Đối với các quốc gia phương Đông thời cổ - trung đại, nhà nước có vai trò hết sức quan trọng. Với quyền lực tập trung theo thể chế quân chủ chuyên chế Trung ương tập quyền, Nhà nước có khả năng tập trung huy động, tổ chức việc xây dựng các công trình công cộng đồng thời với bộ máy cai trị, trấn áp hà khắc, nhà nước chính là công cụ đảm bảo trật tự xã hội. Kinh nghiệm lịch sử cho thấy, mỗi khi nhà nước còn có vai trò tiến bộ, triệt để thực hiện các chính sách củng cố và phát triển đất nước thì triều đại hưng thịnh, xã hội ổn định. Ngược lại, khi chế độ phong kiến suy đồi, phản động, thi hành những chính sách đi ngược lại quần chúng nhân dân thì đất nước đại loạn, nhân dân đói khổ.
Lịch sử trung đại Việt Nam là một minh chứng cụ thể cho quy luật trên. Sau một thời gian dài thịnh trị và ổn định, đến thế kỷ XVIII, chế độ phong kiến Việt Nam rơi vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng. Vua quan ăn chơi xa đọa, tô thuế nặng nề, thiên tai mất mùa thường xuyên, đời sống nhân dân khốn cùng, cực khổ. Sự bùng nổ của khởi nghĩa nông dân trong thế kỷ này là một hệ quả tất yếu phản ánh sự bất lực của giai cấp phong kiến cầm quyền trong việc giải quyết các vấn đề cấp bách của lịch sử.
46 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 4929 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phong trào nông dân trong lịch sử, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tiểu luận
Chuyên đề: “Phong trào nông dân trong lịch sử cổ trung đại Việt Nam”
Họ và tên: Đỗ Thị Thanh Dung.
Lớp : CLC – K57 Khoa Lịch sử
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
Câu 13: Thế kỷ XVIII sẽ không trở thành khởi nghĩa nông dân nếu như chính quyền ở Đàng Ngoài và Đàng Trong thực hiện những chính sách như thế nào?
I. Phần mở đầu
1.Mở đầu
Đối với các quốc gia phương Đông thời cổ - trung đại, nhà nước có vai trò hết sức quan trọng. Với quyền lực tập trung theo thể chế quân chủ chuyên chế Trung ương tập quyền, Nhà nước có khả năng tập trung huy động, tổ chức việc xây dựng các công trình công cộng đồng thời với bộ máy cai trị, trấn áp hà khắc, nhà nước chính là công cụ đảm bảo trật tự xã hội. Kinh nghiệm lịch sử cho thấy, mỗi khi nhà nước còn có vai trò tiến bộ, triệt để thực hiện các chính sách củng cố và phát triển đất nước thì triều đại hưng thịnh, xã hội ổn định. Ngược lại, khi chế độ phong kiến suy đồi, phản động, thi hành những chính sách đi ngược lại quần chúng nhân dân thì đất nước đại loạn, nhân dân đói khổ.
Lịch sử trung đại Việt Nam là một minh chứng cụ thể cho quy luật trên. Sau một thời gian dài thịnh trị và ổn định, đến thế kỷ XVIII, chế độ phong kiến Việt Nam rơi vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng. Vua quan ăn chơi xa đọa, tô thuế nặng nề, thiên tai mất mùa thường xuyên, đời sống nhân dân khốn cùng, cực khổ. Sự bùng nổ của khởi nghĩa nông dân trong thế kỷ này là một hệ quả tất yếu phản ánh sự bất lực của giai cấp phong kiến cầm quyền trong việc giải quyết các vấn đề cấp bách của lịch sử.
2.Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trong lịch sử Việt Nam thế kỷ XVIII được biết đến là thế kỷ của khởi nghĩa nông dân. Do vậy, đã có nhiều người quan tâm nghiên cứu về phong trào nông dân thế kỷ XVIII ở Đàng Ngoài và Đàng Trong. Nhiều tác phẩm, giáo trình, luận văn được công bố trên các tạp chí, sách chuyên khảo mà chủ yếu được thể hiện trong tạp chí nghiên cứu lịch sử trong những năm gần đây.
Các công trình sử học phong kiến:
+ Khâm định Việt sử thông giám cương mục, của Quốc sử quán triều Nguyễn. Tác phẩm được viết theo lối biên niên. Trong tác phẩm, ta có thể tìm thấy những sự kiện phản ánh tình trạng ăn chơi xa đọa của các đời chúa Trịnh – Nguyễn, các chính sách về ruộng đất, thuế khóa của chính quyền Đàng Ngoài qua các năm và diễn biến các cuộc khởi nghĩa nông dân tiêu biểu. Tác phẩm là nguồn sử liệu quý giúp đọc giả có cái nhìn cụ thể hơn về phong trào nông dân thế kỷ XVIII.
+Lịch triều hiến chương loại chí cua Phan Huy Chú. Đây là một tác phẩm sử học mô tả bức tranh toàn cảnh của chế độ phong kiến Việt Nam. Tác phẩm chia làm nhiều chí tương ứng với những vấn đề của lịch sử: quan chức chí, hình luật chí, dư địa chí, binh chế chí...Đặc biệt, thông qua chương Hình luật chí và Quan chế chi mà tác phẩm đề cập đến, người đọc sẽ được trang bị những kiến thức khái quát về quan chức và hình luật Việt Nam qua các đời vua. Trong đó, tác phẩm đề cập một cách chân thực đến tệ chiếm hữu ruộng đất và tệ tham ô, nhũng lạm của giai cấp phong kiến và quan lại ở thế kỷ XVIII.
+ Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn là một tác phẩm sử học phản ánh khá sinh động mọi mặt của xã hội phong kiến Đàng Trong: lịch sử khai khẩn vùng đất Thuận Hóa, dư địa chí các vùng đất xứ Đàng Trong, chế độ thuế khóa, ruộng đất và đời sống của nhân dân dưới sự cai quản của chúa Nguyễn. Tác phẩm là nguồn sử liệu quý báu để nghiên cứu về nguyên nhân bùng nổ các cuộc khởi nghĩa nông dân thế kỷ XVIII ở Đàng Trong
+Việt Nam sử lược là một trong số những tác phẩm lịch sử xuất sắc nhất của Trần Trọng Kim trước 1945 nói riêng cũng như sử học nước nhà nói chung. Đây còn là cuốn lịch sử đầu tiên của Việt Nam viết bằng chữ Quốc Ngữ. “Việt Nam sử lược” chép sử ta từ họ Hồng Bàng cho đến công cuộc bảo hộ của Pháp, được xếp đặt theo thứ tự, chia ra theo thời đại, đặt thành chương, thành mục rõ ràng, có nhận xét, đánh giá của tác giả. Phong trào nông dân thế kỷ XVIII được nhắc đến trong “Việt Nam sử lược” bắt đầu từ trang 335, chương V, phần IV; nói về công việc họ Trịnh ở đất Bắc cho đến trang 450 – hết phần IV.
Các công trình nghiên cứu lịch sử
+ Nguyễn Cảnh Minh, Đào Tố Uyên, Một số chuyên đề lịch sử cổ trung đại Việt Nam, NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội, 2008. Đây là hệ thống các vấn đề trong lịch sử cổ trung đại Việt Nam trong đó phong trào nông dân trong lịch sủ Việt Nam thời trung đại được đề cập trong một chương riêng. Chuyên đề đã đi sâu làm rõ những vấn đề của phong trào nông dân như: nguyên nhân bùng nổ phong trào trong đó nổi lên vấn đề ruộng đất, vấn đề tô thuế, vấn đề trị thủy có quan hệ như thế nào đế nguyên nhân bùng nổ phong trào, vấn đề đặc điểm của phong trào chung và của mỗi giai đoạn lịch sử.
+Trương Hữu Quýnh (chủ biên), Phan Đại Doãn, Nguyễn Cảnh Minh, Đại cương lịch sử Việt Nam (tập I), NXB Giáo dục, Hà Nội, 2003. Đây là cuốn sách cơ sở, không thể thiếu trong nghiên cứu và giảng dạy lịch sử Việt Nam nói chung và lịch sử chế độ phong kiến nói riêng. Ở các chương XVII và XIII của cuốn giáo trình, các tác giả đã đi sâu làm rõ cuộc khùng hoảng của chế độ phong kiến Việt Nam ở thế kỷ XVIII và diễn biến của các phong trào đấu tranh của nông dân cả nước trong giai đoạn này.
+Phan Huy Lê (chủ biên), Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1960. Đây là một bộ sách của các nhà sử học có uy tín của Việt Nam biên soạn phục vụ cho công tác nghiên cứu và giảng dạy lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam. Tác phẩm gồm 3 tập, trong đó sự khủng hoảng của chế độ phong kiến Đàng Trong và Đàng Ngoài thế kỷ XVIII được đề cập trong tập III. Trong tập III, vấn đề khởi nghĩa nông dân (nguyên nhân bùng nổ và diễn biến của phong trào) được tác giả phân tích và làm rõ trong các chương VI, VII của tác phẩm.
Những nguồn tài liệu trên đây là cơ sở giúp em hoàn thành bài tập này. Đây là nguồn tài liệu quý báu và bổ ích, giúp em có cái nhìn biện chứng, khoa học khi nghiên cứu về phong trào nông dân thế kỷ XVIII.
II. Phần nội dung.
Chương 1: Thế kỷ XVIII là thế kỷ của khởi nghĩa nông dân
Thế kỷ XVIII chứng kiến những phong trào nổi dậy khởi nghĩa quyết liệt và dai dẳng của nông dân Đàng Trong và Đàng Ngoài. Nhiều học giả đã phải dùng những tính từ mạnh như “ rầm rộ”, “đại cách mạng” để miêu tả về quy mô và mức độ của phong trào nông dân thời kỳ này. Có thể khẳng định rằng, trong lịch sử trung đại Việt Nam, thế kỷ XVIII được biết đến là thế kỷ của khởi nghĩa nông dân.
1. Phong trào nông dân nổ ra ở Đàng Ngoài.
Từ những năm 1735, những cuộc đấu tranh của nông dân Đàng Ngoài đã phát triển rộng khắp trở thành một cao trào khởi nghĩa ngày càng rầm rộ, mãnh liệt. Sử cũ ghi lại “bấy giờ trộm cướp nổi lên như ong”. Các biện pháp nhà nước Lê Trịnh không ngăn chặn nổi phong trào khởi nghĩa vũ trang đang cuồn cuộn dâng lên như nước vỡ bờ.
Năm 1735, Nguyễn Hữu Cầu lãnh đạo dân nghèo nổi dậy ở Thanh Hà (Hải Dương). Năm 1737, Nguyễn Dương Hưng hiệu triệu nông dân nổi lên ở Tam Đảo (Vĩnh Phúc). Năm 178, Lê Duy Mật nổi dậy ở kinh thành rồi lan vào Thanh Hóa, Nghệ An. Từ 1738, phong trào khởi nghĩa của nông dân Đàng Ngoài bước vào cao trào. Hàng loạt cuộc khởi nghĩa lớn, kéo dài cùng thời đều bùng nổ ở khắp nơi.
Phong trào không chỉ diễn ra ở một quy mô và địa bàn rộng lớn mà thời kỳ này, phong trào nông dân có sự phát triển theo hướng quyết liệt hơn, kéo dài hơn, lực lượng tham gia đông đảo hơn và có sự liên kết các phong trào trong quá trình đấu tranh.
2.Phong trào nông dân nổ ra ở Đàng Trong
Trước phong trào Tây Sơn, ở Đàng Trong, nhân dân đã nhiều lần nổi dậy, thu hút được nhiều tầng lớp tham gia. Năm 1695, ở Quảng Ngãi, Quy Nhơn đã bùng nổ cuộc đấu tranh đầu tiên do thương nhân cầm đầu. Năm 1747, ở Gia Định bùng nổ cuộc khởi nghĩa thứ hai do thương nhân Hoa kiều lãnh đạo. Dưới chế độ áp bức dân tộc của họ Nguyễn, nhân dân thiểu số ở Đàng Trong cũng nhiều lần nổi dậy đấu tranh. Trước khởi nghĩa Tây Sơn, những cuộc đấu tranh của người Chàm và người Hrê là tiêu biểu nhất vào các năm 1703, 1746, 1770. Mâu thuẫn của nông dân với địa chủ cũng đã cụ thể hóa bằng các cuộc bạo động của nông dân. Tiêu biểu trong thời kỳ này là khởi nghĩa của Lía, Hồ, Nhẫn cầm đầu. Tất cả những cuộc khởi nghĩa này phản ánh một tình trạng khủng hoảng trầm trọng của chế độ phong kiến Đàng Trong và là những dấu hiệu báo trước một phong trào đấu tranh rộng lớn, quyết liệt sắp bùng nổ.
Năm 1771, ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ đã hiệu triệu nhân dân phất cờ khởi nghĩa ở ấp Tây Sơn. Bằng chính sách khôn khéo, nghĩa quân đã nhanh chóng thu hút được nhiều tầng lớp ủng hộ, tiến tới đánh đổ chính quyền của chúa Nguyễn ở Đàng Trong (1777), đánh tan quân xâm lược Xiêm (1785), phát triển ra Đàng Ngoài, lật đổ chính quyền phong kiến thối nát của vua Lê, chúa Trịnh, đánh tan quân xâm lược Mãn Thanh (1789), thiết lập chính quyền nhà nước riêng, mở ra một triều đại mới trong lịch sử Việt Nam.
Đây là cuộc khởi nghĩa duy nhất đi tới thắng lợi cuối cùng, thiết lập nên một chính quyền phong kiến mới tiến bộ trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Từ ban đầu là một cuộc khởi nghĩa mang tính chất địa phương, khởi nghĩa Tây Sơn đã trở thành một trung tâm thu hút mạnh mẽ sự tham gia của đông đảo và sự ủng hộ hết mình của quần chúng nhân dân nên đã phát triển thành một phong trào có phạm vi rộng lớn trong cả nước.
Với hình thái phát triển đặc biệt, phong trào nông dân Tây sơn đã có sự kết hợp việc giải quyết vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc. Đây là cuộc khởi nghĩa nông dân duy nhất trong lịch sử Việt Nam thời phong kiến đã đánh bại được các tập đoàn phong kiến thối nát, phản động (vua Lê, chúa Trịnh, chúa Nguyễn), chấm dứt tình trạng đất nước chia cắt, đặt cơ sở cho sự thống nhất đất nước sau này. Có thế nói, phong trào nông dân Tây Sơn là đỉnh cao của phong trào nông dân thế kỷ XVIII.
CHƯƠNG II: Các chính sách của chính quyền Đàng Trong và Đàng Ngoài
Đối với một quốc gia phong kiến, nhất là các quốc gia phong kiến phương Đông, chính sách của Nhà nước đóng vai trò vô cùng quan trọng. Chính sách thích hợp, tiến bộ sẽ có tác dụng thúc đẩy kinh tế - xã hội ổn định và phát triển. Ngược lại, chế sách sai lầm, lạc hậu và phản động ắt dẫn đến cục diện đất nước rối loạn và khủng hoảng, uy hiếp nghiêm trọng đến đời sống của các tầng lớp nhân dân.
Chế độ phong kiến Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật ấy. Trong những thế kỷ XVI – XVII, nền kinh tế hàng hóa xuất hiện cùng với sự nảy sinh những tiền đề của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, tuy chưa đủ những điều kiện để tạo ra quan hệ sản xuất mới, làm tan rã phương thức sản xuất phong kiến, nhưng đã thể hiện khả năng và xu thế phát triển kinh tế và xã hội của nước ta bấy giờ. Nhưng từ đầu thế kỷ XVIII, giai cấp thống trị ở Đàng Ngoài và Đàng Trong với những chính sách thiển cận, mù quáng, bảo vệ lợi ích riêng của mình, đã đi ngược lại với lợi ích chung của nhân dân. Cùng với sự sa đọa, thối nát của bọn vua chúa, sự bóc lột của giai cấp địa chủ đã làm phá sản nền kinh tế tiểu nông, xô đẩy hàng loạt nông dân ra khỏi làng xã và đồng ruộng, dẫn đến sự phát triển mạnh mẽ của phong trào nông dân, đã có những tác động làm lay chuyển cơ cấu của chế độ phong kiến, mở đầu thời kỳ khủng hoảng của chế độ phong kiến Việt Nam. Nội dung chương này sẽ đi sâu làm rõ các chính sách lạc hậu và phản động mà chính quyền Đàng Ngoài và Đàng Trong đã thực hiện. Đây cũng là những nguyên nhân dẫn đến phong trào khởi nghĩa nông dân trong suốt thế kỷ này.
1.Chính sách chính trị lạc hậu, quan liêu và thối nát của chính quyền Đàng Ngoài và Đàng Trong
1.1. Ở Đàng Ngoài.
1.1.1. Nửa đầu thế kỷ XVIII.
Điển hình cho mô hình chính trị Đàng Ngoài trong thời gian này là sự tồn tại của chế độ “Vua Lê – Chúa Trịnh” mà thực quyền nằm trong tay phủ chúa. Thế kỷ XVIII có thể coi là thế kỷ chứng kiến cuộc sống ăn bám xa xỉ của bộ máy phong kiến quan liêu thối nát đương thời.
Đại biểu tối cao của nhà nước phong kiến và giai cấp thống trị lúc bấy giờ là chúa Trịnh. Sau khi cuộc chiến tranh với chúa Nguyễn vừa kết thúc (1672), chúa Trịnh trong khoảng thế kỷ XVII sang đầu thế kỷ XVIII, còn lo ổn định trật tự xã hội, chấn chỉnh lại bộ máy phong kiến để củng cố nền thống trị. Nhưng cũng trong giai đoạn ấy, đặc biệt là sang nửa đầu thế kỷ XVIII, từ thời Trịnh Cương (1709 – 1729) và Trịnh Giang (1729 – 1740), các chúa Trịnh ngày càng lo hưởng thụ, ăn chơi xa xỉ, rời bỏ dần những nhiệm vụ tích cực của Nhà nước phong kiến.
Trịnh Cương trong buổi đầu có chỉnh đốn, sửa đổi lại một số chế độ mong cứu vãn lại kỷ cương đang đổ nát của chế độ phong kiến, nhưng công việc chủ yếu của Trịnh Cương là lo cải tiến lại chính sách thuế khóa để tăng cường bóc lột một cách triệt để hơn. Trịnh Cương đã dùng tiền bóc lột ấy ném vào vào một cuộc sống rất xa hoa. Trịnh Cương rất say mê xây dựng đền chùa, cung điện ở các nơi danh lam thắng cảnh, để đi tuần du rất tốn kém.
Năm 1714, Cương sai sửa chữa, tu bổ chùa Phúc Long (Bắc Ninh), bắt nhân dân ba huyện Gia Định, Lang Tài, Quế Dương lao dịch vất vả trong vòng 6 năm liền mà không xong. Công việc xây dựng tốn kém và lao dịch cực khổ này đã gây ra sự ta thán, phẫn uất trong nhân dân. Vì vậy, năm 1718, một viên phó đô ngự sử đã làm sớ trình bày nỗi khổ của dân và đề nghị 4 việc: cấm xa xỉ, bãi việc tu tạo, bớt việc du quan, giảm việc tuần hạnh. Trịnh Cương và phủ liêu đều công nhận và khen ngợi bài sớ viết thẳng thắn, nhưng chi thi hành điều thứ nhất và điều 2 mà thôi. Đầu năm 1719, chúa Trịnh đã ra lệnh bãi bỏ công việc tu bổ chùa Phúc Long đã kéo dài hơn 6 năm lao khổ, tổn phí của nhân dân. Nhưng Trịnh Cương vẫn tiếp tục những cuộc tuần du chơi bời xa xỉ và sau đấy chẳng bao lâu lại tiến hành những công trình xây dựng tốn kém khác.
Năm 1717, Trịnh Cương đi tuần du về phía Tây, bắt quan lại địa phương phải tu sửa đường sá, xây dựng cung điện nhiều nơi, sai người xây chùa, lập cung. Nhân dân 8 huyên lân cận phải phục dịch liên miên trong những công trình xây dựng ấy. Bọn quan lại đôn đốc xây dựng còn lợi dụng những cơ hội này để vơ vét của cải của nhân dân, mua rẻ những nguyên vật liệu, nên cuối năm ấy phủ chúa phải ra lệnh cấm những hành động mua bán ức hiếp, bắt các quan mua vật liệu xây dựng phải trả tiền theo đúng thị giá.
Những công trình này xây dựng chưa xong thì cuối năm 1727 Trịnh Cương lại khởi công lập hàng cung ở Cổ Bi (nay thuộc Gia Lâm). Theo ý Cương, công trình xây dựng này phải tiến hành rất gấp, chỉ trong một tháng phải hoàn thành. Một lần nữa, nhân dân phải lao dịch vô cùng khổ sở, trong lúc trước đây, nạn đói hoành hành dữ dội ở Thanh Nghệ và đầu năm ấy nạn lụt phá hoại ở vùng Sơn Nam. Để có vật liệu xây dựng, Trịnh Cương còn kêu gọi bọn quan lại, hào phú chở các thứ gỗ quý về kinh cung tiến và sẽ được tính tiền thăng thưởng quan tước. Hai năm sau, 1729, Trong lúc nhân dân đang bị tổn hại nặng nề vị trận lụt và vỡ đê, việc làm đầu tiên của chúa Trịnh là lập tức điều động dân phu và quân lính ra tu bổ hành cung Cổ Bi và sửa chữa đường sá để kịp thời đi du ngoạn. Trịnh Cương là một chúa nổi tiếng về việc ăn chơi “quanh năm tuần du vô độ” và cũng nổi tiếng với những chính sách thuế khóa, những thủ đoạn bóc lột tinh vi, triệt để. Năm 1729, Trịnh Giang lên nối nghiệp chúa và cũng nối gót tiến vào cuộc sống hoang dâm, xa xỉ hơn nữa. Giang vốn là người “hôn ám, nhu nhược, không kham nổi việc nước” nên đình thần có nhiều người đã khuyên Trịnh Cương không nên lập làm chúa. Là người bất tài, lại biết rằng đình thần không phục, Giang nghi kỵ mọi người, rồi tìm cách ám hại những đại thần không phục hay không chịu về cùng vây cánh với mình và đưa bọn tay chân vào nắm giữ chính quyền, Giang rất tin dùng bọn hoạn quan như Hoàng Công Phụ, để bọn chúng lũng đoạn triều đình, ám hại những người chống đối và gây nên rất nhiều tệ nạn xấu xa trong triều đình, phủ chúa. Những trung thần ngay thẳng như Tô Thế Huy, Vũ Công Tuấn người bị giết, kẻ bị giáng bại. Những viên quan lại chấn thủ các nơi cũng bị Giang thay đổi luôn vì sợ trấn thủ một nơi lâu ngày có thể gây cơ sở địa phương, âm mưu chống đối lại họ Trịnh. Nói về Trịnh Giang, Việt sử lược có viết: “Nhưng mà Trịnh Giang lên nối nghiệp chúa, giết hại vua Lê, hại các quan đại thần như Nguyễn Công Hãng, Lê Anh Tuấn và làm thuế ngày càng làm lắm điều tàn ác. Tính ông ấy đã tàn ngược lại hay tiêu dùng xa xỉ, thuế má ngày một nhiều, mậu dịch ngày một nặng, dân tình khổ sở, giặc giã nổi lên khắp cả mọi nơi…” [4,348].
Trong lúc đó, cuộc sống của Giang rất sa đọa, đồi trụy. Năm 1732, Giang tự chế ra lễ nhạc ở phủ trường rất sang trọng và định rõ những nghi thức khi chúa đi tuần du, thăm viếng các nơi rất xa xỉ. Hàng ngày thị triều, đều dàn nhạc công ra phủ đường để cử nhạc chào mừng chúa. Hễ chúa đi đâu dàn nhạc công đi trước, mỗi lần tiến phát hay dừng nghỉ đều bắn ba phát đại bác. Giang đặc biết rất hiếu danh và hiếu sắc. Năm 1739, Giang cho tay chân giả làm sứ giả nhà Thanh mang ấn sang phong Giang làm An Nam quốc thượng vương ngang hàng với vua Lê. Giang “hoang dâm vô độ”, một lần bị sét đánh gần chết, từ đó hễ nghe tiếng sấm là run sợ. Lợi dụng việc đó, bọn hoạn quan Hoàng Công Phụ đánh lừa Giang là vì dâm báo, chỉ có đào lỗ chui xuống đất ở mới tránh khỏi. Giang tin lời Phụ, sai người làm cung Thưởng Trì (xã Hoàng Mai, huyện Thanh Trì) ở dưới đất không dám ra ngoài. Từ đó, Giang sống cũng như chết, và bọn hoạn quan Hoàng Công Phụ nắm giữ mọi quyền bính, mặc sức hoành hành, cướp bóc, đưa triều đình, phủ chúa vào một tình trạng hỗn loạn, thối nát cực độ.
Trịnh Giang cũng là người nổi tiếng về việc dinh tạo tốn kém phục vụ cho cuộc sống ăn chơi xa xỉ. Năm 1730, Giang cho tu sửa chùa Quỳnh Lâm (ở núi Quỳnh Lâm, xã Hà Lôi, huyện Đông Triều, trấn Hải Dương, nay là huyện Đông Triều thuộc Quảng Ninh) và Sùng Nghiêm (xã Nam Giản, huyện Chí Linh, trấn Hải Dương, nay là huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương). Giang bắt triệt hạ phủ Cổ Bi, lấy gỗ chở về Hải Dương để tu sửa hai ngôi chùa này. Đây là một công trình xây dựng rất tốn kém. Nhân dân ba huyện Đông Triều, Chí Linh, Thủy Đường (nay là huyện Thủy Nguyên, Kiến An) phải đào sông, kéo gỗ, xây đường chở gạch đá rất khổ sở. Sử cũ chép rằng, công trình này thường có hàng vạn dân phu phục vụ suốt ngày đêm không nghỉ. Năm 1736, Giang lại sai khởi công hai chùa Hồ Thiên (huyện Bảo Lộc, trấn Kinh Bắc, nay là huyện Lạng Giang, Bắc Giang) và Hương Hải (ở xã Phụ Vệ, huyện Chí Linh). Riêng ngôi chùa Hương Hải, nhân dân huyện Chí Linh và cả các huyện lân cận như Giáp Sơn (nay là Kim Môn), Kim Thành (nay là Kim Thành – Hải Dương), Thủy Đường (nay là Thủy Nguyên), Đông Triều (nay thuộc Quảng Ninh) phải lao dịch vất vả. Nhân dân Thanh Hóa xa xôi cũng phải cung cấp gỗ, lim, đá thanh cho những công trình xây dựng này. Năm 1737, Giang cho đúc tượng Phật lớn ở chùa Quỳnh Lâm, nhưng nhà nước thiếu đồng nên Giang bắt các quan phải nộp đồng nhiều ít tùy theo phẩm tước cao thấp. Ngoài ra, Giang còn bắt xây dựng và tu sửa các ngôi chùa khác ở các nơi khác nữa.
Giang xây dựng, tu sửa rất nhiều chùa như vậy không phải chỉ xuất phát từ lòng tôn sùng đạo Phật, mà còn là nhu cầu ăn chơi, ngoạn cảnh của một ông chúa ăn chơi xa xỉ. Dưới mắt Giang, chùa trước hết là những nơi thắng cảnh, những mục tiêu của những cuộc tuần du hoang phí.
Giang không những thích xây chùa, mà còn thích xây dựng nhiều phủ đệ và đền thờ ở nhiều nơi. Riêng ở quê ngoại của Giang là xã Tử Dương thuộc huyện Đông Yên (Khoái Châu, Hưng Yên) và xã Mỹ Thữ thuộc huyện Đường Hào (nay là huyện Bình Giang, Hải Dương), vốn và nguyên quán và trú quán của bà mẹ họ Vũ, Giang cho xây dựng nhiều phủ đệ, lập nhiều nhà thờ rất nguy nga, tráng lệ. Ngay ở quê hương của tên hoạn quan Hoàng Công Phụ là xã Quế Trạo, huyện Quế Dương (nay là Quế Dương, Bắc Ninh), Giang cũng cho xây dinh đệ to lớn để thỉnh thoảng đi tuần du qua thăm hỏi.
Những công trình tốn kém ấy lại tiến hành vào những lúc nạn đói kém thường xuyên xảy ra hàng năm và nhân dân bị bần cùng, phá sản ngày một nghiêm trọng. Cung đốn vật liệu vất vả vào những công trình xây dựng ấy là những gánh nặng thêm đổ lên đầu những người nông dan đã gần kiệt sức. Vì vậy, năm 1740, Trịnh Doanh lên nối nghiệp, giữa lúc phong trào nông dân đang khởi nghĩa khắp nơi, đã phải ra lệnh đình chỉ mọi cô