Cạnh tranh là tất yếu trong nền kinh tế thị trường. Quy luật cạnh tranh buộc các doanh nghiệp phải xây dựng lợi thế cho mình để có thể tồn tại và phát triển trên thị trường.
Mở rộng mạng lưới hoạt động của các doanh nghiệp nói chung và mở rộng mạng lưới đại lý nhận lệnh nói riêng của các công ty chứng khoán đang là cách phổ biến để các công ty mở rộng thị trường, thu hút khách hàng, tăng thị phần, tăng sức cạnh tranh.
Công ty cổ phần chứng khoán châu Á- Thái Bình Dương (APEC) được thành lập vào cuối năm 2006. APEC tự hào là một trong những công ty chứng khoán có mạng lưới đại lý nhận lệnh lớn nhất trong các công ty chứng khoán. Vậy tại sao APEC lại có mục tiêu mở rộng mạng lưới đại lý nhận lệnh. Thực trạng phát triển mạng lưới đại lý của công ty ra sao? Hạn chế và những nguyên nhân dẫn đến hạn chế đó là gì? Từ những câu hỏi đó, em đã quyết định nghiên cứu đề tài:
“Phát triển mạng lưới đại lý tại công ty cổ phần chứng khoán châu Á- Thái Bình Dương”
88 trang |
Chia sẻ: ducpro | Lượt xem: 2566 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phát triển mạng lưới đại lý tại công ty cổ phần chứng khoán châu Á- Thái Bình Dương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI CẢM ƠN
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới thầy giáo, PGS.TS. Trần Đăng Khâm, người đã hướng dẫn em rất nhiều trong các bước, định hướng và chỉ cách thức để em hoàn thành chuyên đề này.
Em cũng xin gửi lời cảm ơn tới cô giám đốc Phạm Hồng Vân và các anh chị trong phòng phát triển kinh doanh tại công ty cổ phần chứng khoán châu Á- Thái Bình Dương, những người đã giúp đỡ em trong thời gian thực tập tại công ty.
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Danh sách cổ đông sáng lập và cổ đông nắm giữ trên 5% vốn cổ phần………………………………………………………………… 40
Bảng 2.2. Nhân sự trong các bộ phận tại trụ sở chính……………... 42
Bảng 2.3. Doanh thu từ các hoạt động kinh doanh chứng khoán năm 2007
……………………………………………………………………… 48
Bảng 2.4. Doanh thu môi giới chứng khoán năm2007…………….. 59
Biểu đồ 1. Mô hình tổ chức hoạt động của công ty cổ phần chứng khoán châu Á- Thái Bình Dương…………………………………………….. 45
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
CHỮ VIẾT TẮT
TỪ ĐẦY ĐỦ
APEC
Công ty cổ phần chứng khoán châu Á- Thái Bình Dương
AGRISCO
Công ty trách nhiệm hữu hạn chứng khoán ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn
BVSC
Công ty cổ phần chứng khoán Bảo Việt
DT
Doanh thu
MGCK
Môi giới chứng khoán
TTCK
Thị trường chứng khoán
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do nghiên cứu đề tài
Cạnh tranh là tất yếu trong nền kinh tế thị trường. Quy luật cạnh tranh buộc các doanh nghiệp phải xây dựng lợi thế cho mình để có thể tồn tại và phát triển trên thị trường.
Mở rộng mạng lưới hoạt động của các doanh nghiệp nói chung và mở rộng mạng lưới đại lý nhận lệnh nói riêng của các công ty chứng khoán đang là cách phổ biến để các công ty mở rộng thị trường, thu hút khách hàng, tăng thị phần, tăng sức cạnh tranh.
Công ty cổ phần chứng khoán châu Á- Thái Bình Dương (APEC) được thành lập vào cuối năm 2006. APEC tự hào là một trong những công ty chứng khoán có mạng lưới đại lý nhận lệnh lớn nhất trong các công ty chứng khoán. Vậy tại sao APEC lại có mục tiêu mở rộng mạng lưới đại lý nhận lệnh. Thực trạng phát triển mạng lưới đại lý của công ty ra sao? Hạn chế và những nguyên nhân dẫn đến hạn chế đó là gì? Từ những câu hỏi đó, em đã quyết định nghiên cứu đề tài:
“Phát triển mạng lưới đại lý tại công ty cổ phần chứng khoán châu Á- Thái Bình Dương”
2. Mục tiêu nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu các vấn đề cơ bản sau:
- Hệ thống toàn bộ các vấn đề cơ bản của công ty chứng khoán, cơ sở phát triển mạng lưới đại lý, quy trình thiết lập mạng lưới đại lý.
- Tìm hiểu và đánh giá thực trạng phát triển mạng lưới đại lý tại công ty cổ phần chứng khoán châu Á- Thái Bình Dương
- Đưa ra ý kiến cá nhân về các giải pháp, kiến nghị đối với mục tiêu phát triển mạng lưới đại lý tại công ty cổ phần chứng khoán châu Á- Thái Bình Dương.
3. Kết cấu đề tài
Với mục tiêu nghiên cứu như trên, kết cấu của đề tài gồm ba phần chính:
Chương 1: Mạng lưới đại lý của công ty chứng khoán
Chương 2: Thực trạng phát triển mạng lưới đại lý tại công ty cổ phần chứng khoán châu Á- Thái Bình Dương
Chương 3: Giải pháp phát triển mạng lưới đại lý tại công ty cổ phần chứng khoán châu Á- Thái Bình Dương
CHƯƠNG 1. MẠNG LƯỚI ĐẠI LÝ CỦA CÔNG TY CHỨNG KHOÁN
Khái quát về công ty chứng khoán
Khái niệm, đặc điểm và mô hình tổ chức của công ty chứng khoán
Khái niệm
Để hình thành và phát triển thị trường chứng khoán (TTCK) có hiệu quả, một yếu tố không thể thiếu được là các chủ thể tham gia kinh doanh trên TTCK. Mục tiêu của việc hình thành TTCK là thu hút vốn đầu tư dài hạn cho việc phát triển kinh tế và tạo ra tính thanh khoản cho các loại chứng khoán. Do vậy, để thúc đẩy TTCK hoạt động một cách có trật tự, công bằng và hiệu quả cần phải có sự ra đời và hoạt động của các công ty chứng khoán. Các công ty chứng khoán là tác nhân quan trọng thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế nói chung và của TTCK nói riêng. Nhờ các công ty chứng khoán mà các cổ phiếu và trái phiếu lưu thông buôn bán tấp nập trên TTCK, qua đó, một lượng vốn khổng lồ được đưa vào đầu tư từ việc tập hợp những nguồn vốn lẻ tẻ trong công chúng.
Mỗi doanh nghiệp muốn huy động vốn bằng cách phát hành chứng khoán, không phải tự họ đi bán số chứng khoán họ cần phát hành. Họ không thể làm tốt được việc đó do họ không được chuyên môn hóa, họ cần những nhà chuyên nghiệp, chuyên mua bán chứng khoán cho họ. Đó chính là các công ty chứng khoán. Với nghiệp vụ chuyên môn hóa, kinh nghiệm nghề nghiệp, bộ máy tổ chức thích hợp, các công ty chứng khoán hoàn toàn có thể thực hiện tốt trung gian tài chính cho các nhà đầu tư. Kinh nghiệm các nước cho thấy, khi chưa hình thành TTCK tập trung, các công ty chứng khoán vẫn làm được trung gian môi giới và mua bán chứng khoán. Những nhà môi giới, mua bán chứng khoán thống nhất với nhau thành lập trên TTCK tập trung để thực hiện giao dịch. Do vậy, muốn thiết lập TTCK, trước hết phải thiết lập các công ty chứng khoán và phát hành các chứng khoán trên thị trường.
Công ty chứng khoán (CTCK) là một tổ chức ở thị trường chứng khoán, thực hiện trung gian tài chính thông qua các nghiệp vụ chủ yếu sau:
- Môi giới chứng khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng (trung gian môi giới)
- Mua bán chứng khoán bằng nguồn vốn của chính mình để hưởng chênh lệch giá (thương gia chứng khoán.
- Trung gian phát hành và bảo lãnh phát hành chứng khoán cho các đơn vị phát hành.
- Tư vấn đầu tư.
Theo Luật chứng khoán số 70/2006/QH11 quy định về chứng khoán và thị trường chứng khoán thì tổ chức và hoạt động của công ty chứng khoán: “Công ty chứng khoán được tổ chức dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần theo quy định của Luật doanh nghiệp. Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước cấp Giấy phép thành lập và hoạt động cho công ty chứng khoán. Giấy phép này đồng thời là Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.”
Đặc điểm của công ty chứng khoán
CTCK là một tổ chức trung gian trên TTCK, vì vậy CTCK có đặc điểm quan trọng nhất đó là CTCK là trung gian tài chính. Sở dĩ CTCK có đặc điểm này vì:
Trong những giao dịch diễn ra trên thị trường tài chính, một bên thường không biết tất cả những gì cần biết về bên kia để có được những quyết định đúng đắn. Sự không cân bằng về thông tin mà mỗi bên có được được gọi là thông tin không cân xứng. Vấn đề thông tin không cân xứng là đặc trưng cơ bản trên thị trường tài chính. Đây cũng là lý do để các trung gian tài chính và tài chính gián tiếp đóng vai trò quan trọng trong thị trường. Hơn nữa, TTCK không giống với thị trường hàng hóa thông thường khác vì hàng hóa của TTCK là loại hàng hóa đặc biệt, đó là các tài sản tài chính. Các tài sản này không có hình thái giá trị cụ thế, giá trị của nó do quyền yêu cầu vè thu nhập của tổ chức phát hành quy định, và vì vậy, giá cả của nó biến động theo thị trường, rất khó dự đoán chính xác.
Trung gian tài chính được thể hiện:
- Trung gian giao dịch: CTCK đứng ra mua, bán chứng khoán cho các nhà đầu tư và hưởng phí giao dịch.
- Trung gian thông tin: CTCK có các chuyên gia tư vấn, các chuyên gia này có nhiệm vụ theo giõi chứng khoán và đề xuất các quyết định mua bán cho khách hàng. Vì vậy, các báo cáo do các chuyên gia này lập phải được công bố cho khách hàng của công ty mình. Điều này đồng nghĩa các báo cáo này cũng được công bố rộng rãi cho công chúng đầu tư. Với đặc điểm trung gian thông tin, CTCK đã giúp khách hàng có thể tiếp cận được với các thông tin liên quan đến chứng khoán, như vậy giúp thị trường hoạt động hiệu quả hơn.
- Trung gian về vốn
- Trung gian về rủi ro
- Trung gian thanh toán
- Trung gian đầu tư
CTCK hoạt động trong môi trường xung đột lợi ích: Xung đột lợi ích xảy ra khi lợi ích của đối tượng này đi ngược lại lợi ích của đối tượng có liên quan. Các CTCK hoạt động trong môi trường luôn luôn tồn tại xung đột lợi ích: đó là xung đột giữa lợi ích của công ty và lợi ích của khách hàng, xung đột giữa lợi ích của các bộ phận khác nhau trong cùng một công ty.
Sản phẩm mà CTCK cung cấp là các dịch vụ tài chính. Điểm đặc biệt là sự phát triển của các dịch vụ tài chính phụ thuộc vào sự phát triển của TTCK. Vì vậy các dịch vụ tài chính rất dễ thay đổi. Các dịch vụ này rất dễ bắt chước: hôm nay CTCK này có dịch vụ đặt lệnh qua điện thoại thì ngay ngày mai, CTCK khác cũng mở dịch vụ này. Gần như các CTCK đều có các dịch vụ tài chính giống nhau, điều khác biệt chỉ là chất lượng của các dịch vụ này.
Là trung gian tài chính, hoạt động trong môi trường có xung đột lợi ích, hoạt động của các CTCK đòi hỏi tính chuyên môn hóa và chuyên nghiệp hóa cao để có thể đảm bảo tốt nhất lợi ích của nhà đầu tư cũng như lợi ích của CTCK.
Do những đặc điểm này mà CTCK là loại hình doanh nghiệp kinh doanh có điều kiện: đó là điều kiện về vốn, điều kiện về nhân lực, điều kiện về cơ sở vật chất và địa bàn hoạt động của các CTCK là nơi có kinh tế phát triển.
Mô hình tổ chức của công ty chứng khoán
Có thể khái quát mô hình tổ chức kinh doanh chứng khoán của CTCK theo 2 nhóm sau:
- Mô hình công ty chứng khoán đa năng
Theo mô hình này, các CTCK được tổ chức dưới hình thức một tổ hợp dịch vụ tài chính tổng hợp bao gồm kinh doanh chứng khoán, kinh doanh tiền tệ và các dịch vụ tài chính. Theo đó, các ngân hàng thương mại hoạt động với tư cách là chủ thể kinh doanh chứng khoán, bảo hiểm và kinh doanh tiền tệ. Mô hình này được biểu hiện dưới 2 hình thức sau:
Loại đa năng một phần: Các ngân hàng thương mại muốn kinh doanh chứng khoán, kinh doanh bảo hiểm phải lập công ty con hạch toán độc lập, hoạt động tách rời với kinh doanh tiền tệ
Loại đa năng toàn phần: Các ngân hàng thương mại được phép trực tiếp kinh doanh chứng khoán, kinh doanh bảo hiểm bên cạnh kinh doanh tiền tệ cũng như các dịch vụ tài chính khác.
Mô hình này có ưu điểm là ngân hàng có thể kết hợp nhiều lĩnh vực kinh doanh, nhờ đó giảm thiểu được rủi ro cho hoạt động kinh doanh chung và có khả năng chịu đựng các biến động của TTCK. Mặt khác, ngân hàng sẽ tận dụng được các thế mạnh về nguồn nhân lực, nguồn tài chính và mạng lưới hoạt động để kinh doanh chứng khoán.
Tuy vậy, các công ty hoạt động theo mô hình này có nhược điểm vốn có của nó là xung đột lợi ích. Các ngân hàng vốn bảo thủ, họ sẽ thích cho vay hơn là bảo lãnh, tư vấn... Do đó sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi của nhà đầu tư.
- Mô hình chuyên doanh chứng khoán
Theo mô hình này, hoạt động chuyên doanh chứng khoán sẽ do các công ty độc lập, chuyên môn hóa trong lĩnh vực chứng khoán đảm nhận; các ngân hàng không được tham gia kinh doanh chứng khoán
Mô hình này có ưu điểm là hạn chế rủi ro cho hệ thống ngân hàng, tạo điều kiện cho các CTCK đi vào chuyên môn hóa sâu trong lĩnh vực kinhdoanhchứng khoán để thúc đẩy thị trường phát triển. Mô hình này được áp dụng ở nhiều nước, đáng chú ý là Mỹ, Nhật, Canada, Hàn Quốc.
Gần đây, các công ty lại có xu hướng quay trở lại mô hình đa năng toàn phần xuất phát từ nhu cầu của nhà đầu tư cần tiện lợi, nhanh chóng và năng lực quản lý của Nhà nước ngày càng hiệu quả.
Tại Việt Nam, các CTCK được tổ chức theo mô hình CTCK đa năng một phần ( CTCK ngân hàng công thương trực thuộc ngân hàng công thương, CTCK ngân hàng ngoại thương trực thuộc ngân hàng Ngoại thương…) và CTCK chuyên doanh.
Nguyên tắc hoạt động của công ty chứng khoán
CTCK hoạt động theo 2 nhóm nguyên tắc cơ bản là nhóm nguyên tắc mang tính đạo đức và nhóm nguyên tắc mang tính tài chính.
Nhóm nguyên tắc đạo đức
CTCK phải đảm bảo giao dịch trung thực và công bằng vì lợi ích của khách hàng; Kinh doanh có kỹ năng, tận tuỵ và có tinh thần trách nhiệm; Ưu tiên thực hiện lệnh của khách hàng trước khi thực hiện lệnh của công ty và có nghĩa vụ phải bảo mật mọi thông tin của khách hàng; Nghiêm cấm các CTCK thực hiện các giao dịch nội gián, thực hiện các giao dịch mua bán gây thiệt hại đến lợi ích của khách hàng.
CTCK không được tiến hàn các hoạt động có thể làm cho khách hàng và công chúng hiểu lầm về giá cả, giá trị và bản chất của chứng khoán hoặc các hoạt động khác gây thiệt hại cho khách hàng.
1.1.2.2. Nhóm nguyên tắc tài chính
- CTCK cần đảm bảo các yêu cầu về vốn, cơ cấu vốn và nguyên tắc hạch toán, báo cáo theo quy định của UBCK Nhà nước; đảm bảo nguồn tài chính trong cam kết kinh doanh chứng khoán với khách hàng.
- CTCK không được dùng tiền của khách hàng làm nguồn tài chính để kinh doanh, ngoại trừ trường hợp số tiền đó phục vụ cho giao dịch của khách hàng.
- Tiền và chứng khoán của khách hàng phải được tách bạch với tài sản của CTCK. CTCK không được dùng chứng khoán của khách hàng làm vật thế chấp vay vốn trừ trường hợp được khách hàng đồng ý bằng văn bản.
Vai trò của công ty chứng khoán
Với tư cách là trung gian tài chính, thực hiện các hoạt động trên TTCK, vai trò của CTCK như sau:
1.1.3.1. Đối với tổ chức phát hành
Mục đích của các tổ chức phát hành khi tham gia TTCK là nhằm huy động vốn thông qua việc phát hành các loại chứng khoán. Vì vậy, thông qua hoạt động đại lý phát hành, bảo lãnh phát hành, các CTCK có vai trò tạo ra cơ chế huy động vốn phục vụ các tổ chức phát hành.
Nguyên tắc trung gian trên TTCK yêu cầu các nhà đầu tư và các tổ chức phát hành không được mua bán trực tiếp chứng khoán mà phải thông qua các trung gian mua bán. Các CTCK sẽ thực hiện vai trò trung gian cho cả nhà đầu tư và phát hành. Khi đó CTCK đã tạo ra cơ chế huy động vốn cho nền kinh tế thông qua TTCK.
Đối với nhà đầu tư
Thông qua các hoạt động như môi giới, tư vấn đầu tư và quản lý danh mục đầu tư, CTCK có vai trò làm giảm chi phí và thời gian giao dịch, từ đó giúp nâng cao hiệu quả các khoản đầu tư. Đối với hàng hoá thông thường, mua bán qua trung gian sẽ làm tăng chi phí cho người mua và người bán. Tuy nhiên, trên TTCK sự biến động thường xuyên của giá cả chứng khoán cũng như mức độ rủi ro cao sẽ làm cho những nhà đầu tư tốn kém chi phí, công sức và thời gian tìm hiểu thông tin trước khi quyết định đầu tư. Nhưng thông qua các CTCK, với trình độ chuyên môn cao và uy tín nghề nghiệp sẽ giúp các nhà đầu tư thực hiện các khoản đầu tư một cách hiệu quả.
Đối với thị trường chứng khoán
Đối với TTCK, CTCK thể hiện các vai trò chính sau:
- Góp phần tạo lập giá cả, điều tiết thị trường. Giá cả chứng khoán là do thị trường quyết định. Tuy nhiên, để đưa ra mức giá cuối cùng, người mua và người bán phải thông qua các CTCK vì họ không được tham gia trực tiếp vào quá trình mua bán. Các CTCK là những thành viên của thị trường, do vậy họ cũng góp phần tạo lập giá cả thị trường thông qua đấu giá. Trên thị trường sơ cấp, các CTCK cùng với các nhà phát hành đưa ra mức giá đầu tiên. Chính vì vậy, giá cả của mỗi loại chứng khoán giao dịch đều có sự tham gia định giá của các CTCK. Các CTCK còn thể hiện vai trò lớn hơn khi tham gia điều tiết thị trường. Để bảo vệ những khoản đầu tư của khách hàng và bảo vệ lợi ích của chính mình, nhiều CTCK đã dành một tỷ lệ nhất định các giao dịch để thực hiện vai trò bình ổn thị trường.
- Góp phần làm tăng tính thanh khoản của các tài sản tài chính. Trên thị trường cấp 1, do thực hiện các hoạt động như bảo lãnh phát hành, chứng khoán hoá, các CTCK không những huy động một lượng vốn lớn đưa vào sản xuất kinh doanh cho nhà phát hành mà còn làm tăng tính thanh khoản của các tài sản tài chính được đầu tư vì các chứng khoán qua đợt phát hành sẽ được mua bán giao dịch trên thị trường cấp 2. Điều này làm giảm rủi ro, tạo tâm lý yên tâm cho người đầu tư. Trên thị trường cấp 2, do thực hiện các giao dịch mua và bán, các CTCK giúp người đầu tư chuyển đổi chứng khoán thành tiền mặt và ngược lại. Những hoạt động đó có thể làm tăng tính thanh khoản của những tài sản tài chính.
Đối với cơ quan quản lý
Các CTCK có vai trò cung cấp thông tin về TTCK cho các cơ quan quản lý thị trường để thực hiện mục tiêu quản lý thị trường. Thật vậy, do các CTCK vừa là người bảo lãnh phát hành cho các chứng khoán mới, vừa là làm trung gian mua bán chứng khoán và thực hiện các giao dịch trên thị trường. Một trong những yêu cầu của TTCK là các thông tin phải cần phải được công khai hoá dưới sự giám sát của các cơ quan quản lý thị trường. Việc cung cấp thông tin vừa là quy định của hệ thống luật pháp, vừa là nguyên tắc nghề nghiệp của các CTCK vì CYCK cần phải minh bạch và công khai trong hoạt động.
Các hoạt động cơ bản của công ty chứng khoán
Công ty chứng khoán được thực hiện một, một số hoặc toàn bộ nghiệp vụ kinh doanh sau đây:
a) Môi giới chứng khoán;
b) Tự doanh chứng khoán;
c) Bảo lãnh phát hành chứng khoán;
d) Tư vấn đầu tư chứng khoán1
Môi giới chứng khoán
Môi giới chứng khoán là hoạt động trung gian hoặc đại diện mua, bán chứng khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng. Theo đó CTCK đại diện cho khách hàng tiến hành giao dịch thông qua cơ chế giao dịch tại Sở giao dịch chứng khoán hoặc thị trường OTC mà chính khách hàng phải chịu trách nhiệm đối với các giao dịch của mình.
- Môi giới tại sở giao dịch chứng khoán
Trên Sở giao dịch chứng khoán có 3 loại môi giới
Thứ nhất: Môi giới lập giá
Đây là những nhà môi giới có nhiệm vụ duy trì sự liên tục của thị trường cho loại chứng khoán mình phụ trách. Môi giới lập giá có vai trò:
+ Vai trò đại lý của các nhà môi giới: Môi giới lập giá thực hiện lệnh cho các nhà môi giới đối với loại chứng khoán mà họ phụ trách.
+ Vai trò là nhà đấu giá: Trong toàn bộ phiên giao dịch, nhà môi giới lập giá sẽ đưa ra một mức giá chào mua, chào bán tốt nhất, trên cơ sở đó đến đầu mỗi phiên giao dịch, họ thiết lập một mức giá giao dịch hợp lý đối với từng loại chứng khóan trên cơ sở cùng cầu về loại chứng khoán đó. Hoạt động này nhằm bảo vệ trật tự thị trường đối với từng loại chứng khoán mà họ phụ trách, đồng thời hạn chế sự dao động về giá cả của chứng khoán đó.
+ Vai trò là nhà kinh doanh: Họ thực hiện các giao dịch tại một mức giá nằm trong khoảng giá chào mua cao nhất và giá chào bán thấp nhất. Họ là người chịu trách nhiệm giảm thiểu sự chênh lệch giữa lệnh mua và lệnh bán. Việc mua bán này được thực hiện theo hướng của thị trường cho đến khi sự chênh lệch được cân bằng trở lại.
Thứ hai: Môi giới thông thường(môi giới thừa hành): Đây là những nhân viên của một công ty chứng khoán thành viên của một Sở giao dịch, làm việc hưởng lương của một công ty chứng khoán và được bố trí để thực hiện các lệnh mua bán cho các công ty chứng khoán hay cho khách hàng của công ty trên sàn giao dịch. Họ được gọi chung là môi giới trên sàn.
Thứ ba: Môi giới độc lập (môi giới 2 đô la): chính là các môi giới làm việc cho chính họ và hưởng hoa hồng hay thù lao theo dịch vụ. Họ là một thành viên tự bỏ tiền ra thuê chỗ tại Sở giao dịch (sàn giao dịch) giống như các công ty chứng khoán thành viên.
Họ chuyên thực thi các lệnh cho các công ty thành viên khác của Sở giao dịch. Sở dĩ có điều này là tại các Sở giao dịch nhộn nhịp, lượng lệnh phải giải quyết cho khách hàng của các CTCK đôi khi rất nhiều, các nhân viên môi giới của các công ty này không thể làm xuể hoặc vì một lý do nào đó vắng mặt. Lúc đó các CTCK sẽ hợp đồng với các nhà môi giới độc lập để thực hiện lệnh cho khách hàng của mình và trả cho người môi giới này một khoản tiền nhất định. Ban đầu các nhà môi giới độc lập được trả 2 đô la cho một lô tròn chứng khoán (100 cổ phần) nên người ta quen gọi là “môi giới 2 đô la”.
Môi giới độc lập cũng được gọi là môi giới trên sàn, họ đóng vai trò không khác gì một môi giới thông thường, chỉ khác là họ có tư cách độc lập- tức họ không đại diện cho bất kỳ một CTCK nào cả.
- Tạo lập thị trường trên thị trường OTC
Nhà tạo lập thị trường là người thực hiện chức năng duy trì thị trường cho một loại chứng khoán. Vai trò của các nhà tạo lập thị trường:
+ Duy trì tính linh hoạt của thị trường đối với một loại chứng khoán khi chứng khoán đó được phát hành ra thị trường
+ Tăng khả năng thực hiện giao dịch một loại chứng khoán có thể sinh lời do cạnh tranh về giá cả đặt ra giữa các nhà tạo lập thị trường khác nhau đối với cùng loại chứng khoán đó.
+ Thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư tới một loại chứng khoán không niêm yết trên thị trường.
+ Tăng tính linh hoạt của thị trường đối với một loại chứng khoán khi tăng số lượng các nhà tạo lập thị trường.
Hoạt động tự doanh chứng khoán
Tự doa