Mọi xã hội cũng giống như tự nhiên, không ngừng biến đổi. Sự ổn định của xã hội chỉ
là sự ổn định bề ngoài. Thực tế, nó không ngừng thay đổi ngay ở bên trong bản thân nó.
Sự biến đổi xã hội sẽ dẫn theo các yếu tố bên trong nó và những yếu tố khác (Kinh tế-văn hóa-chính trị-quân sự ) thay đổi. Và gia đình là một thành tố tồn tại bên trong xã
hội, có thể coi gia đình là một nhóm xã hội sơ cấp, là “tế bào” của xã hội, hay hiểu rộng
hơn gia đình là một thiết chế xã hội. Vào những năm đầu đổi mới, “ mở cửa”, với sự tác
động mạnh mẽ của cơ chế thi trường, kéo theo nó là sự dunhập ồ ạt của lối sống,
phương thức sinh hoạt của xã hội phương Tây vào nước ta đã làm thay đổi phần nào
những giá trị truyền thống, đặc biệt trong gia đình Việt Nam dù ở nông thôn hay thành
thị. Có thể tùy từng dân tộc, từng vùng, từng dòng họ, từng gia đình mà thay đổi nhiều
hay ít. Qua gia đình, chân dung của xã hội hiện ra một cách sinh động và toàn diện cả về
kinh tế, chính trị, văn hóa, khoa học, tư tưởng, tôn giáo, lối sống, phông tục, tập quán, tín
ngưỡng Trong bài này em muốn đưa ra một số tiêu chí, đánh giá về sự thay đổi của gia
đình Việt Nam. Ở đây là hai loại gia đình xưa-nay hay cụ thể hơn là gia đình Việt Nam
truyền thống và gia đình Việt Namhiện đại.
Ta cũngcóthểxétgia đìnhViệtNam truyềnthốngvàgia đìnhViệtNam hiện đạidựa
trênkhoảngthờigian, lấymốclànăm 1945. Trướcnăm 1945 làgia đìnhViệtNam
truyềnthống, sau năm 1945 làgia đìnhViệtNam hiện đại.
16 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 4164 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Phân biệt sự khác biệt giữa gia đình Việt Nam truyền thống và gia đình Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
11
Phân biệt sự khác biệt giữa gia đình Việt Nam
truyền thống và gia đình Việt Nam hiện nay.
I. Nguyên nhân dẫn đến sự khác nhau giữa gia đình truyền thống và gia
đình hiện đại.
Mọi xã hội cũng giống như tự nhiên, không ngừng biến đổi. Sự ổn định của xã hội chỉ
là sự ổn định bề ngoài. Thực tế, nó không ngừng thay đổi ngay ở bên trong bản thân nó.
Sự biến đổi xã hội sẽ dẫn theo các yếu tố bên trong nó và những yếu tố khác (Kinh tế-
văn hóa- chính trị- quân sự…) thay đổi. Và gia đình là một thành tố tồn tại bên trong xã
hội, có thể coi gia đình là một nhóm xã hội sơ cấp, là “tế bào” của xã hội, hay hiểu rộng
hơn gia đình là một thiết chế xã hội. Vào những năm đầu đổi mới, “ mở cửa”, với sự tác
động mạnh mẽ của cơ chế thi trường, kéo theo nó là sự du nhập ồ ạt của lối sống,
phương thức sinh hoạt của xã hội phương Tây vào nước ta đã làm thay đổi phần nào
những giá trị truyền thống, đặc biệt trong gia đình Việt Nam dù ở nông thôn hay thành
thị. Có thể tùy từng dân tộc, từng vùng, từng dòng họ, từng gia đình …mà thay đổi nhiều
hay ít. Qua gia đình, chân dung của xã hội hiện ra một cách sinh động và toàn diện cả về
kinh tế, chính trị, văn hóa, khoa học, tư tưởng, tôn giáo, lối sống, phông tục, tập quán, tín
ngưỡng… Trong bài này em muốn đưa ra một số tiêu chí, đánh giá về sự thay đổi của gia
đình Việt Nam. Ở đây là hai loại gia đình xưa-nay hay cụ thể hơn là gia đình Việt Nam
truyền thống và gia đình Việt Nam hiện đại.
Ta cũng có thể xét gia đình Việt Nam truyền thống và gia đình Việt Nam hiện đại dựa
trên khoảng thời gian, lấy mốc là năm 1945. Trước năm 1945 là gia đình Việt Nam
truyền thống, sau năm 1945 là gia đình Việt Nam hiện đại.
Sự khác nhau giữa gia đình Việt Nam truyền thống và gia đình Việt Nam hiện đại
dựa trên một số tiêu chí, biểu hiện sau:
22
II. Phân biệt gia đình Việt Nam truyền thống và gia đình Việt Nam
hiện đại:
STT Tiêu chí Gia đình Việt Nam truyền thống Gia đình Việt Nam hiện nay
1 Cơ cấu:
+ Quy mô
gia đình
-Quy mô gia đình lớn, trong gia
đình có nhiều thế hệ. Thường là
“tam đại đầu đường”, “tứ đại đầu
đường.”
- Gia đình đông con.
-Quy mô gia đình giảm dần. Các gia
đình chỉ có hai thế hệ chung sống là chủ
yếu: bố mẹ- con cái.
-Gia đình ít con, mỗi gia đình thường
chỉ sinh từ 1-2 con.
+Loại
hình gia
đình
-Gia đình mở rộng- Có nhiều thế
hệ chung sống theo quan hệ huyết
thống.
- Một người chồng có thể lấy
nhiều vợ.
-Gia đình hạt nhân. Chỉ có thế hệ bố mẹ - con
cái sống trong cùng gia đình. Gia đình
.- Chỉ có 1 vợ-1 chồng theo quy định của pháp
luật pháp.
2 Chức
năng của
gia đình:
- Chức năng sinh sản: Coi trọng
chức năng này, họ coi việc càng
sinh nhiều con thì càng tốt, “con
đàn cháu đống” là có phúc. Đặc
biêt coi trọng con trai.
- Chức năng giáo dục: con cháu
chịu ảnh hưởng từ họ hàng, gia
đình, làng xóm Giáo dục chủ yếu
the tư tưởng Nho giáo, theo những
lễ nghi.Giáo dục con cái bằng
những kinh nghiệm được truyền từ
đời này sang đơi khác. Chỉ có con
trai mới được đi học. Con gái
được giáo dục để làm việc nhà.
-Chức năng kinh tế: Chức năng
- Chức năng sinh sản: Vẫn được chú
trọng, nhưng gia đình hiện đại chỉ sinh
1-2 con là chủ yếu (nhất là những gia
đình ở thành thị). Đã giảm bớt giá trị
con trai.
-Chức năng giáo dục: Ngày càng được
coi trọng hơn. Nhưng gia đình lại chú ý
đến việc học hành của con cái trong
trường như thế nào. Quá trình xã hội
hoá của đứa trẻ được diễn ra nhanh hơn,
được gia đình cho tiếp xúc với xã hội,
với các nhó xã hội nhiều hơn: nhà trẻ,
nhà trường. Cả con trai và con gái đều
được đi học.
- Chức năng kinh tế: Gắn với chức năng
33
sản xuất và tiêu dùng đi đôi với
nhau, do sản xuất tự cung tự cấp là
chính.
- Chức năng tâm lý tình cảm: Vợ
chồng sống với nhau có trách
nhiệm, nghĩa vụ với nhau, cùng
chia sẻ với nhau trong quan hệ vợ
chồng và chăm sóc con cái
tiêu dùng nhiều hơn sản xuất.
-Chức năng tâm lý tình cảm:Cả hai vợ
chồng tuy vẫn cùng chia sẻ với nhau
quan hệ vợ chồng va con cái. Nhưng hai
vợ chồng trong gia đình hiện đại có ít
trách nhiệm và nghĩ vụ với nhau hơn.
Họ coi trọng quan hệ vợ chồng hơn
quan hệ giữa cha mẹ và con cái.
chức năng
điều chỉnh
và kiểm
soát xã
hội
-Có sự kiểm soát giữa các cá
nhân, theo chiều từ trên xuống,
bố mẹ kiểm soát con cái, thế hệ
trước kiểm soát thế hệ sau.
-Sự kiểm soát của gia đình là
rất chặt chẽ, đặc biệt đối với con
gái.
-Sự kiểm soát các cá nhân theo
gia phong, theo những luật lệ
trong làng…
- Có sự kiểm soát từ trên xuống.
- Sự kiểm soát của gia đình có phần
lỏng lẻo hơn. Nhưng phương tiện kiểm
soát thì đa dạng hơn.
-Sự kiểm soát các cá nhân theo pháp
luật và nề nếp của gia đình.
3 Mối quan
hệ giữa
các thành
viên trong
gia đình
Mối quan hệ giữa các thành viên
được củng cố bằng chế độ tông
pháp và chế độ gia trưởng.
Có sự mâu thuẫn nhau trong
những mối quan hệ và trở nên gay
gắt: mẹ chồng nàng dâu, em chồng
chị dâu.
Mối quan hệ giữa các cá nhân bình đẳng
hơn.
Vẫn còn những mâu thuẫn tồn tại trong
cac mối quan hệ nhưng đã bớt gay gắt.
Các cá nhân có quyền tự do.
4 Vị trí- vai
trò của
phụ nữ
trong gia
đình:
- Chồng: Thường là chủ gia đình,
có quyền quyết định mọi hoạt
động lớn nhỏ trong gia đình.
- Vợ- người phụ nữ thường bị phụ
thuộc vào chồng. Không có vị trí
- Chồng: Vẫn là người chủ trong gia
đình
- Vợ- người phụ nữ đã có vai trò quan
trọng sản xuất, tái sản xuất, tiếp cận các
nguồn lực phát triển, các quyết định, các
44
+Vai trò
của người
phụ nữ
trong gia
đình.
+Người
chủ gia
đình
+Người
sở hữu tài
sản.
+Phân
công lao
đông
trong gia
đình:
quan trọng trong gia đình ( nếu
không sinh được con trai).Người
vợ phải có trách nhiệm sinh con
trai, làm mọi công việc nhà.
- Con cái:
+ Con trai: được coi trọng nhiều
hơn.
+ Con gái:Không có giá trị bằng
con trai.
Thường con cái phải tuân theo lời
của bố mẹ.”Cha mẹ đặt đau con
ngồi đấy”.
sinh hoạt cộng đồng và thụ hưởng phúc
lợi xã hội, gia đình.
- Con cái: Đã giảm phân biệt giữa nam
và nữ. Con cái có quyền lựa chọn bạn
đời cho mình, có quyền quyết định cuộc
sống của mình khi đến tuổi công dân.
5 Nghề
nghiệp
Thường gia đình, dòng họ theo
một nghề nhất định, “cha truyền
con nối” tạo thành “nghề gia
truyền”, hay rộng hơn là thành
một làng nghề.
Chủ yếu làm nghề nông
Các thành viên trong gia đình làm
những công việc khác nhau. Mỗi thành
viên có quyền quyết định nghề nghiệp
cho riêng mình.
Nghề nghiệp phong phú hơn.
6 Kinh tế
gia đình
Kinh tế nông nghiệp là chủ yếu.
Kinh tế phụ thuộc vào thành viên
chính trong gia đình
- Kinh tế nông nghiệp vẫn chiếm phần
lớn trong các gia đình, nhưng hiện nay
còn thêm kinh tế phi nông và hốn hợp
phi nông nghiệp – nông nghiệp.
- Mỗi người đều có thể đóng góp những
giá trị kinh tế khác nhau. Không còn
phụ thuộc vào một cá nhân cụ thể (trừ
những gia đình khó khăn)
55
7 Tư tưởng,
Giá trị-
chuẩn
mực gia
đình
Theo tư tưởng Nho Giáo là chủ
đạo.
-Tình yêu lứa đôi trong sáng.
-lòng chung thủy, tình nghĩa vợ
chồng.
-Trách nhiệm và sự hy sinh vô tận
của cha mẹ với con cái.
-Con cái hiếu thảo với cha mẹ.
-Con cháu kính trọng, biết ơn và
quan tâm tới ông bà, tổ tiên.
Tình yêu thương, chăm lo và đùm
bọc anh em, họ hàng.
-Đề cao lợi ích chung của gia
đình.
-Tự hào truyền thống gia đình,
dòng họ.
Tiếp thu tư tưởng, tinh hoa của cả
phương Đông và phương TâyBên cạnh
những giá trị truyền thống, gia đình Việt
Nam còn tiếp thu những giá trị tiên tiến
của gia đình hiện đại như:
- Tôn trọng tự do cá nhân.Tôn trọng
quan niệm và tự do của mỗi người. Tôn
trọng lợi ích cá nhân.
-Dân chủ trong mọi quan hệ
- Bình đẳng nam nữ
- Bình đẳng trong trách nhiệm, nghĩa vụ.
- Bình đẳng trong thừa kế. - Không phân
biệt đối xử đẳng cấp, thứ bậc giữa con
trai- con gái, anh- em
8 Chu kỳ
gia đình
- Vấn đề kết hôn: Tuổi kết hôn
sớm.” Lấy chồng từ thửơ 13”.
-Sinh con: thể hiện vai trò của
người làm bố mẹ.
-Nuôi dạy con, giúp con cái hoà
nhập vào cuộc sống của cộng
đồng làng xã, họ hàng. Có sự nuôi
dạy của ông bà.
- sinh hoạt vợ chồng ít bị ảnh
hưởng.
- Vấn đề kết hôn: Tuổi kết hôn muộn
hơn. Kết hôn theo quy định của pháp
luật.
- Sinh con: gây nên những căng thẳng,
sự thích ứng bố mẹ của những cặp vợ
chồng trẻ.
- Sinh hoạt vợ chồng được quan tâm
nhiều. Là vấn đề mà các cặp vợ chồng
quan tâm.
66
III.Phân tích sự khác nhau giữa gia đình Việt Nam truyền thống và
gia đình Việt Nam hiện đại:
1. Tiêu chí 1: Cơ cấu gia đình:
Tiếp cận theo lý thuyết cấu trúc- chức năng. Ta xem xét gia đình trong mối quan hệ với
xã hội và xem xét thành phần của gia đình truyền thống và hiện đại khác nhau như thế
nào khi các thành viên trong gia đình thay đổi. Mọi cấu trúc trong gia đình đã được
chuẩn hóa sẽ có những chức năng phù hợp.
+ Quy mô gia đình:
Những mô hình gia đình nhiều thế hệ theo kiểu “tam đại đồng đường”,“tứ đại đồng
đường”, có khi tới hơn chục người cùng chung sống trong một ngôi nhà đang dần được
thay thế bằng mô hình gia đình ít người, thường chỉ có hai thế hệ cha mẹ-con cái hay có
thể đến thế hệ thứ ba, rất hiếm thấy gia đình có 4-5 thế hệ cùng chung sống, mặc dù tuổi
thọ trung bình ngay nay cao hơn trước rất nhiều. “Theo số liệu của các cuộc điều tra dân
số qua các năm cho thấy, qui mô gia đình Việt Nam đã giảm từ mức trung bình 5,22%
người/hộ năm 1979 xuống còn 4,61 người/hộ năm 1999 và đến thời điểm này còn có thể
ít hơn nữa, tuy chưa có công bố kết quả điều tra mới. Quy mô số gia đình ở các vùng
miền cũng khác nhau, do ảnh hưởng của trình độ dân trí, đặc điểm về kinh tế xã hội,
phong tục tập quán và đặc trưng văn hoá. Ví dụ như: Tại khu vực đồng bằng sông Hồng,
quy mô số gia đình trung bình là 4,1 người, thấp nhất trong cả nước. Vùng Tây Bắc có
qui mô số gia đình trung bình cao nhất, trên 5 người, trong đó có một số dân tộc ở miền
núi phía Bắc có quy mô hộ gia đình lớn hơn rất nhiều so với quy mô hộ trung bình của cả
nước” (nguồn: Theo phân tích của một số nhà xã hội học, sự
thu nhỏ quy mô gia đình nói trên đang tạo thêm nhiều điều kiện thúc đẩy sự bình đẳng
giới, đời sống riêng tư của con người được coi trọng hơn, giảm bớt những mâu thuẫn và
xung đột phát sinh từ việc chung sống trong gia đình nhiều thế hệ. Việc sinh ít con đã trở
nên phổ biến trong các gia đình, cả ở nông thôn và thành thị. Điều này giúp phụ nữ có
nhiều cơ hội tham gia vào công việc xã hội, sống bình đẳng hơn với nam giới, có điều
kiện học hỏi nâng cao trình độ, trẻ em được chăm sóc tốt hơn. Tuy vậy, quy mô gia đình
thu nhỏ cũng gây nhiều khó khăn trong việc chăm sóc người cao tuổi và phát triển nhân
77
cách trẻ em. Ví dụ như: Trong những gia đình quy mô nhỏ ở Hà Nội được điều tra, có tới
hơn 30% số người sống ở nội thành cho biết họ không có thời gian hoặc rất ít thời gian để
chăm sóc giáo dục con cái. Sự thu nhỏ quy mô gia đình theo hướng con cái khi có gia
đình riêng sống tách rời cha mẹ đã khiến người già có nguy cơ rơi vào hoàn cảnh cô đơn
và khó khăn về kinh tế, nhất là ở nông thôn-nơi bảo hiểm xã hội đối với người già chưa
phổ biến.. Quy mô của gia đình có ảnh hưởng đến hoạt động và đời sống của từng
thành viên trong gia đình đó.
+ Loại hình gia đình:
Sự biến đổi của gia đình Việt Nam hiện nay, được thể hiện trong biến đổi cơ cấu gia
đình. Loại hình gia đình rất phong phú. Thay vào những gia đình mở rộng, gồm nhiều
các thế hệ thành viên liên kết với nhau bằng chuỗi quan hệ huyết thống và thường bị chi
phối bởi chế độ “ gia trưởng” là những gia đình hạt nhân- loại hình gia đình tiên tiến,
phù hợp với xã hội hiện đại- mang tính phổ biến. Theo kết quả điều tra gia đình Việt
Nam năm 2006 ( Kết quả điều tra gia đình Việt Nam 2006 do ủy ban dân số, gia đình,
trẻ em thực hiện), mô hình hộ gia đình 2 thế hệ (gồm cha mẹ và con cái)- gia đình hạt
nhân tồn tại khá phổ biến ở Việt Nam (chiếm tỉ lệ 63,4%). Hộ gia đình 3 thế hệ trở lên-
gia đình mở rộng có xu hướng giảm. Trong đó,mô hình gia đình qui mô nhỏ có xu
hướng phổ biến ở thành thị hơn nông thôn và ở nhóm hộ giàu hơn hộ nghèo, tỷ lệ hộ gia
đình có 3 thế hệ ở nông thôn thấp hơn thành thị, đặc biệt là khu vực nội thành.Trước kia
trong mỗi gia đình người đàn ông được phép lấy nhiều vợ, tùy thuộc vào việc ngươi đàn
ông đó có đủ khả năng về kinh tế hay không. Hôn nhân không do pháp luật quy định.
Nhưng hiện nay, gia đình hạt nhân đang được lan rộng. Mỗi gia đình chỉ có 1 vơ-1
chồng. Hôn nhân được sự đồng ý của cha mẹ, sự công nhận của pháp luật, và được tổ
chức cưới theo nghi thức đời sống mới. Tuổi kết hôn của cả nam lẫn nữ đều có xu
hướng tăng cao và sau khi kết hôn, đôi vợ chồng thường có nơi ở riêng và số con của
cặp vợ chồng đa số là trên dưới 2 con.
2. Tiêu chí 2: Chức năng của gia đình:
Tương ứng với những cơ cấu của gia đình, ta có những chức chức năng phù hợp. Theo
thuyết chức năng, nó sẽ hướng vào giải quyết vấn đề bản chất của cấu trúc và hệ quả của
88
cấu trúc gia đình. Ta sẽ phân tích thành phần tạo nên cấu trúc của chúng,xem các thành
phần đó có mối liên hệ với nhau như thế nào. Sự phân tích gia đình theo cách tiếp cận
chức năng bao gồm 4 câu hỏi chính: Các chức năng của gia đình là gì? Quan hệ chức
năng giữa gia đình và các bộ phận khác của xã hội là gì? Gia đình thực hiện những chức
năng gì đối với cá nhân? Mối liên hệ giữa cấu trúc gia đình và chức năng gia đình? Thiết
chế gia đình là hệ thống quy định ổn định là tiêu chẩn hoá tính giao và sự truyền chủng
của con người.
Từ cách tiếp cận xã hội học, xét về bản chất, gia đình có 4 chức năng cơ bản (sinh
sản.giáo dục, kinh tế, tâm lý- tình cảm) ngoài ra còn có các chức năng khác như: chăm
sóc sức khỏe của người già, bảo vệ bà mẹ và trẻ em, điều chỉnh hành vi tình dục và giới,
xã hội hoá trẻ em…
Thứ nhất: Chức năng sinh sản, đại bộ phận người Việt cho rằng sinh con là một chức
năng quan trọng của gia đình. Tuy nhiên, đã có một sự chuyên đổi nhận thức về mặt số
con, con trai hay gái...Theo kết quả điều tra gia đình Việt Nam năm 2006, tỉ lệ người
đồng ý rằng gia đình phải có nhiều con chiếm tỉ lệ khá thấp (18,6% người cao tuổi,
6.6%người độ tuổi 18-60 và 2,8% vị thành niên), khác hẳn với gia đình truyền thống
trước kia, hầu như nhà nào cũng sinh rất nhiều con. Mọi người coi sinh đẻ , coi số con
càng đông thì gia đình ấy lại càng có phúc. Quan niệm “gia đình nhất thiết phải có con
trai” vẫn được bộ phận đáng kể người dân ủng hộ (gần 37% người độ tuổi 18-60), trong
đó nhóm dân số nghèo có nhu cầu sinh con trai nhiều hơn nhóm dân số giàu (45,5% ở
nhóm có thu nhập thấp nhất, 26% ở nhóm có thu nhập cao nhất). Lí do để giải thích vì
sao phải có con trai chủ yếu vẫ là “để có người nối dõi tông đường” (85,7%), “ để có
người nương tựa lúc tuổi già”(54,2%) và để có người làm việc nặng(23,4%)... tuy nhiên
có khoảng 63% người cho rằng không nhất thiết phải có con trai. Cho thấy bộ phận
người dân đã tự nhận thức được giá trị của con cái trong cuộc sống gia đình nói chung.
Thứ hai, chức năng giáo dục. Dù là gia đình Việt nam truyền thống hay hiện đại thì
giáo dục là một phần không thể thiếu được trong gia đình, nó thể hiện sự dạy dỗ của ông
bà, bố mẹ với con cái, cháu chắt. Chúng ta thấy rằng gia đình truyền thống thì con cái sẽ
có được sự chỉ bảo, dạy dỗ của cả ông bà, chú bác, bố mẹ nhiều hơn gia đình hiện
đại.Hiện tượng gia đình hạt nhân làm chặn đứng cơ hội truyền thụ những hiểu biết về
việc nuôi dạu con cái từ thế hệ ông bà cho thế hệ cha mẹ. Thế hệ trẻ mới lập gia đình cho
99
dù có nhận được sự giúp đỡ của bố mẹ nhưng vẫn bộc lộ những bất đồng thế hệ, xung
quanh việc nuôi dạy con cái vì giới tre ngày nay trông cậy vào tri thức khoa học và
chuyên môn hơn là sự hiểu biết của bố mẹ.
Thứ 3: Chức năng kinh tế của gia đình: được quyết định phù thuộc vào công việc hay
mức thu nhập của các thành viên trong gia đình và tiêu chuẩn tiêu dùng của gia đình có
ảnh hưởng trực tiếp đến mức độ thỏa mãn sinh hoạt của gia đình. Gia đình Viêt Nam
truyền thống chủ yếu hoạt động kinh tế nhỏ lẻ,riêng rẽ, tự cung tự cấp là chính. Nhưng
hiện nay gia đình Việt Nam đã có sự thay đổi, các thành viên trong gia đình thực hiện
hoạt động kinh tế ngoài gia đình. Xu hướng cá nhân hóa các nguồn thu nhập của các
thành viên trong gia đình dẫn đén chỗ phạm vi hoạt động của gia đình như một đơn vị
kinh tế thu hẹp lại. Chức năng kinh tế của gia đình Việt Nam hiện đại bộc lộ rõ hơn ở các
hoạt động tiêu dùng hơn là hoạt động tạo thu nhập. → Ta luôn coi gia đình như một đơn
vị kinh tế để đảm bảo cho sinh hoạt của gia đình và các thành viên trong gia đình đó.
Thứ 4: chức năng tâm lý-tình cảm của gia đình. Trong gia đình Việt Nam truyền
thống coi trọng những giá trị về vợ chồng, con cái- bố mẹ theo những chuẩn mực nhất
định. Người vợ kì vọng vào vai trò trụ cột kinh tế,vai trò làm cha của người chồng hơn là
vào tình yêu và sinh hoạt vợ chồng. Còn người chồng lại coi trọng vào sự đảm đang, vai
trò làm vợ, làm mẹ của người vợ. Những gia đình Việt nam truyền thống thường không
thấy ly dị như gia đình hiện đại. Gia đình Việt Nam hiện đại vẫn coitrongj những giá trị
truyền thống đó,nhưng bây giờ họ có thể tự do tìm cho mình một đối tượng theo tình
cảm, họ dễ chia tay nhau hơn, dễ thay đổi hơn.
→ bốn chức năng cơ bản của gia đình là những điểm chung cho gia đình Việt Nam
truyền thống và hiện đại. Nhưng tùy thuộc vào mỗi loại gia đình mà những chức năng
này lại có cách thức biểu hiện khác nhau.
Thêm 2 chức năng quan trọng nữa là điều chỉnh và kiểm soát các cá nhân trong gia đình.
Ở gia đình Việt Nam truyền thống luôn có sự kiểm soát chặt chẽ giữa các thành viên
trong gia đình hơn gia đình hiện đại Nhưng sự kiểm soát này lại tạo nên sự mất tự do, sự
ngột ngạt với các thành viên. Sự kiểm soát bao giờ cũng theo chiều dọc từ trên xuống..
Giúp cho gia đình ổn định và giữ được nền nếp.
3. Mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình:
101
0
Mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình thể hiện cơ cấu của gia đình như thế
nào. Và nó cũng được biểu hện trong thuyết tương tác- biểu trưng. Đó là áp dụng để
nghiên cứu, xem xét quá trình xã hội hóa trẻ em, phân tích quan hệ giữa cha mẹ và con
cái, quan hệ giữa các thành viên trong gia đình.Nghiên cứu các vai trò vị trí trong gia
đình là ta nghiên cứu quan hệ bên trong gia đình. Điều đó nói lên mỗi vai trò trong gia
đình đều liên quan chặt chẽ với nhau.
Trong gia đình Việt Nam truyền thống, mối quan hệ giữa các thành viên được củng
cố bằng chế độ tông pháp và chế độ gia trưởng. Theo đó cả 3 mối quan hệ cơ bản của gia
đình (vợ- chồng; cha- con; anh- em) tuân theo một tôn ti, trật tự chặt chẽ. Là vợ chồng
thì phải hòa thuậ thương yêu nhau, phu xướng thì vợ phải tùy; là cha con thì cha phải
hiền từ, biết thương yêu và nuôi dạy con cái, biết làm gương cho con cái học tập,. Là con
cái thì phải biết ghi nhớ công ơn sinh thành, dưỡng dục của bố mẹ. Là anh em thì phải
biết đoàn kết,thương yêu, đùm bọc lẫn nhau... Cho đến nay, mối quan hệ giữa các thành
viên trong gia đình thì lỏng lẻo hơn. Sức Nặng của tôn ti trật tự dù vẫn còn nhưng đã
giảm dần, và bây giờ là sự đề cao tự do cá nhân, bình đẳng trong mối quan hệ. Vì hiện
nay số lượng con cái trong gia đình có xu hướng giảm, thu nhâp của gia đình lại tăng lên
nên cha mẹ có điều kiện nuôi con tốt hơn. Cha mẹ đi làm suốt ngày, phần lớn bố mẹ đều
không có thời gian chăm sóc con cái học tập, vui chơi giải trí. Nhiều bậc cha mẹ phó
mặc con cái cho nhà trường,các đoàn thể trong việc giáo dục nhân cách, văn hóa. Đồng
thời, cũng có không ít con cái con cái có xu hướng muốn tách khỏi sự kiểm soát của cha
mẹ.Do đó mà mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái trong một số gia đình Việt Nam trở
nên lỏng lẻo,nảy sinh nhiều vấn đề tệ nạn xã hội trong giới thanh thiếu niên hiện nay.
4. Vị trí- vai trò của phụ nữ trong gia đình:
Phân công lao đông trong gia đình:Vì gia đình là một thiết chế xã hội. Mà ta biết
rằng thiết chế với tư cách một quy tắc các lễ nghi, những hành động và việc chuyển đổi
từ một vai trò sang vai trò khác bên trong thiết chế. Vị trí- vai trò của người vợ hoặc
chồng sẽ được phân công hoặc chuyển đ