Thập tự chinh: Theo ngôn ngữ La tinh thì CRUX có nghĩa là Thánh giá hoặc Chữ Thập, một biểu tượng của Kitô giáo. Từ CRUX phát sinh ra danh từ CRUSADE, cõ nghĩa là cuộc viễn chinh của đoàn quân Công giáo từ Âu châu viễn chinh sang vùng Cận Đông do bọn phong kiến Tây Âu và nhà thờ Kitô giáo tổ chức trong những năm 1096 – 1270. Đây là một loạt các cuộc chiến tranh tôn giáo, được kêu gọi bởi Giáo hoàng và tiến hành bởi các vị vua và quí tộc. Họ là những người tình nguyện cầm lấy cây thập giá đi chiến đấu. Mục đích của họ là xâm chiếm đất đai và cướp đoạt của cải ở khu vực này.
Song các cuộc chiến tranh đó lại núp dưới danh nghĩa bảo vệ tôn giáo, chống bọn tà đạo, giải phóng vùng đất Thánh Giêrusalem khỏi ách thống trị của những kẻ “dị giáo” (những người theo đạo Hồi). Tham gia đạo quân Thập tự có các chúa phoong kiến Pháp, Đức, Ý, Anh, những kị sĩ cuồng tín và nông dân bị lừa dối đi tìm hạnh phúc, mong thoát khỏi cảnh khổ cực.
Thập tự quân: Những người lính trong đoàn quân viễn chinh Công giáo đều mang huy hiệu chữ thập ở phía trước ngực và phía sau lưng nên được gọi là “Thập tự quân” (quân mang dấu chữ thập). Và những cuộc chiến tranh này gọi là những cuộc “chiến tranh chữ Thập” (Thập tự chinh).
Các cuộc chiến tranh chữ Thập làm cho nền văn minh phương Đông bị tàn phá nặng nề vì những cuộc cướp bóc tàn sát, hủy hoại . Nhưng nó cũng đem lại một yếu tố quan trọng mới, mở ra một thế giới mới, nối liền khu vực và thúc đẩy sự giao lưu giữa phương Đông và phương Tây.
21 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 7670 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phân tích nguyên nhân, tính chất và kết quả của các cuộc Thập tự chinh?, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
B. NỘI DUNG
Nêu và phân tích nguyên nhân, tính chất và kết quả
của các cuộc Thập tự chinh?
Trả lời
I. Các khái niệm
Thập tự chinh: Theo ngôn ngữ La tinh thì CRUX có nghĩa là Thánh giá hoặc Chữ Thập, một biểu tượng của Kitô giáo. Từ CRUX phát sinh ra danh từ CRUSADE, cõ nghĩa là cuộc viễn chinh của đoàn quân Công giáo từ Âu châu viễn chinh sang vùng Cận Đông do bọn phong kiến Tây Âu và nhà thờ Kitô giáo tổ chức trong những năm 1096 – 1270. Đây là một loạt các cuộc chiến tranh tôn giáo, được kêu gọi bởi Giáo hoàng và tiến hành bởi các vị vua và quí tộc. Họ là những người tình nguyện cầm lấy cây thập giá đi chiến đấu. Mục đích của họ là xâm chiếm đất đai và cướp đoạt của cải ở khu vực này.
Song các cuộc chiến tranh đó lại núp dưới danh nghĩa bảo vệ tôn giáo, chống bọn tà đạo, giải phóng vùng đất Thánh Giêrusalem khỏi ách thống trị của những kẻ “dị giáo” (những người theo đạo Hồi). Tham gia đạo quân Thập tự có các chúa phoong kiến Pháp, Đức, Ý, Anh, những kị sĩ cuồng tín và nông dân bị lừa dối đi tìm hạnh phúc, mong thoát khỏi cảnh khổ cực.
Thập tự quân: Những người lính trong đoàn quân viễn chinh Công giáo đều mang huy hiệu chữ thập ở phía trước ngực và phía sau lưng nên được gọi là “Thập tự quân” (quân mang dấu chữ thập). Và những cuộc chiến tranh này gọi là những cuộc “chiến tranh chữ Thập” (Thập tự chinh).
Các cuộc chiến tranh chữ Thập làm cho nền văn minh phương Đông bị tàn phá nặng nề vì những cuộc cướp bóc tàn sát, hủy hoại . Nhưng nó cũng đem lại một yếu tố quan trọng mới, mở ra một thế giới mới, nối liền khu vực và thúc đẩy sự giao lưu giữa phương Đông và phương Tây.
Miền đất Thánh Giêrusalem: Giêrusalem, tiếng Do Thái gọi là Yerushalayim, người Ả rập gọi là Al Quds, có nghĩa là thành phố văn hoá đa dạng. Như một trung tâm tôn giáo quan trọng vào thời cổ, thuộc miền Cận Đông, Giêrusalem như ngã tư nơi xảy ra nhiều cuộc tranh chấp. Giêrusalem được xem là thành phố thiêng liêng của ba tôn giáo lớn trên thế giới: Do thái giáo, Kitô giáo và Hồi giáo.
Với người Do Thái giáo, Giêrusalem là nơi Đavít lập thành đô.
Với người Kitô giáo, Giêrusalem là nơi xảy ra nhiều sự kiện cuối đời của Chúa Giêsu, nhất là biến cố tử nạn phục sinh của Ngài.
Với người Hồi giáo, Giêrusalem là nơi giáo chủ Môhamét đã đến hành hương, là thánh địa quan trọng của họ sau Mecca và Medina trung tâm của đạo Hồi ở Ả rập Sauđi.
Lịch sử của Thành Thánh là những cuộc chiến tranh, thôn tính, tàn phá và xây dựng lại. Đế quốc Babilon, Batư, Hylạp, La Mã, Byzantine, Thỗ Nhĩ Kỳ, Ottoman, Đế Quốc Anh đều đã đặt chân lên Giêrusalem.
Thành Cổ Giêrusalem đã được UNESCO công bố là Di sản của Nhân loại vào năm 1981.
II. Nguyên nhân dẫn đến các cuộc Thập tự chinh
1. Nguyên nhân sâu xa
Năm 1095, giáo hoàng Urban II (1088 – 1099) đã phát động cuộc Thập tự chinh thứ nhất. Với những lời hứa hẹn về vùng đất Thánh, “nơi khắp nơi đầy mật và sữa”, “thiên đường thứ hai”, nơi mà các binh lính tham gia viễn chinh bị chết sẽ được xóa mọi tội lỗi, cứu vớt lên thiên đường….”Đó là ý Chúa!”.
Với cái áo niềm tin khoác ngoài vừa vặn như là duyên cớ trực tiếp, duy nhất của những cuộc Thập tự chinh. Nhưng thực chất với cái nhìn đúng đắn và trực diện với điều kiện hoàn cảnh lịch sử châu Âu mới thấy rằng nguyên cớ trực tiếp sâu xa của những cuộc Thập tự chinh chính là những mâu thuẫn kinh tế chính trị, xã hội từ trước giữa hai phần Đông và Tây của lục địa châu Âu .
Về kinh tế: Từ cuối thế kỷ XI, kinh tế hàng hóa – tiền tệ và thành thị ngày càng phát triển mạnh. Sinh hoạt của giới quí tộc thế tục và tăng lữ cũng trở nên xa hoa, và ngày càng tốn kém tiền bạc. Cả hai tầng lớp quí tộc này đều muốn có thêm đất đai, tiền của để bành trướng thế lực và phục vụ nhu cầu ăn chơi, hưởng lạc của mình. Quí tộc tăng lữ Thiên chúa giáo còn muốn khống chế cả giáo hội phương Đông.
Trong khi đó, ở thế kỷ XI, tòa thánh Rôma đã rệu rạo, với quá trình phong kiến hóa diễn ra ở Tây Âu từ lâu. Đặc biệt là với chế độ ruộng đất trong xã hội phong kiến thời kỳ này hầu hết đều tập trung vào tay giai cấp phong kiến và chia thành nhiều lãnh địa theo cơ chế truyền từ đời này sang đời khác. Nhưng điều quan trọng và đáng chú ý ở đây là các lãnh địa thường chỉ truyền lại cho con trưởng trong hoàng tộc, vì vậy những người con thứ vẫn trở thành những kị sĩ không có ruộng đất. Nhiều kị sĩ dòng dõi phong kiến vẫn phải tìm đến các lâu đài để phục vụ các lãnh chúa phong kiến muốn thuê họ. Có một số kị sĩ phải sống dựa vào các tu viện, thậm chí tấn công các tu viện, hoặc là chặn đường cướp bóc của cải của lái buôn, thương nhân,….
Về chính trị: chính là sự phân liệt giữa giáo hội phương Tây và phương Đông. Thế kỷ 11 chứng kiến cuộc phân ly giáo, chia cắt giáo hội thành hai phần, phương Tây với Giáo hội Công giáo Rôma hay giáo hội Thiên chúa, và phương Đông với Giáo hội Chính Thống Đông phương hay còn gọi là giáo hội Hy Lạp.
Chính những bất đồng về thần học như biểu hiện ở cách giải thích thuyết “Tam vị nhất thể”, và thẩm quyền của Giáo hoàng, những dị biệt về văn hóa và ngôn ngữ giữa hai nền văn hóa Latinh và Hi Lạp cũng là những nhân tố quan trọng thúc đẩy sự chia cắt. Trước đó đã nảy sinh những bất đồng giữa hai nửa giáo hội.
Bên cạnh đó, Giáo hoàng Rôma muốn ngự trị trên toàn bộ giáo hội Kitô càng làm cho mâu thuẫn trong tổ chức giáo hội hai khu vực này càng thêm gay gắt. Đồng thời, sự tranh giành khu vực ảnh hưởng lẫn nhau trong quá trình truyền giáo ở những nước lân cận xung quanh cũng làm cho quan hệ hai bên thêm căng thẳng.
Do đó, đến giữa thế kỷ XI vào năm 1054, Giáo hoàng Rôma sai sứ sang Côngxtăngtinôplơ vứt lên bàn thờ của giáo đường Xôphia giấy khai trừ giáo tịch của tổng giám mục Côngxtăngtinôplơ. Để đáp trả hành động phỉ báng đó, tổng giám mục Côngxtăngtinôplơ đã yêu cầu hoàng đế Bidantium triệu tập một cuộc hội nghị tôn giáo để khai trừ giáo tịch sứ giả của giáo hoàng Rôma. Chính điều đó đã dẫn đến những mâu thuẫn và lòng căm phẫn giữa hai bên càng thêm phức tạp và sâu sắc. Và cũng từ đó, sự phân liệt giữa giáo hội phương Tây và phương Đông đã chính thức đi vào thời kỳ quyết liệt, thậm chí xem nhau như thù địch.
Về xã hội: thời kỳ này xã hội châu Âu có nhiều biến động và những thay đổi to lớn. Chế độ phong kiến ngày càng xiết chặt người nông dân vào tình cảnh lầm than, sự áp bức bóc lột đối với họ ngày càng nặng nề, làm cho họ chán nản với cảnh sống bị đè nén và vùi dập, vì vậy họ mất lòng tin vào cuộc sống ở lãnh địa. Chính điều đó làm cho mâu thuẫn giữa phong kiến và nông dân ngày càng sâu sắc.
Trong khoảng thế kỷ X đến nửa sau thế kỷ XI, giáo hội Rôma lâm vào tình cảnh suy yếu và hỗn loạn. Do đó bọn tăng lữ, quí tộc nhà thờ cũng không ngừng tăng cường bóc lột người nông dân bằng thuế thập phân và lợi dụng lòng tin của quần chúng nhân dân để đè nén về mặt tinh thần.
Cũng vào thời gian này, với sự xuất hiện của thành thị, giai cấp tư sản cũng bắt đầu có mầm móng xuất hiện, nền sản xuất hàng hoá ngày càng tiến bộ đã thôi thúc những người nông nô có tư tưởng vượt ra khỏi lãnh địa để đến những vùng đất mới sinh sống chỉ vì có một mong muốn tự do hơn.
Với những mâu thuẫn gay gắt và chồng chéo đó đã làm cho xã hội Tây Âu ngày đi vào tình thế nguy kịch hơn, mà người phải hứng chịu tất cả là tầng lớp nông nô. Bởi vậy, để giải quyết được mâu thuẫn nội tại đó, giai cấp phong kiến đã đẩy những mâu thuẫn đó ra bên ngoài bằng những cuộc Thập tự chinh đãm máu kéo dài gần hai thế kỷ.
Với những nguyên nhân sâu xa về kinh tế, chính trị, xã hội hay có thể nói đó là những tiền đề nguyên nhân khách quan đã đẩy các nước Tây Âu vào những cuộc Thập tự chinh dài đăng đẳng hàng trăm năm với tính chất những cuộc chiến tranh phi nghĩa, dẫn đến hàng triệu người chết, bị thương và những tổn thất to lớn về giá trị vật chất, những giá trị nghệ thuật tinh thần.
2. Nguyên nhân trực tiếp
Những cuộc Thập tự chinh diễn ra cuối thế kỷ XI kéo dài cho đến thế kỷ XIII không chỉ do những nguyên nhân sâu xa mà còn do nhiều nguyên nhân khác đã dẫn đến những cuộc chiến hỗn loạn kéo dài 195 năm.
Thứ nhất, do sự xung đột như nước với lửa về giáo lý:
Mặc dù kinh Coran (đây là kinh thánh của đạo Hồi) đã có những giáo điều công nhận Giêsu (chúa đứng đầu Thiên chúa giáo) là vị tiên tri đứng hàng thứ hai sau Môhamet. Nhưng kinh Coran lại phủ nhận tính cách thiêng liêng của Giêsu. Kinh Coran cho rằng các phép lạ của Giêsu là những trò ảo thuật học mót ở Ba-by-lon..
Kinh Coran hoàn toàn phủ nhận tội tổ tông, hoàn toàn phủ nhận cái chết của Giêsu trên thập giá. Kinh Coran còn khẳng định người Do Thái không giết và không đóng đinh Giêsu.
Điều đáng nói là, Môhamet lại ghét Công giáo, vì ông cho rằng; đạo này thờ ảnh tượng vi phạm điều răn thứ hai của giáo lý Hồi giáo. Môhamet lại ghét cay ghét đắng thuyết Thiên chúa ba ngôi của đạo Kitô, quá tôn sùng bà Maria và các Thánh do chính họ sắc phong. Đối với Môhamet, đạo Kitô là đa thần giáo. Vì vậy Công giáo được xem như là tà đạo đa thần chứ không phải đạo Thiên chúa đúng nghĩa, đi ngược lại với chủ thuyết độc thần của tổ phụ Hồi giáo – Abraham.
Xung đột về giáo lý còn thể hiện ở trong kinh Coran, Môhamet công khai kêu gọi các tín đồ đạo Hồi phải chiến đấu chống lại những kẻ theo Do Thái, Kitô giáo và tất cả những ai không tin theo Hồi giáo.
Trong vùng kiểm soát của Hồi giáo, bất kỳ một ai ngoại đạo đều phải nộp thuế thân và phải chấp nhận một địa vị thấp kém trong xã hội. Những người Công giáo thờ ảnh tượng bị xem là những hạng người dơ bẩn và bị cấm vào các đền thờ Hồi giáo. Những người theo đạo Do Thái Và Kitô bị cấm không được xây dựng nhà thờ mới hay sửa chữa nhà thờ cũ, cấm đeo thánh giá trước ngực, không được đọc kinh to tiếng và cấm ngoặt rước kiệu trên đường phố.
Người Kitô giáo bị coi là đa thần giáo nên có thể bị sát hại bất cứ lúc nào. Kinh Coran còn qui định: “Khi những tháng thánh qua đi, các ngươi hãy giết những kẻ đa thần bất cứ nơi nào bắt gặp chúng, hãy phục kích để bắt chúng”. Chính những câu thơ bất bình đó lại tạo nên sự dũng mảnh của những đoàn quân Hồi giáo đi xâm chiếm và mở mang nước Chúa của thánh A-la (chỉ trong một thế kỷ, đoàn quân Hồi giáo đã chiếm hết Bắc Phi, Trung Đông, một phần châu Âu và tràn sang Trung Á, tới tận biên giới Trung Quốc. Còn đối với người phương Tây, họ gọi đó là “những câu thơ của đao binh”. Những câu thơ của sự mâu thuẫn đối kháng giữa hai tôn giáo lớn.
Thứ hai, do sự tranh chấp lãnh thổ giữa hai tôn giáo:
Từ thế kỷ thứ nhất đến thế kỷ thứ VI, toàn vùng Bắc Phi và Trung Đông thuộc về lãnh thổ của các giáo phái Kitô. Nhưng đến đầu thế kỷ thứ VII, đạo Hồi xuất hiện và bành trướng với tốc độ vũ bão chưa từng thấy. Chỉ trong vòng 10 năm kể từ khi Mohammad qua đời, quân Hồi đã chiếm trọn bán đảo Ả Rập, chiếm các nước I-rắc, Syria, Palestine, Ai Cập và phía tây của nước Iran. Hai năm sau, quân Hồi chiếm Bắc Phi, Carthage và Hy Lạp.
Qua đầu thế kỷ VIII (711 - 716) quân Hồi dám đánh chiếm một nước Âu Châu nổi tiếng sùng đạo Công Giáo, đó là nước Tây Ban Nha. Trong thời gian đó, kị binh Hồi Giáo chiếm trọn Ba Tư (Iran) và từ đây xuất quân chiếm hết các nước Trung Á ở phía Nam nước Nga, chiếm trọn vùng Bắc Ấn (tức Pakistan và Afganistan ngày nay) đánh qua biên giới Trung Quốc và đụng trận với quân nhà Đường trên sông Talas năm 751). Kitô giáo bị mất rất nhiều đất và đồng thời cũng mất rất nhiều tín đồ. Tuy nhiên, trong thời gian đó đế quốc La Mã và Kitô bị lâm vào tình trạng chia rẽ và suy yếu nên không dám thực hiện một hành động trả đũa nào cả.
Trong thời gian từ nửa đầu thế kỷ VIII cho đến đầu thế kỷ X, đoàn hành hương của những người Kitô giáo về miền đất thánh Giêrusalem trở nên thịnh hành hơn. Thời gian này, người Thổ Seljuk Hồi giáo không cố ý ngăn cản những đoàn hành hương, nhưng họ thu rất nhiều loại thuế và phí. Chính điều đó đã làm manh nha sự mâu thuẫn giữa hai giáo phái.
Đến đầu thế kỷ XI, Kitô giáo chia thành hai giáo phái với hai giáo đô thù nghịch nhau. Đó là Công Giáo La Mã đóng đô tại Vaticăn và Giáo Hội Chính Thống Giáo Đông Phương đóng đô tại Bidantium, (còn được gọi là Côngxtăngngtinôplơ tức Istambul, thủ đô của Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay). Năm 1091, quân Hồi tấn công Bidantimun. Hoàng đế Alexius Comnenus đứng đầu Giáo Hội Chính Thống Giáo tuy không ưa Công Giáo nhưng cũng đành phải gửi văn thư chính thức yêu cầu giáo hoàng La Mã đem quân đến cứu giúp. Vaticăn lúc đó muốn giúp Bidantium thì ít nhưng điều quan tâm hàng đầu là tái chiếm thánh địa Giêrusalem để giáo dân toàn Âu Châu được tự do đến đó hành hương.
Mối thù lớn nhất của dân Công Giáo Âu Châu đối với đạo Hồi là trong thời gian chiếm đóng Giêrusalem, quân Hồi đã triệt phá Nhà Thờ Kính Mộ Chúa. Tội triệt phá nhà thờ Mộ Chúa trở thành lý do chính cho cuộc thánh chiến trả thù của Công Giáo. Lý do thứ hai được nêu lên là vụ người Hồi Giáo hành hạ những người Công Giáo Âu Châu đi hành hương ở Giêrusalem năm 1076. Những người hành hương sống sót trở về Âu Châu đã kể nhiều chuyện về sự ngược đãi của người Hồi khiến cho dân Âu Châu rất phẫn nộ.
Tu sĩ Pie Lecmít là người hết sức cuồng nhiệt vận động quần chúng tín đồ Công Giáo ở các nước Âu Châu tham gia cuộc thánh chiến chống Hồi Giáo. Các giáo dân Âu Châu vào thời đó đa số là những nông dân thất học và cuồng tín, nhất là giới thanh thiếu niên, trong số đó có rất nhiều trẻ vị thành niên đã mù quáng ghi tên tham gia vào đoàn quân chữ thập. Lịch sử Âu Châu đã gọi đoàn quân chữ thập này là "Đoàn quân Nông Dân" hoặc "Đoàn quân con nít".
Vào thời đó, Âu Châu đang ở trong thời đại bóng tối tinh thần, nên từ vua tới dân, từ các tu sĩ đến các bổn đạo, tất cả đều không có hiểu biết nào về Hồi Giáo, không có một chút kiến thức nào về tình hình chính trị xã hội và địa thế của các nước phương Đông. Sự thiển cận về kiến thức và tinh thần cuồng tín tôn giáo đã mau chóng biến việc tái chiếm Giêrusalem khỏi tay quân Hồi thành một khát vọng thiêng liêng vô cùng cuồng nhiệt. Chẳng mấy chốc đã có hàng trăm ngàn nông dân ghi tên, trong số đó có ít nhất là 60.000 trẻ vị thành niên.
Thứ ba, giai cấp phong kiến, quý tộc tăng lữ Tây Âu muốn mở đường sang phương Đông: nhằm mục đích đi tìm kiếm hương liệu và vàng bạc để phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt của hoàng cung và cuộc sống xa hoa của triều đình. Và họ còn có mục đích chiếm giữ những vùng đất mới để mở mang lãnh thổ. Cùng với đó là quá trình mở rộng sự bành trướng của phương Tây đối với các quốc gia Địa Trung Hải.
Mục đích của những người Công giáo muốn tiến công sang phía Đông cũng là để chống lại sự bành trướng ngày càng lấn át sang phía Tây của quân Hồi giáo. Đến nửa sau thế kỷ XI, đế quốc Bidantium (đế quốc Đông La Mã) chỉ còn lại vài vùng đất ở châu Âu. Lúc này nguy cơ người Hồi giáo tràn sang phía Tây đã hiện hữu đối với người Kitô giáo. Đặc biệt là sau khi quân đôi Seljuk đánh bại quân Bidantium trong trận Manzikert năm 1071 và bắt được cả hoàng đế Ronanus IV thì con đường tiến về Côngxtăngtinôplơ đã được khai thông.
Để giành lại những vùng đất đã mất ở Tiểu Á, hoàng đế Bidantium đã kêu gọi sự giúp đỡ từ phía Tây, tức giáo hội Rôma với những thỏa thuận là họ hứa sẽ xóa bỏ sự phân ly giữa Chính thống giáo Đông phương với Công giáo La Mã.
Do đó, ngày 27 – 11 – 1095, tại Hội nghị giám mục Giáo hoàng Urban II (tại vị 1088 – 1099) đã kêu gọi các hiệp sĩ, hoàng tử phương Tây và tín đồ Kitô giáo đến giúp đỡ tín hữu Kitô giáo phương Đông. Đồng thời giành lại những vùng đất Thánh đã mất. Đây cũng là một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến những cuộc thánh chiến chỉ vì quyền lợi của giáo hội.
Thứ tư, nhằm đả phá và chống lại ngoại giáo hay những người có tư tưởng chống lại Công giáo:
Ngoài những nguyên nhân trên, lý do dẫn đến các cuộc chiến tranh Thập tự đó là âm mưu của Giáo hội La Mã nhằm chống lại ngoại giáo hay những người có tư tưởng chống đối Kitô giáo. Ngoài ra họ còn muốn đả phá vào những người bị khai trừ giáo tịch. Giáo hoàng Rôma còn muốn gây ảnh hưởng của giáo phái ra bên ngoài để từ đó áp đặt những giá trị, những nguyên tắc của đạo Kitô, nhằm mang lại những lợi ích cho bọn tăng lữ, quí tộc phong kiến Tây Âu với chính sách nô dịch và đồng hóa tôn giáo và những dân tộc ngoại vi. Và vấn đế quan trọng hơn, trong đó mưu đồ về sự chứng minh cho đạo Kitô giáo là một giáo phái lớn và có ảnh hưởng lớn đến đời sống con người. Một mặt khác, Kitô giáo muốn xây dựng giáo phái của mình trở thành một tôn giáo lớn để làm đối trọng với Hồi giáo, cho thế giới thấy rõ sức mạnh của Kitô giáo với những quyền uy mà con người không thể chối cãi được.
Như vậy, với những nhân tố khách quan và chủ quan thời kỳ này đã hội tụ ở châu Âu đầy đủ những điều kiện và những mâu thuẫn. Do đó, việc dẫn đến những cuộc chiến tranh tôn giáo là không thể tránh khỏi, bời vì lúc này những mâu thuẫn nội bộ và bên ngoài đã tập trung đến mức gay gắt nhất và cần phải được giải quyết.
III. Động cơ của những cuộc chiến tranh Thập tự chinh
Thực chất của những cuộc Thập tự chinh là những cuộc chiến tranh giữa các tôn giáo. Tuy nhiên, với những cuộc chiến đẫm máu thì bên trong nó còn có những động cơ kinh tế, chính trị, xã hội,….
Động cơ tôn giáo: việc thánh chiến để bảo vệ và lấy lại những vùng đất của người Kitô giáo được hậu thuẫn bởi thay đổi quan trọng trong phong trào cải cách Giáo hội đang diễn ra ở Tây Âu với mục tiêu thỏa mãn những lợi ích cùng với chế độ phong kiến, tức là muốn gắn chặt quyền lợi giữa giáo hội với phong kiến bằng việc phong kiến lấy Kitô giáo làm hệ tư tưởng như là công cụ để thống trị xã hội.
Trước khi Giáo hoàngUrban II phát ra lời kêu gọi, quan niệm Chúa sẽ thưởng công cho những ai chiến đấu vì chính nghĩa đã rất thịnh hành. Công cuộc cải cách của Giáo hội đã dẫn đến một thay đổi quan trọng: chính nghĩa không chỉ là chịu đựng tội lỗi trong thế giới mà phải là cố gắng chỉnh sửa để không thể gây ra nhiều tội lỗi. Vì thế, các đạo quân Thập tự chinh là tiêu biểu cho tinh thần ấy trong giai đoạn Giáo hội đang cải tổ mạnh mẽ để thích ứng với thời đại và sự tồn tại của chính mình.
Động cơ kinh tế, chính trị: những cuộc thập tự chinh diễn ra trong thời kỳ mà dân số châu Âu phát triển mạnh mẽ và trên khía cạnh này nó có động cơ tương tự như cuộc tấn công của người Đức vào phương Đông cũng như cuộc xâm chiếm của người Tây Ban Nha. Những cuộc thập tự chinh nhằm mục đích chiếm giữ những vùng đất mới để mở rộng sự bành trướng của phương Tây với các quốc gia Địa Trung Hải. Tuy nhiên, Thập tự chinh khác với những cuộc tấn công, xâm chiếm của người Đức và người Tây Ban Nha ở chỗ, nó chủ yếu dành cho tầng lớp hiệp sĩ và nông dân du cư ở Palestine.
Động cơ xã hội: tầng lớp hiệp sĩ là tầng lớp với sự tăng trưởng nhanh chóng trong dân số châu Âu trong giai đoạn này. Họ được đào tạo, huấn luyện để tiến hành chiến tranh và trong bối cảnh dân số phát triển mạnh mẽ, trong các cuộc xung đột để giành đất đai đã xảy ra. Giáo hoàng Urban II đã nói với các hiệp sĩ của nước Pháp rằng: "Đất đai mà các bạn cư ngụ thì quá hẹp đối với một dân số lớn; nó cũng không thừa của cải; và nó khó lòng cung cấp đủ thực phẩm cho những người trồng trọt trên nó. Đây là lý do vì sao các bạn phải tàn sát và tàn phá lẫn nhau”.
Như vậy, họ được khuyến khích đi viễn chinh để giành đất và trên một góc độ nào đó các cuộc Thập tự chi