣớc và
nâng cao đời sống nhân dân.
2
Bùi Xuân Lƣu (2002). "Giáo trình Kinh tế ngoại thương", Hà Nội, NXB. Giáo Dục.
6
2. Vai trò của hoạt động xuất khẩu đối với sự phát triển kinh tế của một
quốc gia
2.1. Tạo vốn chủ yếu cho nhập khẩu, tạo nguồn vốn và kĩ thuật bên ngoài cho
quá trình sản xuất trong nƣớc
Về cơ bản thì nhập khẩu mới là mục tiêu chính trong thƣơng mại quốc tế vì các
quốc gia có thể có đƣợc lợi ích thông qua hoạt động nhập khẩu, tuy nhiên nhập khẩu
của một quốc gia chỉ có thể tiến hành khi quốc gia đó có trao đổi lại với các quốc gia
khác. Trên cơ sở đó có thể nói xuất khẩu chính là để tạo nguồn vốn cho hoạt động nhập
khẩu, xuất khẩu tạo tiền đề cho nhập khẩu và từ nhập khẩu mà thông qua yếu tố vốn và
kỹ thuật lại nâng cao khả năng sản xuất, thúc đẩy xuất khẩu. Mặc dù nguồn vốn và kĩ
thuật từ bên ngoài đối với một quốc gia có thể có đƣợc bằng cách này hay cách song
những nguồn vốn này cũng chỉ có thể có đƣợc khi các nhà đầu tƣ nhìn thấy rõ tiềm
năng xuất khẩu – nguồn duy nhất tài trợ cho việc trả những khoản nợ đó.
2.2. Xuất khẩu góp phần mở rộng tiêu thụ hàng hóa, giải quyết công ăn việc làm,
cải thiện đời sống nhân dân.
Hoạt động xuất khẩu giúp mở rộng thì trƣờng tiêu thụ hàng hóa ra ngoài biên
giới của một quốc gia. Mặt khác, sản xuất luôn gắn với thị trƣờng, do vậy, khi thị
trƣờng đƣợc mở rộng thì dễ dàng dẫn tới sự mở rộng sản xuất cho các mặt hàng đó.
Sản xuất đƣợc mở rộng cho những ngành hiệu quả sẽ đòi hỏi rất nhiều lao động, từ đó
giải quyết đƣợc vấn đề công ăn việc làm cho ngƣời dân. Bên cạnh đó, xuất khẩu còn
tạo nguồn vốn để nhập khẩu vật phẩm tiêu dùng thiết yếu phục vụ trực tiếp và đáp ứng
phong phú thêm nhu cầu tiêu dùng của nhân dân. Nhƣ vậy nhờ có xuất khẩu mà có thể
ổn định và nâng cao đời sống cho toàn xã hội.
2.3. Xuất khẩu góp phần chuyển dich cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển
Nhƣ những vai trò trên đã nêu, nhờ xuất khẩu mà sản xuất một mặt hàng nào đó
có thể phát triển và nhƣ vậy sự phát triển này có thể kéo theo sự phát triển sản xuất của
một số mặt hàng khác liên quan. Bên cạnh đó, xuất khẩu là tham gia vào thị trƣờng
7
mới đòi hỏi sản xuất trong nƣớc càng phải tích cực cải tiến nhằm cạnh tranh với sản
xuất của các quốc gia khác. Thông qua những tác động này, xuất khẩu đã thúc đẩy
nâng cao sản xuất chung của toàn nền kinh tế. Bên cạnh đó, khi sản xuất phát triển
cùng với việc tạo tiền đề cho sự phát triển của các yếu tố sản xuất thì quốc gia có thể
tích lũy đƣợc các nhân tố tạo nên lợi thế so sánh mới. Chính những lợi thế so sánh mới
này, nhờ vào xuất khẩu, lại đƣa đến chuyên môn hóa vào sản xuất những mặt hàng
mới, lúc này trọng tâm thúc đẩy sản xuất thay đổi và dẫn tới sự chuyển dịch cơ cấu
kinh tế. Thực tế đã cho thấy rất nhiều quốc gia đã có sự chuyển dịch kinh tế mạnh mẽ
và trở thành các nƣớc công nghiệp mới nhờ vào xuất khẩu, tiêu biểu phải kể đến là
những nền kinh tế mới nổi ở khu vực Đông Á nhƣ: Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan,
Singapore…
2.4. Xuất khẩu góp phần thúc đẩy và mở rộng các quan hệ kinh tế đối ngoại
Xuất khẩu là một bộ phận quan trọng của kinh tế đối ngoại. Hoạt động xuất
khẩu và các hoạt động kinh tế đối ngoại khác luôn có quan hệ mật thiết gắn bó và phụ
thuộc nhau. Khi xuất khẩu phát triển thì các dịch vụ đi kèm nhƣ quan hệ tín dụng, đầu
tƣ, hợp tác, liên doanh đƣợc mở rộng, từ đó tăng cƣờng quan hệ hợp tác giữa các quốc
gia. Nâng cao vị thế quốc gia trên trƣờng quốc tế và góp phần ổn định về kinh tế, chính
trị, xã hội cho quốc gia đó.
2.5. Khai thác lợi thế kinh tế quốc gia
Nhƣ các vai trò đã kể trên, có thể thấy nhờ xuất nhập khẩu, một quốc gia có thể
phát hiện, khai thác và tự tạo thêm đƣợc các lợi thế so sánh trong thƣơng mại quốc tế.
Xuất nhập khẩu đƣa đến sự phân công lao động hiệu quả giữa các quốc gia, giúp các
quốc gia có thể thông qua đó mà tận dụng đƣợc cả những nguồn lực từ bên ngoài nhƣ
tranh thủ vốn và kỹ thuật, nâng cao năng suất lao động, xuất nhập khẩu đƣa đến sự hợp
tác không chỉ về mặt kinh tế mà trên nhiều lĩnh vực khác. Đồng thời xuất khẩu cũng
hƣớng các nguồn lực kinh tế trong nƣớc phân bổ một cách hợp lý, xuất khẩu kết nối sự
phát triển của quốc gia cùng với sự phát triển quốc tế, giúp nền kinh tế cơ cấu một cách
8
phù hợp với những thay đổi mang tính toàn cầu, linh hoạt và tự tạo ra nhiều tiềm năng
hơn. Có thể thấy xuất khẩu giúp một quốc gia khai thác đầy đủ các lợi thế trong và
ngoài nƣớc. Nhƣ vậy qua hoạt động ngoại thƣơng hay xuất nhập khẩu, một quốc gia có
thể tận dụng mọi nguồn lực, khai thác mọi điểm mạnh, nắm bắt đƣợc càng nhiều cơ
hội, xuất khẩu hƣớng một quốc gia đến phát triển một cách có hiệu quả.
Có thể thấy hoạt động xuất khẩu có vai trò hết sức quan trọng đối với phát triển
kinh tế, do vậy các nƣớc đang phát triển với mục tiêu đẩy mạnh tăng trƣởng rất chú
trọng đến hoạt động này. Có thể thấy việc tìm ra những nhân tố ảnh hƣởng đến xuất
khẩu hàng hóa, dịch vụ của một quốc gia là hết sức cần thiết. Trên đây đã trình bày
khái niệm về hoạt động thƣơng mại quốc tế cùng với khái niệm về hoạt động xuất khẩu
cũng nhƣ vai trò quan trọng của xuất khẩu. Phần tiếp theo sẽ trình bày cơ chế để hình
thành nên hoạt động thƣơng mại quốc tế, hoạt động xuất khẩu để từ cơ chế đó có thể
đƣa ra đƣợc các yếu tố cơ bản nhất tác động đến xuất khẩu của từng nhóm hàng.
Hoạt động xuất khẩu hay đƣợc chia nhỏ ra gồm hai lĩnh vực: xuất khẩu hàng hóa và
xuất khẩu dịch vụ. Trong giới hạn của đề tài này nghiên cứu về kim ngạch xuất khẩu
các nhóm hàng hóa nên trong tất cả các phần sau đây, khái niệm xuất khẩu sẽ chỉ đƣợc
hiểu là xuất khẩu hàng hóa, không bao gồm các hoạt động xuất khẩu dịch vụ.
II. Mô hình hấp dẫn
1. Mô hình hấp dẫn trong thƣơng mại
Mô hình hấp dẫn trong thƣơng mại dựa trên cơ sở mô hình trọng lực hấp dẫn
của Newton lần đầu tiên đƣợc đƣa ra áp dụng trong phân tích kinh tế bởi Timbergen
vào năm 1962 với dạng đơn giản nhƣ sau:
Trong đó:
A: là hệ số hấp dẫn, cản trở
: là kim ngạch trao đổi thƣơng mại giữa hai quốc gia i và j
9
: là quy mô nền kinh tế của nƣớc i
: là quy mô nền kinh tế của nƣớc j
: là “khoảng cách3” giữa hai nƣớc
: là hệ số thể hiện mức độ tác động của từng yếu tố trong mô hình
Ban đầu mô hình hấp dẫn trong thƣơng mại quốc tế bị phê phán bởi nhiều nhà
khoa học do chƣa có căn cứ lý thuyết nền tảng. Tuy nhiên, sau đó đã có rất nhiều
những bài nghiên cứu chứng minh cho cơ sở lý thuyết hàm chứa trong mô hình này.
Theo nghiên cứu của Do Thai Tri (2006) đã tổng hợp, có một vài nghiên cứu chứng
minh cho lý thuyết kinh tế cho mô hình hấp dẫn có thể kể ra nhƣ:
Mở đầu là nghiên cứu của Linneman (1966) chứng minh cho mô hình trên cơ sở
cân bằng tổng giá trị xuất nhập khẩu của toàn nền kinh tế. Thƣơng mại giữa hai nƣớc
chịu tác động của nhóm các yếu tố cung của nƣớc xuất khẩu, nhóm các yếu tố cầu của
nƣớc nhập khẩu, và một số yếu tố mang tính cố hữu ảnh hƣởng đến thƣơng mại giữa
hai nƣớc, sau đó cho các nền kinh tế cân bằng bằng cách cho cung xuất khẩu bằng cầu
và thu đƣợc mô hình hấp dẫn trong thƣơng mại.
Bên cạnh đó, trong nghiên cứu của Bergstrand (1985) lại sử dụng những lý
thuyết kinh tế vi mô cho từng ngành: cung hàng một ngành của một quốc gia đƣợc cho
là tạo nên bởi hoạt động tối đa hóa lợi nhuận của các doanh nghiệp trong khi cầu hàng
tạo nên đƣợc bởi hoạt động tối đa hóa độ thỏa dụng với giới hạn về ngân sách. Khi nền
kinh tế ở trạng thái cân bằng thì cung bằng cầu và từ đây thu đƣợc mô hình hấp dẫn
trong thƣơng mại.
Ngoài những nghiên cứu kể trên chứng minh mô hình hấp dẫn dựa trên sự cân
bằng của nền kinh tế từ cân bằng cung cầu, có khá nhiều nghiên cứu lại chứng minh
cho mô hình hấp dẫn dựa vào nền tảng là các lý thuyết cơ bản về thƣơng mại quốc tế
3
Khoảng cách ở đây đƣợc hiểu theo nghĩa rộng bao gồm cả sự xa cách về địa lý và một số yếu tố khác biệt
về mặt kinh tế xã hội.
10
mà phải kể đến trƣớc hết là nghiên cứu của James E. Anderson (1979) và sau đó là một
loạt những nghiên cứu nhƣ của Bergstrand (1985), của Markusen và Wigle (1990), của
Eaton và Kortum (1997), của Deardorff (1998), của Evenett và Keller (1998). Những
nghiên cứu này đã chỉ ra mô hình hấp dẫn có thể giải thích các luồng thƣơng mại dựa
trên sự khác biệt về công nghệ trong mô hình của trƣờng phái Ricardo, dựa trên sự
khác biệt về sự sẵn có của các yếu tố đầu vào sản xuất trong mô hình Heckscher –
Ohlin, và dựa trên sự gia tăng hiệu quả ở mức độ sản xuất doanh nghiệp trong mô hình
tính kinh tế theo quy mô, cạnh tranh độc quyền và sự khác biệt về sản phẩm (theo
nghiên cứu của Helpman và Krugman (1985))
Tổng hợp lại, có thể thấy mô hình hấp dẫn đã đƣợc giải thích rõ ràng để có thể
vận dụng vào trong phân tích các luổng thƣơng mại quốc tế. Với việc xét đến nhiều
yếu tố khác nhau tác động đến luồng thƣơng mại cũng nhƣ việc dễ dàng trong lƣợng
hóa các yếu tố đó để giải thích cho khía cạnh quy mô của các luồng thƣơng mại quốc tế
thì mô hình hấp dẫn càng ngày càng đƣợc sử dụng phổ biến trong các nghiên cứu về
thƣơng mại quốc tế. Do vậy, nghiên cứu này sẽ tiếp cận vấn đề dựa trên nền tảng là mô
hình hấp dẫn trong thƣơng mại quốc tế. Chi tiết về các yếu tố trong mô hình hấp dẫn sẽ
đƣợc trình bày ở phần tiếp theo.
2. Các nhân tố ảnh hƣởng đến hoạt động xuất nhập khẩu của từng nhóm
hàng
Dựa trên cơ sở lý thuyết về mô hình hấp dẫn nhƣ trên đã nói, tựu trung lại, các
yếu tố ảnh hƣởng đến các luồng thƣơng mại quốc tế đƣợc xếp vào 3 nhóm chính: nhóm
các yếu tố ảnh hƣởng đến cung, nhóm các yếu tố ảnh hƣởng đến cầu và nhóm các yếu
tố hấp dẫn/ cản trở nhƣ Sơ đồ 1.2.2.1
11
2.1. Nhóm các yếu tố ảnh hƣởng đến cung và nhóm các yếu tố ảnh hƣởng đến cầu
Cung và cầu hình thành nên luồng thƣơng mại, do đó những yếu tố tác động tới
cung và cầu hàng hóa sẽ là những yếu tố quan trọng trong việc xét tác động tới luồng
xuất khẩu của một quôc gia. Trong nhóm các yếu tố ảnh hƣởng đến cung và nhóm các
yếu tố ảnh hƣởng đến cầu thì có hai yếu tố chính yếu: đó là yếu tố thu nhập (thƣờng
đƣợc đại diện bởi giá trị tổng sản phẩm quốc nội GDP hoặc tổng sản phẩm quốc dân
GNP) và yếu tố dân số của cả nƣớc nhập khẩu và nƣớc xuất khẩu. Tác động của các
yếu tố này nhƣ thế nào sẽ đƣợc trình bày rõ hơn trong phần dƣới đây.
2.1.1. Thu nhập của nước xuất khẩu và nước nhập khẩu
2.1.1.1. GDP của nước xuất khẩu
Biên giới
nước xuất
khẩu
Biên giới
nước nhập
khẩu
Các yếu tố ảnh hưởng đến luồng thương mại quốc tế
Nước xuất
khẩu
Nước nhập
khẩu
Các yếu tố ảnh
hưởng đến cung
Các yếu tố ảnh
hưởng đến cầu
Các yếu tố hấp
dẫn/ cản trở
Năng lực
sản xuất
của nước
xuất khẩu
Chính sách
khuyến
khích/ quản
lý xuất khẩu
Chính sách
khuyến
khích/ quản
lý nhập khẩu
Sức mua của
thị trường
nước nhập
khẩu
“Khoảng
cách”
giữa hai
nước
Đẩy Hút
Sơ đồ 1.2.2.1: Mô hình trọng lƣợng (hấp dẫn) trong thƣơng mại quốc tế
Nguồn: Đào Ngọc Tiến (2008)
12
Khi xét yếu tố thu nhập của nƣớc xuất khẩu đại diện cho khả năng mua hàng,
có thể xét đến giá trị tổng sản phẩm quốc nội (GDP) ở đây, giá trị này sẽ đại diện cho
yếu tố cung hàng xuất khẩu. Về cơ bản, khi tổng giá trị hàng hóa và dịch vụ sản xuất
trong lãnh thổ của một nƣớc tăng lên sẽ đồng nghĩa với lƣợng cung hàng của nƣớc đó
tăng lên và nƣớc đó càng có cơ hội xuất khẩu nhiều hơn.
Tuy nhiên, mức độ ảnh hƣởng của yếu tố giá trị sản xuất xuất khẩu trong các
nến kinh tế là khác nhau: đối với những nền kinh tế lấy xuất khẩu là động lực thì xuất
khẩu và thu nhập quốc dân có mối liên hệ chặt chẽ (bởi các ngành sản xuất chính trong
nền kinh tế phục vụ cho mục đích xuất khẩu nên khi giá trị sản xuất gia tăng sẽ đồng
nghĩa với cung cho xuất khẩu tăng mạnh từ đó thúc đẩy xuất khẩu tăng cao); đối với
những nền kinh tế không hƣớng theo mục tiêu xuất khẩu thì khi giá trị sản xuất gia
tăng lên chƣa hẳn đã ảnh hƣởng nhiều đến giá trị xuất khẩu hàng hóa.
Bên cạnh đó, do đặc thù của từng ngành sản xuất nên cơ cấu cũng nhƣ tốc độ
gia tăng trong cung các nhóm hàng hóa trong nền kinh tế là không đều, vì thế, khi giá
trị sản xuất tăng lên sẽ khiến cho cung xuất khẩu của các mặt hàng tăng lên có sự khác
biệt. Hay nói cách khác tác động của yếu tố thu nhập nƣớc xuất khẩu lên xuất khẩu các
nhóm hàng khác nhau là khác nhau.
Ngƣợc lại với trƣờng hợp khả năng sản xuất gia tăng, khi giá trị sản xuất của
một quốc gia giảm xuống thì sẽ có những tác động giảm đối với giá trị xuất khẩu hàng
hóa.
2.1.1.2. GDP của nước nhập khẩu
Xét về nƣớc nhập khẩu, nếu GDP hay chính xác hơn phải nhắc đến GDP bình
quân đầu ngƣời của một nƣớc lớn thì đi kèm với thu nhập của quốc gia đó cao, điều
này đồng nghĩa với việc nƣớc đó có khả năng chi trả nhiều hơn cho hàng hóa của các
nƣớc khác, điều