1. Trong mỗi quốc gia, để đảm bảo cho một nền chính trị ổn định, một nền
kinh tế phát triển và một xã hội công bằng, thì pháp luật ch ính là công cụ tối ưu có
hiệu quả nhất. Song, chỉ có lu ật pháp không thì chưa đủ, mà người áp dụng nó, thực
hiện nó mới thực sự tạo nên tính hiệu quả của nó.
- Pháp gia là trường phái triết học được ra đời tại Trung Hoa. V ới lịch sử thế
giới nói chung và lịch sử Trung Hoa nói riêng, Pháp gia của Hàn Phi Từ được coi là
trường phái triết học đầu tiên chủ trương dùng phép trị để trị nước, là những bản
chép đầu tiên về pháp luật và vị vua đầu tiên của lịch sử Trung Hoa đã áp dụng một
cách triệt để, có hiệu quả tư tưởng này. với việc trị nước của mình. Chính là Tần
Thuỷ Hoàng Đế có phép trị trong tay, Tần Thuỷ Hoàng thâu tóm lục quốc, (thống
nhất Trung Hoa), xây dựng Nhà nước tập truyền Trung ương đầu tiên trong lịch sử
Trung Quốc. Từ những thành công to lớn này, mà vai trò to lớn của pháp trị đã được
khẳng định. Bên cạnh đó ta nhận thấy nghiên cứu về pháp trị và pháp luật mang tính
th ời sự rất cao. Bởi qua bao nghìn năm phát triển, pháp luật và pháp trị không chỉ có
trong từng quốc giam mà nó còn ở trong nhiều tổ chức Quốc tế.
2. Trong tiểu luận này, thông qua việc tìm hiểu những nội dung cơ bản của
trường phái Pháp gia của Hàn Phi Tử, để nhận thấy Tần Thuỷ Hoàng đã rất th ành
công khi thực hiện sách lược pháp trị trong nghiệp trị quốc của ông. Từ đây đã đưa
Tần Thu ỷ Hoàng trở thành một bậc Đế vương trong thiên hạ, trở thành người điển
hình cho Pháp gia với “Ph áp” nghiêm, “thế” thượng và “thuật” sâu. Song bên cạnh
đó, với chính sách quốc trị hà khắc, độc đoán.
3- Để làm rõ những nội dung trên, tôi xin được đi phân tích những thành công
tiêu biểu, điển hình của Tần Thuỷ Hoàng Đế cũng như một số tội ác của ông trong 26
năm chấp chính, và bằng tổng hợp, đối chiếu. so sánh chính sách chính trị của ông
với sách lược pháp trị của Hàn Phi Tử, để làm nổi bật lên mưu lược thâm cao, trí tuệ
tuy ệt vời của Hàn Phi Tử, cũng như của Đại đế vương Tần Thu ỷ Hoàng.
4. Từ việc nghiên cứu đề tài n ày, tôi hi vọng phần nào lí giải được tầm quan
trọng của pháp luật trong việc ổn đình chính trị, và phát triển xã hội, phần nào nhận
th ấy pháp trị có vai trò vô cùng to lớn trong việc quản lý, và điều hành tốt bộ máy
Nhà nước. Đặc biệt, góp phần nghiên cứu về nguồn gốc của tư tưởng pháp gia và có
cái nhìn đúng đắn hơn về công và tội của Tần Thu ỷ Hoàng Đế.
21 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 3633 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Pháp gia và tư tưởng Pháp gia trong nghiệp trị quốc của Tần Thủy Hoàng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA ĐÔNG PHƯƠNG HỌC
------
BÁO CÁO KHOA HỌC
PHÁP GIA VÀ TƯ TƯỞNG PHÁP GIA
TRONG NGHIỆP TRỊ QUỐC CỦA TẦN
THUỶ HOÀNG
Pháp gia và tư tưởng Pháp gia trong nghiệp trị quốc của Tần Thuỷ Hoàng
1
MỤC LỤC
Trang
MỤC LỤC 1
PHẦN I : GIỚI THIỆU CHUNG 2
1. Lý do chọn đề tài 2
2. Nội dung nghiên cứu 2
3. Phương pháp nghiên cứu 2
4. Đóng góp 2
PHẦN II : NỘI DUNG 3
I. Tư tưởng Pháp gia của Hàn Phi Tử 3
I.1 Cơ sở xã hội và sự hoàn thiện của tư tưởng pháp gia trong giai
đoạn Hàn Phi Tử (280? - 233 TCN)
3
I.1.1 Cơ sở xã hội của tư tưởng Pháp gia - Hàn Phi Tử 3
I.1.2. Sự hoàn thiện của tư tưởng Pháp gia trong giai đoạn Hàn Phi Tử 4
I.2 Nội dung cơ bản của Pháp Gia - Hàn Phi Tử 4
I.2.1. Pháp 5
I.2.2 Thế 5
I.2.3. Thuật 6
II: Tư tưởng Pháp gia trong nghiệp trị quốc của Tần Thuỷ Hoàng. 8
II.1 Tần Thuỷ Hoàng Đế (246 - 209 TCN) 8
II..2 Thời đại mới với nhiều thay đổi - cần đến một quan niệm quốc
trị mới.
9
II.3 Tần Thuỷ Hoàng với triết lý Pháp gia trong nghiệp trị quốc. 10
II.3.1. Trọng tài dụng người, thâu tóm lục quốc 10
II.3.2. Xây dựng một nhà nước tập quyền trung ương 12
II.3.3 Thực hiện, củng cố chế độ trung ương tập quyền 14
PHẦN III: ĐÁNH GIÁ - KẾT LUẬN 16
TÀI LIỆU THAM KHẢO 19
Pháp gia và tư tưởng Pháp gia trong nghiệp trị quốc của Tần Thuỷ Hoàng
2
PHẦN I : GIỚI THIỆU CHUNG
1. Trong mỗi quốc gia, để đảm bảo cho một nền chính trị ổn định, một nền
kinh tế phát triển và một xã hội công bằng, thì pháp luật chính là công cụ tối ưu có
hiệu quả nhất. Song, chỉ có luật pháp không thì chưa đủ, mà người áp dụng nó, thực
hiện nó mới thực sự tạo nên tính hiệu quả của nó.
- Pháp gia là trường phái triết học được ra đời tại Trung Hoa. Với lịch sử thế
giới nói chung và lịch sử Trung Hoa nói riêng, Pháp gia của Hàn Phi Từ được coi là
trường phái triết học đầu tiên chủ trương dùng phép trị để trị nước, là những bản
chép đầu tiên về pháp luật và vị vua đầu tiên của lịch sử Trung Hoa đã áp dụng một
cách triệt để, có hiệu quả tư tưởng này. … với việc trị nước của mình. Chính là Tần
Thuỷ Hoàng Đế có phép trị trong tay, Tần Thuỷ Hoàng thâu tóm lục quốc, (thống
nhất Trung Hoa), xây dựng Nhà nước tập truyền Trung ương đầu tiên trong lịch sử
Trung Quốc. Từ những thành công to lớn này, mà vai trò to lớn của pháp trị đã được
khẳng định. Bên cạnh đó ta nhận thấy nghiên cứu về pháp trị và pháp luật mang tính
thời sự rất cao. Bởi qua bao nghìn năm phát triển, pháp luật và pháp trị không chỉ có
trong từng quốc giam mà nó còn ở trong nhiều tổ chức Quốc tế.
2. Trong tiểu luận này, thông qua việc tìm hiểu những nội dung cơ bản của
trường phái Pháp gia của Hàn Phi Tử, để nhận thấy Tần Thuỷ Hoàng đã rất thành
công khi thực hiện sách lược pháp trị trong nghiệp trị quốc của ông. Từ đây đã đưa
Tần Thuỷ Hoàng trở thành một bậc Đế vương trong thiên hạ, trở thành người điển
hình cho Pháp gia với “Pháp” nghiêm, “thế” thượng và “thuật” sâu. Song bên cạnh
đó, với chính sách quốc trị hà khắc, độc đoán.
3- Để làm rõ những nội dung trên, tôi xin được đi phân tích những thành công
tiêu biểu, điển hình của Tần Thuỷ Hoàng Đế cũng như một số tội ác của ông trong 26
năm chấp chính, và bằng tổng hợp, đối chiếu. so sánh chính sách chính trị của ông
với sách lược pháp trị của Hàn Phi Tử, để làm nổi bật lên mưu lược thâm cao, trí tuệ
tuyệt vời của Hàn Phi Tử, cũng như của Đại đế vương Tần Thuỷ Hoàng.
4. Từ việc nghiên cứu đề tài này, tôi hi vọng phần nào lí giải được tầm quan
trọng của pháp luật trong việc ổn đình chính trị, và phát triển xã hội, phần nào nhận
thấy pháp trị có vai trò vô cùng to lớn trong việc quản lý, và điều hành tốt bộ máy
Nhà nước. Đặc biệt, góp phần nghiên cứu về nguồn gốc của tư tưởng pháp gia và có
cái nhìn đúng đắn hơn về công và tội của Tần Thuỷ Hoàng Đế.
Pháp gia và tư tưởng Pháp gia trong nghiệp trị quốc của Tần Thuỷ Hoàng
3
PHẦN II : NỘI DUNG CHÍNH
I. TƯ TƯỞNG PHÁP GIA CỦA HÀN PHI TỬ ( 280? - 233TCN)
I.1. CƠ SỞ XÃ HỘI VÀ HOÀN THIỆN CỦA TƯ TƯỞNG PHÁP GIA
TRONG GIAI ĐOẠN HÀN PHI TỬ (280 - 233 TCN).
I.1.1. Cơ sở xã hội của tư tưởng Pháp gia - Hàn Phi Tử.
Trường phái pháp gia được bắt đầu xuất hiện vào thời Xuân-Thu chiến quốc (
770 - 221 TCN). Đây là thời kỳ mà xã hội Trung Quốc có rất nhiều biến động , trật
tự xã hội bị đảo lộn. “Lễ”, “nhạc” không còn được gìn giữ như trước nữa. Những
cuộc nội chiến diễn ra liên tục dai dẳng, dường như không có sự chấm dứt. Ngũ Bá
(Tề, Sở, Tần, Tấn, Tống) vẫn tiếp tục dùng bạo lực để thôn tính lẫn nhau. Chiến
tranh diễn ra triền miên đã làm cho xã hội càng thêm suy tàn, kinh tế lạc hậu, người
dân nghèo đói trong một nền kinh tế tự bất ổn định. Trước tình hình đó, mà trong
thời kì này đã có nhiều học thuyết chính trị ra đời, cùng mục đích làm ổn định lại nền
chính trị. Tiêu biểu có bốn trường phái lớn là Nho gia - Mặc gia - Đạo gia và Pháp
gia, và đại diện cho nó là bốn nhà tư tưởng lớn là Khổng Tử - Mặc Tử- Lão Tử - và
Hàn Phi Tử. Nhưng để xây dựng một nền chính trị ổn định, không phải là bằng chủ
trương dùng nhân để trị nước của Khổng Tử bởi “thực chất của đức trị, nhân trị mà
đạo Nho chủ trương chẳng qua là duy trì sự phân biệt giữa người sang kẻ hèn, bắt kẻ
hèn chịu ơn, sợ hãi uy lực người sang”, song Hàn Phi Tử đã tiếp thu tư tưởng nhân
trị của KT và chủ trương Lẽ trị của thây Tuân Tử, và những lý thuyết pháp gia có từ
trước để hoàn thiện tư tưởng pháp trị của mình, đưa Hàn Phi Tử trở thành người tiêu
biểu cho tư tưởng Pháp gia.
Hàn Phi Tử (280 ? - 233 TCN), ông xuất thân quí tộc, là công tử của vua
Công nước Hàn, nhưng ông không phải là người kế vị ngôi vua. Chính vì vậy, ngay
từ nhỏ ông đã nhìn thấy rõ các quan hệ giữa vua tôi và cách trị nước. Tuy nhiên, Hàn
Phi là người có tật nói lắp, do đó ông không giỏi biện luận và ông đã tập trung sức
lực để viết sách trình bày các luận thuyết của mình. Cùng với Lý Tư, Hàn Phi là học
trò của thầy Tuân Tử, nhà sử gia lớn nhất lúc bấy giờ. Do đó, ông đã tiếp thu và
thông thạo những tư tưởng quốc trị của các bậc tiền bối đi trước (Nho gia, Đạo gia,
Mặc gia…) Hàn Phi còn được coi là đại diện xuất sắc nhất của trường phái Pháp gia,
là người chủ trương dùng phãp chế để cai trị Đất Nước. Khi thấy nước Hàn suy yếu,
ông đã nhiều lần viết thư dâng lên can vua Hàn nhưng vua Hàn không dùng và khi
Pháp gia và tư tưởng Pháp gia trong nghiệp trị quốc của Tần Thuỷ Hoàng
4
Tần đánh Hàn, ông đã bị phái đi sứ nước Tần. tại nước Tần ông có cơ hội nói lên tư
tưởng pháp trị của mình và Tần Thuỷ Hoàng rất thích tư tưởng đó. Sau này, bởi sự
ganh ghét đố kị của người bạn học cũ Lý Tư, ông đã bị bức tử trong ngục (buộc phải
uống thuốc độc tự tử). Sang tư tưởng pháp trị của ông đã được Tần Thuỷ Hoàng thực
hiện một cách triệt để.
I.1.2. Sự hoàn thiện của tư tưởng Pháp gia trong giai đoạn Hàn Phi Tử.
(280 - 233 TCN).
Hàn Phi Tử không phải là người khởi xướng của trường phái Pháp gia, mà
người khởi xướng đầu tiên là Quản Trọng (trong thời Xuân Thu), tiếp đến là Thương
Ưởng và Thân Bất Hại…, song lý thuyết Pháp gia của Quản Trọng, Thương Ưởng,
Thán Bất Hại vẫn chỉ mới là “Phép tắc, nó còn thiếu một linh hồn để trở thành sinh
động, uyển chuyển áp dụng trong vô vàn trường hợp khác nhau. Hàn Phi thấy nó ở
đạo Lão và đưa đạo Lão vào hoán cải cái học thuyết vốn dĩ khô khan thành một học
thuyết đầy sức sống. Nếu Quản Trọng, Thương Ưởng mới chỉ thấy cái quan trọng
của phép tắc, Thân Bất Hại thấy thêm được cái “Thế” của bậc Đế vương. Thì với
Hàn Phi, trị nước còn cần có “thuật” để người cai trị sử dụng mà ứng phó với mọi
trường hợp. Còn với thầy Tuân Tử ông không xem trong sách lược pháp trị, mà
ngược lại rất trọng lễ, nhưng sự cách biệt giữa lễ và pháp luật thì rất khiêm nhường
và đôi lúc lại không rõ ràng. Chính sự cách biệt thiếu rõ ràng giữa “lễ” với “pháp” và
quan niệm bản tính ác bẩm sinh của thầy Tuân Tử, đã mở đường cho học trò Hàn Phi
đưa ra chủ trương pháp chế nhằm kìm hãm ác tính của con người. Do đó, Hàn Phi là
người đại diện lớn nhất cho trường phái Pháp gia, với sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa
Pháp - Thế - Thuật để hình thành tư tưởng pháp trị trong việc cai trị Đất Nước.
I. 2. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA PHÁP GIA - HÀN PHI TỬ.
Lịch sử loài người là sự phát triển theo dân số, nếu cứ dùng những quy luật
pháp luật - như thời Nghiêu Thuấn áp dụng cho một thời điểm nào đó thì sẽ không
phù hợp, do đó luật pháp luôn được biến đổi theo lịch sử. Trên cơ sở này Hàn Phi Tử
càng vững vàng đề ra chủ trương dùng Pháp chế để cai trị Đất Nước.
Kế thừa tư tưởng của thầy Tuân Tử, Hàn Phi Tử cũng cho rằng con người sinh
ra là mang bản tính ác, là tự tư tự lợi, sinh ra là đã tránh hại cầu lợi. Do đó nếu cai trị
bằng nhân nghĩa thì chỉ trị được số ít, không trị được số đông. Còn cai trị bằng cách
đặt ra những luật pháp, những hình phạt thì sẽ trị được số đông. Hơn nữa, luật pháp
có đặc điểm đặc biệt mà các nhà triết học phương Đông cho rằng đặc điểm này còn
Pháp gia và tư tưởng Pháp gia trong nghiệp trị quốc của Tần Thuỷ Hoàng
5
hơn cả chuẩn mực đạo đức, đó là “thời biến thì pháp biến, mà ta thấy đạo đức bao
giờ cũng phát triển chậm hơn thời thế. Và ông cho rằng không có pháp luật luôn luôn
đúng. Có nghĩa là pháp luật luôn mang tính lịch sử.
Khi mới hình thành tư tưởng Pháp gia chỉ có “pháp”. là đề cao việc cai trị của
pháp luật, sau có “thế” là để đề cao việc cai trị của người cầm quyền, cụ thể là sự cai
trị của Vua. Đến Hàn Phi Tử ông đề ra “thuật” là đề cao thủ thuật trị nước của Vua.
Hàn Phi Tử thống nhất cả ba nhóm tư tưởng đó, và tư tưởng pháp gia của ông được
thực hiện thịnh nhất vào thời Tần Thuỷ Hoàng Doanh Chính.
I.2.1. Pháp :
Hàn Phi Tử cho rằng, Pháp là luật lệ là những quy tắc, những quy định, được
đề ra để cho mọi người trong xã hội biết mà làm theo, khi đó xã hội sẽ được ổn định
và đi vào trật tự, nó điều chỉnh xã hội từ loạn mà trở nên thái bình. Do vậy, ông nói
“hình pháp là cái gốc của thiên hạ, nó ngăn ngừa việc bạo ngược, làm cho con người
ta biết ghét bỏ điều ác, ngăn những việc ác chưa xảy ra. Hiểu một cách rộng hơn
“Pháp” là đại diện cho một thể chế, một chế độ chính trị.
“Pháp” thực sự là căn cứ khách quan, là tiêu chuẩn đặt rõ phải trái, tốt xấu mà
không bị ảnh hưởng và chi phối bởi tâm lí con người. Thông qua “Pháp”, con người
biết được vai trò bổn phận của mình, biết được những điều nên làm và không nên
làm. Bên cạnh đó, nên vì vốn bản tính là tránh hại cầu lợi “Pháp” đặt ra là luôn luôn
trị được số đông, có thưởng có phạt, khích lệ con người làm theo pháp luật.
Hàn Phi Tử còn đặt ra, thi hành “pháp” thì phải nghiêm minh, không được
dùng tự tư cá nhân, không được tự tư tự lợi, không được tuỳ tiện, tự động thay đổi
“pháp”. Không phân biệt đẳng cấp khi luận tội, và thưởng phạt phải công bằng,
nghiêm minh.
Ta nhận thấy một điều rằng pháp là do nhà vua đề ra, và như thế luật pháp còn
thấp hơn cả vị thế nhà vua.
I.2.2. Thế .
Hàn Phi Tử cho rằng thế là địa vị, là thế lực và quyền uy của người đứng đầu
chính thể, mà cụ thể là địa vị, quyền uy và thế lực của Vua.
Thế là một hệ quả tất yếu khi mà đã đề ra “Pháp”. Có pháp rồi thì phải có
quyền uy có thế lực để ban bố và cho Pháp được thực hiện đúng.
Pháp gia và tư tưởng Pháp gia trong nghiệp trị quốc của Tần Thuỷ Hoàng
6
Ông cho rằng thế còn có thể thay thế quyền lực của thánh quyền, thay thế cho
bậc thánh nhân (bậc thánh nhân là quan điểm của Nho giáo). Như vậy Hàn Phi Tử
coi trọng pháp luật hơn đạo đức.
I.2.3. Thuật.
Ngoài “pháp” và “thế” thì rất cần đến thuật. Thuật chính là những phương
pháp những thủ thuật, là mưu lược để điều khiển và giải quyết công việc, là phương
pháp cách thức dùng người khiến người ta thi hành triệt để pháp luật, khiến cho
người ta tận trung tận lực.
Thuật bao gồm ba mặt : “bổ nhiệm”, “khảo hạch” và “thưởng phạt”. “Thuật”
“bổ nhiệm” là phương pháp chọn quan lại : chỉ căn cứ vào tài năng, không cần đến
đức hạnh dòng dõi. Thuật “khảo hạnh” và “thưởng phạt” là căn cứ theo trách nhiệm
để kiêm tra hiệu quả công tác, làm tốt thì thưởng rất hậu, làm không tốt thì phạt rất
nặng.
Thuật không ban bố như Pháp, “thế” “thuật” là của riêng nhà vua. Pháp để trị
dân do quan nắm giữ, còn thuật là để trị quan và chỉ mình vua nắm giữ.
Hàn Phi Tử cho rằng vua phải luôn luôn có “thuật”, và thuật phải luôn di cùng
“pháp”, cùng “thế”. Khi đó vua sẽ có bề tôi tận trung, cótài và tận lực. Và vua thì
không được chia sẻ quyền lực với ai, không được tin ai, không yêu riêng ai, không
ghét riêng ai, không được để bề tôi khinh nhờn, và đặc biệt không được sùng bái quỉ
thần… nếu làm ngược lại, thì thuật bị lộ và không cai trị được nước, được dân.
Đối với văn hoá Thế Giới nói chung và văn hoá Trung Quốc nói riêng, tư
tưởng triết học Pháp gia của Hàn Phi Từ là một sản phẩm lịch sử vô cùng vĩ đại. Về
mặt chính trị, nó là công trình quan trọng nhất của chính trị học Trung Hoa, và là một
trong những công trình đầu tiên của chính trị học Thế Giới. Về mặt tư tưởng nó xác
định trường phái Pháp gia, là một trong bốn trường phái lớn nhất của tư tưởng Trung
Quốc (Nho gia - Mặc gia - Lão gia - Pháp gia).
Khi tìm hiểu về Pháp gia, một tác phẩm của cách đây hơn 2300 năm, ta chợt
giật mình bởi tính thời sự của nó. Ta cảm tưởng rằng tác giả là người hiện nay, nói
với ngôn ngữ và cách lí luận hôm nay về các quan hệ giữa người với người hôm nay,
không chỉ ở Trung Hoa mà ở cả thế giới, trong đó ta bắt buộc phải thừa nhận rằng
con người viết ra nó thực sự là một thiên tài toàn diện, một đầu óc lỗi lạc nhất của
Trung Hoa và của loài người, con người Trung Hoa đầu tiên dám nhìn thẳng vào sự
Pháp gia và tư tưởng Pháp gia trong nghiệp trị quốc của Tần Thuỷ Hoàng
7
thật với tất cả cái tàn nhẫn của nó, để tìm cách đưa đến một cuộc sống yên ổn cho
dân thường trong khuôn khổ thời đại quân chủ.
Ta nhận thấy rằng, phái Pháp gia chủ trương dùng pháp luật để trị nước là vô
cùng đúng đắn. Nhờ vậy, nước Tần đã trở nên hùng mạnh và thống nhất được Trung
Quốc. Nhưng mặt khác, phái này quá nhấn mạnh biện pháp trừng phạt nặng nề, phủ
nhận đạo đức, tình cảm, thủ tiêu văn hoá giáo dục là đi ngược với sự phát triển của
văn minh và làm cho mâu thuẫn xã hội thêm gay gắt.
Tần Thuỷ Hoàng là người đầu tiên thực hiện Pháp trị của Hàn Phi Tử, chủ
trương cai trị bằng pháp chế, đã mang lại cho Tần Thuỷ Hoàng những thành công to
lớn trong việc cai trị Đát Nước : thâu tóm lục quốc, thu giang sơn về một mối, xây
dựng và phát triển một nhà nước tập quyền trung ương đầu tiên của Trung Quốc.
Song cũng bởi chính sách cai trị khắc nghiệt mà Nhà Tần đoản mệnh chỉ tồn tại được
trong 15 năm, và Tần Thuỷ Hoàng bị coi là một hôn quân, bạo chúa.
Pháp gia và tư tưởng Pháp gia trong nghiệp trị quốc của Tần Thuỷ Hoàng
8
II. TƯ TƯỞNG PHÁPGIA TRONG NGHIỆP TRỊ QUỐC CỦA
TẦN THUỶ HOÀNG.
II.1. TẦN THUỶ HOÀNG ĐẾ(246 - 209TCN).
Tần Thuỷ Hoàng đế (246 - 209 TCN) là con của Trang Tương Vương nước
Tần, ông họ Doanh tên Chính. Do cha Trang Tương Vương làm con tin của nước
Tần ở nước Triệu, Trang Tương Vương đã lấy người thiếp của Lã Bất Vi là Triệu Cơ
nên Tần Thuỷ Hoàng đã được sinh tại Hàm Đan vào tháng giêng năm thứ 48 đời Tần
Chiêu Vương.
Sau khi trở về nước, Trang Tương Vương được phong vua và Doanh Chính
được phong làm Thái tử. Năm 147 TCN, Tần Trang Vương chết và Thái tử Doanh
Chính lên ngôi Hoàng đế năm 13 tuổi, song mọi quyền lực đều tập trung ở trong tay
tướng quốc Lã Bất Vi. Năm 233-TCN là năm thứ 9 vương triều Tần, Doanh Chính
đã 22 tuổi, lúc đó mới thực sự cầm quyền điều hành Đất Nước. Năm sau Doanh
Chính bãi miễn chức tướng quốc Lã Bất Vi, thế vị trí đó là Lý Tư và tập trung quyền
lực vào tay mình. Tần Doanh Chính bắt đầu sự nghiệp trị quốc của mình
Ngay từ lúc còn nhỏ, Doanh Chính đã được tiếp thu những tư tưởng trị nước
của Nho gia, Mặc gia và Đạo gia, Doanh Chính đã có tư tưởng cởi mở và biết trọng
những kiến nghị của tri thức đương thời. Đây là một nguồn tri thức cho sự nghiệp
Quốc trị của Tần Thuỷ Hoàng sau này. Song Doanh Chính cũng sớm bộc lộ bản tính
độc ác và độc đoán của mình.
Sau khi nắm quyền điều hành Đất Nước, Tần Doanh Chính đã thực sự tiếp thu
một cách sâu sắc tư tưởng dùng pháp chế để trị quốc của Hàn Phi Tử. Có thể coi Hàn
Phi Tử là một tư tưởng gia xuất sắc với tư tưởng pháp trị, và Tần Thuỷ Hoàng là
người đã biến tư tưởng Pháp trị ấy thành hiện thực.
Ông cho rằng thời đại của mình là một thời đại mới, và rất cần đến một quan
niệm Quốc trị mới, và dùng pháp trị để trị quốc là một điều tất yếu. Với tư tưởng
Pháp trị, Tần Thuỷ Hoàng đã dần thâu tóm lục quốc, thống nhất Trung Hoa, xây
dựng nhà nước tập quyền Trung ương tuyệt đối, và là nhà nước phong kiến đầu tiên
trong lịch sử Trung Quốc. Ông đã đưa Tần quốc trở thành một cường quốc vững
mạnh với nền chính trị thống nhất, với một xã hội phát triển. Chính những thành
công đó, cùng với sự cai trị độc ác của Tần Thuỷ Hoàng, mà ông được coi là một vị
“thiên cổ nhất đế”.
Pháp gia và tư tưởng Pháp gia trong nghiệp trị quốc của Tần Thuỷ Hoàng
9
II. 2. THỜI ĐẠI MỚI VỚI NHIỀU THAY ĐỔI - CẦN ĐẾN MỘT QUAN
NIỆM QUỐC TRỊ MỚI.
Trong lịch sử Trung Quốc, thời Xuân Thu náo loạn đi qua, nhưng thời Chiến
Quốc (479 - 221 TCN) lại đến, vì nội chiến Trung Quốc vẫn không chấm dứt. Ngũ
Bá (Tề Hoàng Công, Sở Trang Công, Tần Mục Công, Tần Văn Công, và Tống
Tương công) tiếp tục dùng bạo lực để thôn tín lẫn nhau dẫn đến Ngũ Bá hoá thành
Thất Hùng : Tần, Sở, Yên, Tề, Triệu, Hàn và Nguỵ tranh giành quyền lực. Năm 221-
TCN, Tần Vương Chính chinh phục được sáu tiểu quốc gia kia, và tấn bình phong
Chu Triệu để thành lập chế độ quân chủ chuyên chế.
Trước khi thống nhất thiên hạ, Tần Vương Chính có nhu cầu tập trung sức
mạnh quốc phòng để tiêu diệt các đối thủ chính trị (thống nhất chính trị), cũng như
các tư tưởng đối trọi (thống nhất văn hoá) cho nên cần đến một sách lược quốc trị
mới, khác với đường lối nhân trịcủa Khổng Tử hay vô trị của Lão Tử. Cùng với bối
cảnh lịch sử lúc đó (“Thất hùng tranh bá triền miên, mà không có được sự thống nhất
tập trung cao nhất) thì sách lược pháp trị của Hàn Phi Tử (của trường phái Pháp gia)
là vô cùng đúng đắn và hiệu quả để Tần Vương Chính - Tần Thuỷ Hoàng thống nhất
thiên hạ. Tần Vương Chính đã sớm nhận ra và đã áp dụng triệt để sách lược pháp trị
này, và chỉ có Tần Thuỷ Hoàng mới có đủ tài trí, đủ độc ác để sử dụng pháp trị thống
nhất thiên hạ.
Ta đã biết, Hàn Phi Tử là người có công lớn nhất khi đề ra tư tưởng
dùng”Pháp” để “trị” và với người bạn học cũ Lý Tư, ông được coi là người có công
lớn hơn khi cống hiến tư tưởng quốc trị mới cho Tần quốc, nhưng Lý Tư lại là người
trực tiếp tham chính, và đại diện cho hành pháp vào thời Tần Thuỷ Hoàng (bởi Hàn
Phi do đã bị bức tử quá sớm nên danh tiếng của ông chỉ gắn liền với triết lý pháp gia,
thay vì chính trị Pháp gia). Như vậy, Hàn Phi là người đã hệ thống hoá sách lược, áp
dụng pháp thuật vào việc trị quốc, sách lược này hình thành là phù hợp với quy luật
của lịch sử, là đáp ứng được nhu cầu của lịch sử, và nó cũng chính là sản phẩm tất
yếu của lịch sử. Tần Thuỷ Hoàng cùng vị tướng Lý Tư mưu tài đã cụ thể hoá và thực
hiện sách lược này vào việc cai trị Đất Nước. Qua những thành công mà Tần quốc
đạt được, thì đã thể hiện được triết lý pháp gia của Hàn Phi mà Tần Thuỷ Hoàng đã
sử dụng, và khẳng định được rằng, người sử dụng triệt để nhất, hiệu quả nhất triết lý
pháp gia vào việc trị quốc chỉ có thể là Tần Thuỷ Hoàng Đế.
Pháp gia và tư tưởng Pháp gia trong nghiệp trị quốc của Tần Thuỷ Hoàng
10
II.3. TẦN THUỶ HOÀNG VỚI TRIẾT LÍ PHÁP GIA TRONG NGHIỆP
TRỊ QUỐC.
Như ta đã biết, Pháp gia của Hàn Phi Tử gồm ba nội dung chính là Pháp, Thế
và thuật. Song ba phạm trù này không tách rời riêng biệt, mà nó có quan hệ móc xích
lẫn nhau, và phát triển cho nhau. Chính vì thế khi t