Xu hướng toàn cầu hóa đang diễn ra hết sức mạnh mẽ trên toàn thế giới trong hầu
hết mọi lĩnh vực, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế. Sự phát triển nhanh chóng của kinh tế
từng quốc gia khiến cho mọi nguồn lực trong nước bị tận dụng một cách triệt để và sự liên
kết giữa các quốc gia để tối ưu hóa hiệu quả của các nguồn lực này cho phát triển kinh tế là
một xu hướng tất yếu. Nhu cầu tìm kiếm các thị trường mới nhằm mục đích mở rộng và
nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực khiến cho các luồng vốn quốc tế liên tục được chu
chuy ển qua lại từ quốc gia này sang quốc gia khác, từ châu lục này sang châu lục khác. Đi
cùng với xu hướng toàn cầu hóa và chu chuy ển vốn quốc tế được diễn ra sôi động trong
nửa cuối của thế kỷ 20 và những năm đầu thế kỷ 21, các cầu nối cho các nguồn lực này là
các ngân hàng quốc tế cũng liên tục được ra đời và phát triển. Với đặc trưng riêng có là có
hệ thống mạng lưới trải rộng tại nhiều quốc gia trên thế giới, hoạt động cung cấp hàng hóa
dịch vụ cho nhiều nền kinh tế khác nhau, trong nhiều nền văn hóa khác nhau và quan trọng
nhất là dưới nhiều thể chế chính trị khác nhau nên các công ty đa quốc gia nói chung và
ngân hàng quốc tế nói riêng thường phải đối mặt với rất nhiều rủi ro mang tính chất quốc
gia như nợ công chính phủ, rủi ro về tỷ giá, rủi ro về lạm phát, rủi ro về bất ổn chính trị, rủi
ro về bạo loạn hay thiên tai. của nước sở tại. Do đó, nhu cầu về hệ thống quản trị rủi ro
của các công ty đa quốc gia nói chung và ngân hàng quốc tế nói riêng trong giai đoạn hiện
nay là hết sức bức thiết và vấn đề rủi ro quốc gia là vấn đề mà các tổ chức này hết sức quan
tâm, bỏ nhiều công sức cũng như tiền bạc để đánh giá nhân tố này trước khi quyết định
tham gia vào thị trường một quốc gia.
36 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 4424 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phân tích rủi ro quốc gia, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHÂN TÍCH RỦI RO QUỐC GIA PGS. TS TRƯƠNG THỊ HỒNG
NH ĐÊM 1 – NHÓM 5.2 1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
NGÂN HÀNG QUỐC TẾ
ĐỀ TÀI
PHÂN TÍCH RỦI RO QUỐC GIA
GVHD: PGS.TS TRƯƠNG THỊ HỒNG
LỚP: NH Đêm 1 – Khóa 22 –Nhóm 5.2
Danh sách nhóm:
Nguyễn Hoàng Anh
Nguyễn Thị Ngọc Anh
Đặng Thị Thu Hương
Phạm Quốc Kỳ
Thái Kim Loan
Nguyễn Bùi Thiên Lý
TP. Hồ Chí Minh, tháng 03 năm 2014
PHÂN TÍCH RỦI RO QUỐC GIA PGS. TS TRƯƠNG THỊ HỒNG
NH ĐÊM 1 – NHÓM 5.2 2
LỜI NÓI ĐẦU
Xu hướng toàn cầu hóa đang diễn ra hết sức mạnh mẽ trên toàn thế giới trong hầu
hết mọi lĩnh vực, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế. Sự phát triển nhanh chóng của kinh tế
từng quốc gia khiến cho mọi nguồn lực trong nước bị tận dụng một cách triệt để và sự liên
kết giữa các quốc gia để tối ưu hóa hiệu quả của các nguồn lực này cho phát triển kinh tế là
một xu hướng tất yếu. Nhu cầu tìm kiếm các thị trường mới nhằm mục đích mở rộng và
nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực khiến cho các luồng vốn quốc tế liên tục được chu
chuyển qua lại từ quốc gia này sang quốc gia khác, từ châu lục này sang châu lục khác. Đi
cùng với xu hướng toàn cầu hóa và chu chuyển vốn quốc tế được diễn ra sôi động trong
nửa cuối của thế kỷ 20 và những năm đầu thế kỷ 21, các cầu nối cho các nguồn lực này là
các ngân hàng quốc tế cũng liên tục được ra đời và phát triển. Với đặc trưng riêng có là có
hệ thống mạng lưới trải rộng tại nhiều quốc gia trên thế giới, hoạt động cung cấp hàng hóa
dịch vụ cho nhiều nền kinh tế khác nhau, trong nhiều nền văn hóa khác nhau và quan trọng
nhất là dưới nhiều thể chế chính trị khác nhau nên các công ty đa quốc gia nói chung và
ngân hàng quốc tế nói riêng thường phải đối mặt với rất nhiều rủi ro mang tính chất quốc
gia như nợ công chính phủ, rủi ro về tỷ giá, rủi ro về lạm phát, rủi ro về bất ổn chính trị, rủi
ro về bạo loạn hay thiên tai... của nước sở tại. Do đó, nhu cầu về hệ thống quản trị rủi ro
của các công ty đa quốc gia nói chung và ngân hàng quốc tế nói riêng trong giai đoạn hiện
nay là hết sức bức thiết và vấn đề rủi ro quốc gia là vấn đề mà các tổ chức này hết sức quan
tâm, bỏ nhiều công sức cũng như tiền bạc để đánh giá nhân tố này trước khi quyết định
tham gia vào thị trường một quốc gia.
Việt nam chúng ta cũng đang trong quá trình hội nhập mạnh mẽ, các hàng rào thuế
quan dần được gỡ bỏ, các chính sách thu hút đầu tư hết sức tích cực của chính phủ trong
thời gian qua khiến dòng vốn đầu tư nước ngoài liên tục được đổ vào. Dòng vốn này góp
phần rất lớn trong sự tăng trưởng vượt bậc của nền kinh tế Việt Nam suốt giai đoạn từ
những năm 1990 trở lại đây. Tuy nhiên, dòng vốn quốc tế đang ngày càng trở nên khó tính
trong việc chọn lựa bến đỗ mà rủi ro quốc gia là một nhân tố hết sức quan trọng được các
tổ chức quốc tế hết sức cân nhắc. Hiện tại cũng đã có một số công trình nghiên cứu về vấn
đề rủi ro quốc gia của một số tác giả trên thế giới, tuy nhiên ở Việt Nam vẫn chưa có nhiều
nghiên cứu chính thức về vấn đề này do đó nhóm 5.2 lớp Ngân hàng đêm 1 xin thực hiện
một nghiên cứu sơ bộ về "Phân tích ảnh hưởng của rủi ro quốc gia đối với hoạt động của
ngân hàng quốc tế" nhằm mục đích làm rõ hơn về khái niệm rủi ro quốc gia và những tác
PHÂN TÍCH RỦI RO QUỐC GIA PGS. TS TRƯƠNG THỊ HỒNG
NH ĐÊM 1 – NHÓM 5.2 3
động của loại rủi ro này đối với các công ty đa quốc gia nói chung và ngân hàng quốc tế
nói riêng.
Đề tài tập trung nghiên cứu các vấn đề trọng tâm như sau:
- Lý thuyết về rủi ro quốc gia
- Những ảnh hưởng của rủi ro quốc gia đối với hoạt động của ngân hàng quốc tế
- Thực tế về ảnh hưởng của những rủi ro này đối với hoạt động của ngân hàng quốc tế
trong thời gian qua.
- Một số khía cạnh thực tế về rủi ro quốc gia ở Việt Nam giai đoạn hiện nay
- Đề xuất một số giải pháp nhằm hạn chế rủi ro quốc gia và gia tăng thu hút đầu tư cũng
như hoạt động của các tổ chức đa quốc gia nói chung và ngân hàng quốc tế nói riêng
tại Việt Nam.
PHÂN TÍCH RỦI RO QUỐC GIA PGS. TS TRƯƠNG THỊ HỒNG
NH ĐÊM 1 – NHÓM 5.2 4
CHƯƠNG 1
LÝ THUYẾT VỀ RỦI RO QUỐC GIA
1. Khái niệm về rủi ro quốc gia
Đối với bất kỳ hoạt động đầu tư nào, vấn đề rủi ro luôn được đề cập đến khi đánh
giá tính hiệu quả của hoạt động đầu tư đó. Ngày nay, trong quá trình toàn cầu hóa, sự chu
chuyển vốn giữa các quốc gia càng diễn ra mạnh mẽ hơn. Vấn đề xem xét đánh giá mức độ
rủi ro của từng quốc gia được đặt ra cũng trở nên phổ biến như việc đánh giá rủi ro của bất
kỳ hoạt động đầu tư nào đó.
Rủi ro quốc gia đề cập đến rủi ro mà một quốc gia sẽ không thể thực hiện, giữ đúng
được lời hứa đối với các cam kết tài chính của mình. Khi mà một quốc gia không hoàn
thành được nhiệm vụ đề ra thì nó sẽ gây hại đến hoạt động của tất cả các công cụ tài chính
khác trong quốc gia đó cũng như đến những quốc gia mà nó có quan hệ.
Rủi ro quốc gia áp dụng cho cổ phiếu, trái phiếu, quỹ tương hỗ, quyền chọn và hợp
đồng tương lai mà được phát hành trong một quốc gia cụ thể. Loại rủi ro này hầu hết
thường được thấy tại các thị trường mới nổi hay các quốc gia bị thâm hụt cán cân thương
mại nghiêm trọng.
Rủi ro quốc gia còn ám chỉ đến khả năng có thể xảy ra khi mà một chính phủ hay
người đi vay từ một quốc gia cụ thể có thể không có khả năng hay không sẵn sàng để thực
hiện đầy đủ các nghĩa vụ nợ của họ đối với một hay nhiều người cho vay nước ngoài hay
nhà đầu tư nước ngoài.
Rủi ro quốc gia theo Bourke (1990) là khả năng của một quốc gia để tạo ra đủ dự trữ
ngoại hối để đáp ứng cho những nghĩa vụ nợ bên ngoài. Những yếu tố quan trọng của rủi
ro quốc gia là tình trạng hoạt động mậu dịch (xuất khẩu trừ nhập khẩu chia cho GNP) và
mức độ nợ nước ngoài. Roy (1994) đã bổ sung định nghĩa này và mô tả rủi ro nợ của chính
phủ. Đây là những khả năng tiềm tàng đối với những mất mát tài chính mà có nguồn gốc từ
các sự kiện kinh tế hay chính trị. Rủi ro này có thể nảy sinh từ việc nắm giữ những trái
quyền công hay tư nhân. Rủi ro quốc gia là một định nghĩa rộng hơn của rủi ro tín dụng và
cho vay xuyên biên giới. Nếu rủi ro này được xem xét từ khía cạnh một danh mục cho vay
thì nó bao gồm cả các yếu tố hệ thống (rủi ro không thể đa dạng hóa) và các yếu tố phi hệ
thống (rủi ro có thể đa dạng hóa).
Một quan điểm chủ yếu của lý thuyết tài chính là rủi ro tổng hợp được cấu thành từ
rủi ro hệ thống và rủi ro phi hệ thống. Rủi ro hệ thống cũng có thể xem như là rủi ro không
PHÂN TÍCH RỦI RO QUỐC GIA PGS. TS TRƯƠNG THỊ HỒNG
NH ĐÊM 1 – NHÓM 5.2 5
thể tránh được hay rủi ro không thể đa dang hóa. Rủi ro phi hệ thống cùng một lúc có thể
được mô tả như là rủi ro chính trị và rủi ro có thể đa dạng hóa. Rủi ro này là có thể tránh
được nhưng nó làm giảm tỷ suất sinh lợi và rủi ro này có thể tiến tới 0 khi một lượng các
chứng khoán (các tài sản vay mượn quốc tế) lựa chọn ngẫu nhiên được thêm vào danh
mục. Rủi ro phi hệ thống có thể được giảm thiểu một cách đáng kể với một lượng vừa phải
các chứng khoán được đa dạng hóa.
Rủi ro quốc gia là rủi ro mà các điều kiện và các sự kiện kinh tế, xã hội, chính trị ở
một quốc gia sẽ ảnh hưởng bất lợi đến lợi ích của một quá trình đầu tư. Rủi ro quốc gia
cũng bao gồm các khả năng quốc hữu hóa hay sung công tài sản, sự từ chối trả nợ nước
ngoài của chính phủ, việc kiểm soát ngoại hối, sự đánh giá thấp tiền tệ hay mất giá, phá giá
tiền tệ.
Thuật ngữ rủi ro quốc gia thường được sử dụng gắn với đầu tư xuyên biên giới và
được phân tích từ viễn cảnh của nhà đầu tư nước ngoài. Rủi ro quốc gia là rủi ro đơn nhất
mà nhà đầu tư nước ngoài phải đối mặt khi đầu tư vào một quốc gia khi so sánh đầu tư vào
quốc gia khác. Rủi ro quốc gia là một phần đơn lẻ của rủi ro đầu tư, được gây ra trong một
quốc gia. Việc hiểu về thuật ngữ rủi ro quốc gia đến mức độ nào là phụ thuộc vào dạng đầu
tư. Có 3 dạng đầu tư nước ngoài phổ biến: cho vay, đầu tư vốn cổ phần, và đầu tư trực tiếp
FDI. Cho vay bao gồm cho vay trực tiếp, hoặc mua trái phiếu của chính phủ hay trái phiếu
các công ty tư nhân ở quốc gia đó. Vốn cổ phần bao gồm đầu tư vào những công ty được
niêm yết trên thị trường chứng khoán hay không được niêm yết trên thị trường chứng
khoán ở quốc gia đó. Đầu tư trực tiếp bao gồm việc đầu tư vào xí nghiệp và tài nguyên như
hầm mỏ hay giếng dầu và các tài sản thực khác. Liên quan đến việc cho vay, người đi vay
có thể phân loại thành hai nhóm: chính phủ vay và vay có bảo đảm của chính phủ, và vay
từ các công ty tư nhân không có bảo đảm. Khi thuật ngữ rủi ro quốc gia được sử dụng
trong cho vay xuyên biên giới và người đi vay là chính phủ thì rủi ro tín dụng được biết
đến như là rủi ro thể chế (sovereign risk) hay rủi ro tín dụng quốc gia. Rủi ro tín dụng là rủi
ro mà người đi vay sẽ không hoàn thành đầy đủ các nghĩa vụ trong hợp đồng vay mượn
dẫn đến những mất mát cho người cung cấp tín dụng hay người cho vay. Rủi ro quốc gia
đối với nhà đầu tư bao gồm cả khả năng “tăng giá” tiềm tàng và rủi ro “giảm giá” và có thể
đo lường bằng phương sai của thu nhập. Trong hầu hết các trường hợp khả năng các sự
kiện tiêu cực sẽ làm tăng giá trị đầu tư là rất thấp. Do đó rủi ro quốc gia có thể xem như là
những tác động mang tính quốc gia đến thu nhập từ đầu tư.
2. Phân loại rủi ro quốc gia
PHÂN TÍCH RỦI RO QUỐC GIA PGS. TS TRƯƠNG THỊ HỒNG
NH ĐÊM 1 – NHÓM 5.2 6
Có nhiều quan niệm trong việc phân loại rủi ro quốc gia, trong đó có những quan
niệm chủ chốt như sau:
a. Quan điểm thứ 1:
Một phân loại tương đối hợp lý đối với rủi ro quốc gia là rủi ro kinh tế, rủi ro thương
mại và rủi ro chính trị.
- Rủi ro kinh tế: Là các rủi ro xảy ra khi có sự thay đổi của các nhân tố kinh tế vĩ
mô của một quốc gia điển hình như lãi suất hay tỉ giá hối đoái gây ảnh hưởng tới lợi
nhuận của đầu tư.
- Rủi ro thương mại: Rủi ro liên quan đến một đầu tư xác định, chẳng hạn như rủi
ro liên quan đến việc hoàn thành đầy đủ các hợp đồng với các công ty tư nhân hay đối
tác địa phương.
- Rủi ro chính trị: Đối với nhiều quốc gia là loại quan trọng nhất. Một quốc gia là
một thực thể chính trị với những luật lệ và quy định áp dụng đối với đầu tư. Thêm vào
đó những điều luật bảo vệ quyền đối với tài sản cá nhân, sự sẵn sàng và khả năng của
một chính phủ thay đổi những luật lệ và quy định này sẽ tạo thành một nguồn rủi ro đối
với đầu tư. Rủi ro chính trị cũng có thể gây ra bởi hành vi của nhà nước hay các công ty
sở hữu nhà nước trên thị trường, hay trong các trường hợp nguy kịch như chiến tranh và
bạo loạn.
b. Quan điểm thứ hai:
Kiểu phân loại rủi ro quốc gia thứ 2 là phân loại rủi ro quốc gia thành rủi ro chính
trị, rủi ro kinh tế, rủi ro tài chính. Đây là cách phân loại phổ biến nhất và thường được
các tổ chức xếp hạng sử dụng.
- Rủi ro chính trị: thể hiện tính ổn định về mặt chính trị của một quốc gia mà có thể
ảnh hưởng đến khả năng và thiện chí trong việc đáp ứng các nghĩa vụ tài chính của
mình. Rủi ro chính trị tăng lên từ các sự kiện như chiến tranh, xung đột nội bộ hay xung
đột bên ngoài, khủng bố… dẫn đến những thay đổi trong chính phủ. Rủi ro chính trị còn
được thể hiện thông qua những vấn đề bất ổn chính trị của quốc gia láng giềng.
- Rủi ro kinh tế: thể hiện sức mạnh hay sự yếu kém của nền kinh tế của một quốc
gia.
- Rủi ro tài chính: thể hiện khả năng của một quốc gia để đáp ứng cho việc thanh
toán các khoản tín dụng chính thức, thương mại… nước ngoài.
Rủi ro kinh tế và rủi ro tài chính phản ánh năng lực chi trả của một quốc gia đối
PHÂN TÍCH RỦI RO QUỐC GIA PGS. TS TRƯƠNG THỊ HỒNG
NH ĐÊM 1 – NHÓM 5.2 7
với các khoản nợ của mình, trong khi đó rủi ro chính trị lại phản ánh thiện chí trả nợ
đó.
c. Quan điểm thứ ba:
Quan điểm thứ 3 đối với việc phân loại rủi ro quốc gia hướng cụ thể vào từng loại
rủi ro. Các nhà phân tích có khuynh hướng phân loại rủi ro quốc gia vào 6 loại chính: rủi
ro kinh tế, rủi ro chuyển giao, rủi ro tỷ giá hối đoái, rủi ro vị trí hay vùng lân cận, rủi ro
thể chế, rủi ro chính trị. Nhiều loại trong số các rủi ro này chồng chéo lẫn nhau, dựa trên
mối quan hệ quốc tế của nền kinh tế trong nước với hệ thống chính trị và cộng đồng
quốc tế. Mặc dù nhiều nhà phân tích rủi ro có thể không đồng ý hoàn toàn với cách phân
loại này nhưng các khái niệm này có khuynh hướng thể hiện rủi ro quốc gia.
- Rủi ro kinh tế: một sự thay đổi đáng kể trong cơ cấu kinh tế hay tỷ lệ tăng trưởng
mà tạo ra một thay đổi chủ yếu trong thu nhập kỳ vọng của một đầu tư. Rủi ro này phát
sinh từ khả năng tiềm tàng của những thay đổi bất lợi trong mục tiêu của các chính sách
kinh tế chủ yếu (chính sách tài khoá, chính sách quốc tế, chính sách phân bổ của cải hay
chính sách sản xuất) hay phát sinh từ một thay đổi đáng kể trong lợi thế so sánh của
quốc gia (như cạn kiệt tài nguyên, suy thoái công nghiệp, dịch chuyển dân cư).
- Rủi ro chuyển giao: rủi ro phát sinh từ một quyết định bởi chính phủ một quốc
gia về việc hạn chế sự di chuyển của dòng vốn nước ngoài. Những hạn chế này có thể là:
gây khó khăn cho việc chuyển lợi nhuận, cổ tức, hay vốn về nước. Rủi ro chuyển giao
cũng có thể hiểu là khả năng mà một tài sản không thể chuyển đổi sang một đồng tiền
thanh toán (đồng tiền có khả năng chuyển đổi) bởi vì quốc gia vay nợ thiếu ngoại hối
cần thiết hay kiềm chế khả năng này.
- Rủi ro tỷ giá: một sự biến động bất lợi không mong đợi trong tỷ giá hối đoái.
Trong ngắn hạn, rủi ro đối với nhiều đồng tiền có thể được loại bỏ ở một chi phí có thể
chấp nhận được thông qua các cơ chế phòng ngừa khác nhau và các hợp đồng tương lai.
Một chính sách tỷ giá hối đoái cố định của một quốc gia có thể giúp cô lập rủi ro rủi ro
tỷ giá. Kiềm chế mức độ thả nổi tỷ giá cùng với việc chính phủ cố gắng kiểm soát đồng
tiền trong một phạm vi chật hẹp, có khuynh hướng gây ra rủi ro cao hơn là hệ thống tỷ
giá cố định hay tỷ giá chuẩn tiền tệ. Hệ thống tỷ giá hối đoái thả nổi thông thường duy
trì rủi ro thấp hơn đối với việc gây ra một sự dịch chuyển tỷ giá bất lợi không mong đợi.
Mức độ đánh giá cao hay thấp của một đồng tiền cũng có thể giúp cô lập rủi ro tỷ giá hối
đoái.
PHÂN TÍCH RỦI RO QUỐC GIA PGS. TS TRƯƠNG THỊ HỒNG
NH ĐÊM 1 – NHÓM 5.2 8
- Rủi ro vị trí hay rủi ro vùng lân cận: bao hàm các hiệu ứng dây chuyền gây nên
bởi những khó khăn trong một khu vực, bởi một nước đối tác của một quốc gia, hay
trong các quốc gia với những tính chất tương tự.
- Rủi ro thể chế: liên quan đến việc hoặc một chính phủ sẽ không sẵn lòng hay
không thể đáp ứng được các nghĩa vụ nợ, hoặc là có thể bội ước các cam đoan đối với
các khoản vay nợ.
- Rủi ro chính trị: liên quan đến một thay đổi trong thể chế chính trị xuất phát từ
một thay đổi trong quyền lực kiểm soát chính phủ, cơ cấu xã hội, hay nhân tố phi kinh tế
khác. Loại rủi ro này bao hàm khả năng tiềm tàng đối với những xung đột bên trong và
bên ngoài, rủi ro sung công. Đánh giá rủi ro này đòi hỏi phân tích nhiều nhân tố, bao
gồm các mối quan hệ của các đảng phái khác nhau trong một quốc gia, quá trình ra quyết
định trong chính phủ, và lịch sử của quốc gia đó.
3. Các nhân tố tác động đến rủi ro quốc gia
a. Các nhân tố kinh tế vĩ mô
Nhân tố đầu tiên trong các nhân tố này là quy mô và cấu trúc của nợ nước ngoài trong
mối quan hệ với nền kinh tế của quốc gia đó, bao gồm:
- Mức độ hiện tại của nợ ngắn hạn và khả năng tiềm tàng đưa đến một cuộc khủng
hoảng thanh khoản.
- Quy mô nợ nước ngoài của khu vực công, khả năng của chính phủ để tạo ra đủ
thu nhập, từ thuế và các nguồn khác, để đáp ứng nghĩa vụ nợ.
b. Điều kiện và tính dễ tổn thương của tài khoản vãng lai của quốc gia cũng là một
nhân tố quan trọng, bao gồm:
- Mức dự trữ quốc tế.
- Mức dự trữ nhập khẩu được cung cấp bởi dự trữ quốc tế của quốc gia.
- Tính quan trọng của hàng hóa xuất khẩu với tư cách là một nguồn thu nhập, sự hiện
hữu của bất kỳ cơ chế ổn định giá, và tính dễ tổn thương của quốc gia đối với một sự sụt
giảm trong thị trường xuất khẩu hay trong giá cả của một hàng hóa xuất khẩu.
- Khả năng tiềm tàng đối với những biến động đột ngột trong tỷ giá hối đoái và tác
động lên giá trị xuất khẩu và nhập khẩu của quốc gia.
c. Vai trò của các nguồn vốn nước ngoài trong việc đáp ứng nhu cầu tài trợ của
quốc gia là một sự suy xét quan trọng khác trong việc phân tích rủi ro quốc gia,
PHÂN TÍCH RỦI RO QUỐC GIA PGS. TS TRƯƠNG THỊ HỒNG
NH ĐÊM 1 – NHÓM 5.2 9
bao gồm:
- Việc tiếp cận các thị trường tài chính quốc tế của quốc gia và những ảnh hưởng tiềm
tàng của một tổn thất trong tính thanh khoản của thị trường.
- Mối quan hệ của quốc gia với các nhà cấp tín dụng của khu vực tư nhân, bao gồm
sự tồn tại của những cam kết vay mượn và thái độ của các chủ ngân hàng đối với quan hệ
trong việc cho vay thêm đối với các nhà đi vay trong quốc gia đó.
- Vị thế hiện thời của quốc gia đối với các nhà cấp tín dụng đa phương và chính thức,
bao gồm khả năng của quốc gia để có đủ tư cách và chịu đựng được những chương trình
điều chỉnh kinh tế của IMF hay các chương trình phù hợp khác.
- Xu hướng trong đầu tư nước ngoài và khả năng của quốc gia trong việc thu hút
Những cơ hội của tiến trình tư nhân hóa của các thực thể thuộc sở hữu nhà nước.
d. Các yếu tố thuộc môi trường xã hội, chính trị và pháp luật
- Tiềm lực tự nhiên và nguồn nhân lực của quốc gia.
- Thiện chí và năng lực của chính phủ để nhận biết những vấn đề kinh tế và vấn đề
ngân sách và hành động để sữa chữa bổ sung thích hợp.
- Mức độ tác động của tư tưởng bè phái, chính trị hay xung đột vũ trang đến chính
phủ của quốc gia đó.
- Bất cứ xu hướng nào về việc đánh thuế giá cả, lãi suất, hay kiểm soát ngoại hối.
- Mức độ mà hệ thống pháp luật có thể bảo vệ một cách công bằng lợi ích của các nhà
tín dụng nước ngoài và nhà đầu tư.
- Các chính sách khuyến khích của chính phủ trong việc quản lý hiệu quả rủi ro của
các tổ chức định chế.
- Mức độ gia nhập của quốc gia vào hệ thống pháp luật và các chuẩn mực kinh doanh
quốc tế.
e. Một số các nhân tố kinh tế vĩ mô quan trọng khác, bao gồm:
- Mức độ mà nền kinh tế của quốc gia có thể bị tác động bất lợi thông qua sự lây lan
các vấn đề khó khăn từ các quốc gia khác.
- Quy mô và tình hình của hệ thống ngân hàng của quốc gia, bao gồm hệ thống giám
sát hoạt động ngân hàng và bất kỳ gánh nặng tiềm tàng của các khoản nợ bất ngờ mà một
hệ thống ngân hàng yếu kém có thể gây ra những hậu quả nghiêm trọng đối với chính phủ.
- Quy mô của vay mượn trực tiếp từ chính phủ hay sự can thiệp khác của chính phủ
PHÂN TÍCH RỦI RO QUỐC GIA PGS. TS TRƯƠNG THỊ HỒNG
NH ĐÊM 1 – NHÓM 5.2 10
có thể tác động bất lợi đến tính hoàn hảo của hệ thống ngân hàng, hay cơ cấu và khả năng
cạnh tranh của các ngành công nghiệp hay các công ty được ưu đãi.
- Mức độ tác động mà các điều kiện kinh tế vĩ mô có thể gây ra bất lợi đối với rủi ro
tín dụng của các đối tác của nhà đầu tư trong quốc gia đó.
- Viễn cảnh kinh tế của bất kỳ ngành công nghiệp mục tiêu của quốc gia.
- Đầu tư nước ngoài trong tương lai.
4. Rủi ro quốc gia và hoạt động của ngân hàng quốc tế
Cũng là một loại công ty đa quốc gia (TNCs), ngân hàng quốc tế mang đầy đủ các đặc
trưng nổi bật của một TNCs như:
- Đa dạng hoá (Diversification). Để thoả mãn nhu cầu đa dạng của thị trường mục
tiêu nước ngoài, ngân hàng quốc tế không có cách lựa chọn tích cực nào khác là phải đa
dạng hoá sản phẩm, và do đó mỗi nhóm sản phẩm của công ty phải theo hướng “cá biệt
hoá” (Differentiation). Đặc trưng này là sự quán triệt nguyên lý chung “tư duy toàn cầu,
hành động địa phương” (Thinking global, Action Local) như đã nói trên để thực hiện chiến
lược cụ thể “sản phẩm toàn cầu, thị hiếu địa phương” (Global Product, Loccal Tastes).
- Tiêu chuẩn hoá (Standardization). Ngân hàng quốc tế xác định những nhu cầu, thị
hiếu giống nhau của thị trường nước ngoài khác nhau trên phạm vi địa lý rộng để hướng
vào những sản phẩm tiêu chuẩn hoá nhằm thoả mãn nhu cầu đồng nhất của số k