Lịch sử phát triển hàng triệu năm của loài người đã được đánh dấu bằng vô số những thành quả trong đó có tập hợp các mối quan hệ được hình thành trong xã hội. Tính văn minh của loài người thể hiện ở việc phát triển cộng đồng từ các mối quan hệ từ thấp đến cao. Có thể nói gia đình là đơn vị tổ chức cơ bản nhất của xã hội. Gia đình là một cộng đồng người sống chung và gắn bó với nhau bởi các mối quan hệ tình cảm, quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng hoặc quan hệ giáo dục. Tuy nhiên theo quan niệm hiện đại về gia đình thì hôn nhân là tiền đề cơ bản để tạo nên một gia đình. Vấn đề hôn nhân và gia đình dần được xã hội quan tâm nhiều hơn, đặc biệt trong lịch sử phạm trù “hôn nhân” đã được xuất hiện khá lâu. Từ thời Trung Cổ với các chính sách của nhà thờ Kitô thì vấn đề thành lập gia đình giữa nam và nữ cũng đã được đề cập đến.
Cùng với sự ra đời của nhà nước, Pháp luật luôn đóng vai trò là cán cân công lý, là công cụ hữu ích giúp nhà nước quản lý tốt bộ máy pháp quyền. Vấn đề quan hệ giữa các giai cấp, các giai tầng và các nhóm xã hội là những nhân tố quyết định trực tiếp đối với Nhà nước và Pháp luật. Ở hầu hết các nước, hôn nhân và gia đình đã được gán với một bộ luật quan trọng trong hệ thống luật pháp. Ở Việt Nam cũng vậy, hiện nay nước ta đang đưa vào sử dụng bộ luât “hôn nhân và gia đình” – bộ luật được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Khóa X, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 09 tháng 6 năm 2000. Lịch sử cũng đã ghi nhận “Quốc triều hình luật” hay còn gọi là “Luật Hồng Đức” của triều đình nhà Lê với nhiều điểm tích cực mà trên cơ sơ đó Luật pháp nước ta hiện nay vẫn còn kế thừa và phát huy. Vấn đề về quan hệ hôn nhân và gia đình trong bộ luật Hồng Đức là một trong những điểm tiến bộ đáng kể. Nghiên cứu về những giá trị hữu ích trên và ứng dụng vào thực tiễn Luật pháp nước ta hiện nay sẽ mang lại nhiều kết quả trong việc phát triển kinh tế-văn hóa và xã hội. Nếu có một hệ thống luật pháp vững chắc, chặt chẽ và phục vụ lợi ích cho đông đảo các giai tầng trong xã hội thì chắc hẳn xã hội ấy sẽ phát triển một cách thịnh vượng và có chiều sâu.
Đó chính là lý do để em quyết định nghiên cứu đề tài: “Quy định về hôn nhân của luật Hồng Đức và luật hôn nhân và gia đình Việt Nam (2000) – sự kế thừa và phát huy”
21 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 7937 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Quy định về hôn nhân của luật Hồng Đức và luật hôn nhân và gia đình Việt Nam (2000) – Sự kế thừa và phát huy, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Lịch sử phát triển hàng triệu năm của loài người đã được đánh dấu bằng vô số những thành quả trong đó có tập hợp các mối quan hệ được hình thành trong xã hội. Tính văn minh của loài người thể hiện ở việc phát triển cộng đồng từ các mối quan hệ từ thấp đến cao. Có thể nói gia đình là đơn vị tổ chức cơ bản nhất của xã hội. Gia đình là một cộng đồng người sống chung và gắn bó với nhau bởi các mối quan hệ tình cảm, quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng hoặc quan hệ giáo dục. Tuy nhiên theo quan niệm hiện đại về gia đình thì hôn nhân là tiền đề cơ bản để tạo nên một gia đình. Vấn đề hôn nhân và gia đình dần được xã hội quan tâm nhiều hơn, đặc biệt trong lịch sử phạm trù “hôn nhân” đã được xuất hiện khá lâu. Từ thời Trung Cổ với các chính sách của nhà thờ Kitô thì vấn đề thành lập gia đình giữa nam và nữ cũng đã được đề cập đến.
Cùng với sự ra đời của nhà nước, Pháp luật luôn đóng vai trò là cán cân công lý, là công cụ hữu ích giúp nhà nước quản lý tốt bộ máy pháp quyền. Vấn đề quan hệ giữa các giai cấp, các giai tầng và các nhóm xã hội là những nhân tố quyết định trực tiếp đối với Nhà nước và Pháp luật. Ở hầu hết các nước, hôn nhân và gia đình đã được gán với một bộ luật quan trọng trong hệ thống luật pháp. Ở Việt Nam cũng vậy, hiện nay nước ta đang đưa vào sử dụng bộ luât “hôn nhân và gia đình” – bộ luật được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Khóa X, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 09 tháng 6 năm 2000. Lịch sử cũng đã ghi nhận “Quốc triều hình luật” hay còn gọi là “Luật Hồng Đức” của triều đình nhà Lê với nhiều điểm tích cực mà trên cơ sơ đó Luật pháp nước ta hiện nay vẫn còn kế thừa và phát huy. Vấn đề về quan hệ hôn nhân và gia đình trong bộ luật Hồng Đức là một trong những điểm tiến bộ đáng kể. Nghiên cứu về những giá trị hữu ích trên và ứng dụng vào thực tiễn Luật pháp nước ta hiện nay sẽ mang lại nhiều kết quả trong việc phát triển kinh tế-văn hóa và xã hội. Nếu có một hệ thống luật pháp vững chắc, chặt chẽ và phục vụ lợi ích cho đông đảo các giai tầng trong xã hội thì chắc hẳn xã hội ấy sẽ phát triển một cách thịnh vượng và có chiều sâu.
Đó chính là lý do để em quyết định nghiên cứu đề tài: “Quy định về hôn nhân của luật Hồng Đức và luật hôn nhân và gia đình Việt Nam (2000) – sự kế thừa và phát huy”
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Tiểu luận đi sâu nghiên cứu về 2 bộ luật của hai thời đại khác nhau là bộ luật Hồng Đức (Thời nhà Lê) và bộ luật hôn nhân và gia đìnhViệt Nam (2000)
Tiểu luận tập trung phân tích về quan hệ hôn nhân và gia đình trong 2 bộ luật trên.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu nhằm phân tích một số điểm tích cực về quan hệ hôn nhân và gia đình trong bộ luật Hồng Đức qua đó thấy được sự kế thừa và phát huy vào luật pháp nước ta hiện nay. Đồng thời tìm ra một số giá trị mới khác trong bộ luật Hồng Đức mà Luật pháp nước ta chưa áp dụng.
4. Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng phương pháp luận cơ bản là “chủ nghĩa duy vật biện chứng” và “chủ nghĩa duy vật lich sử”.
Sử dụng các phương pháp phân tích văn bản, tổng hợp, thống kê, so sánh…để đi sâu nghiên cứu đề tài.
Sử dụng tài liệu tham khảo từ sách vở và một số trang web chính thức.
MỤC LỤC
CHƯƠNG 1: TÌM HIỂU CHUNG VỀ LUẬT HỒNG ĐỨC VÀ LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM (2000)
1.1. Sự ra đời và phát triển
1.1.1. Luật Hồng Đức (Quốc triều hình luật)
Sự phát triển cao độ của chế độ phong kiến tập quyền thời Lê sơ đề ra yêu cầu xây dựng hệ thống pháp luật hoàn chỉnh để cố định những trật tự xã hội có lợi cho giai cấp thống trị, để bảo vệ và bênh vực nền chuyên chính của giai cấp phong kiến. Bộ Quốc triều hình luật (tức Luật Hồng Đức) đã ra đời trong hoàn cảnh lịch sử ấy, nhằm đáp ứng lại những yêu cầu phát triển sang giai đoạn mới của chế độ phong kiến Việt Nam. Bộ Luật Hồng Đức đã trải qua một quá trình xây dựng lâu dài từ thời Lê Thái Tổ, đến thời Lê Thánh Tông mới hoàn thành.
Ngay sau khi lên ngôi vua, trong năm 1428, Lê Lợi đã cùng với các đại thần bàn định một số luật lệ về kiện tụng và phân chia ruộng đất của thôn xã. Những thứ hình phạt, những lễ ân giảm trong Luật Hồng Đức (49 điều thuộc chương Danh lệ) phần lớn đều được quy định trong thời Lê Thái Tổ. Ba mươi hai điều luật trong chương Điền sản để pháp chế hóa các thể lệ quân điền cũng được quy định chặt chẽ trong những năm Thuận Thiên (1428-1433) và được thực hiện suốt trong thời Lê sơ.
Tuy vậy chỉ mới là bước đầu xây dựng, nên luật pháp thời Thái Tổ còn có nhiều thiếu sót nhất là về phương diện tư hữu tài sản. Những thiếu sót ấy sẽ được các triều vua sau bổ sung thêm.
Trong thời Thái Tông (1434-1442), một số nguyên tắc xét xử các vụ kiện cáo và một số điều luật nghiêm cấm nạn hối lộ, hành động giao thiệp với nước ngoài được xây dựng thêm.
Đến năm 1449, Nhân Tông ban hành 14 điều luật khẳng định và bảo vệ quyền tư hữu ruộng đất, quy định nguyên tắc xét xử những hành động xâm phạm đến quyền tư hữu ruộng đất. Sang thời Thánh Tông, triều đình liên tiếp ban bố nhiều điều lệ về kế thừa hương hỏa, về việc bảo vệ tôn ty trật tự và đạo đức phong kiến, về việc trấn áp mọi hành vi chống đối hay làm nguy hại đến địa vị thống trị của giai cấp phong kiến. Sách Hồng Đức thiện chính thư và Thiên Nam dư hạ tập còn ghi chép lại nhiều điều luật ban bố và thi hành trong thời Thánh Tông, theo thứ tự từng năm. Riêng trong Thiên Nam dư hạ tập, còn ghi lại 40 điều luật thi hành trong năm Quang Thuận (1460-1469) và 61 điều trong năm Hồng Đức (1470-1497).
Năm 1483, Thánh Tông sai các triều thần sưu tập tất cả các điều luật, các phép lệnh đó ban bố và thi hành trong các triều vua thời Lê sơ, san định lại, xây dựng thành một bộ pháp điển hoàn chỉnh. Đó là bộ Quốc triều hình luật, mà người ta thường gọi là bộ Luật Hồng Đức, để đề cao vai trò xây dựng của Lê Thánh Tông. Thực ra bộ luật đó không phải do Lê Thánh Tông sáng tạo ra, cũng không phải được xây dựng riêng trong những năm Hồng Đức (1470-1497), mà là sản phẩm của một thời kỳ phát triển cực thịnh của chế độ phong kiến tập quyền Việt Nam, trong cả thời Lê sơ. Công lao của triều vua Lê Thánh Tông là đã san định các luật lệ của những triều vua trước để hoàn thành bước xây dựng bộ pháp điển ấy.
1.1.2. Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam (2000)
Việc ban hành luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 là cả một quá trình kế thừa và phát huy lâu dài từ các bộ luật ở các thời kỳ trước. Từ các bộ luật của thời kỳ thực dân phong kiến: Bộ luật Bắc Kỳ 1931, Bộ luật Trung Kỳ 1936; Luật gia đình 1959 của Ngô Đình Diệm, Dân luật 1972 của Nguyễn Văn Thiệu- Đến các sắc lệnh như: SL 10-10-1945, 97-SL ngày 22-05-1950, 159-SL ngày 17-11-1950…và các Hiến Pháp của các thời kỳ như HP 1946, HP 1980, HP 1992…
Nhằm đáp ứng một cách kịp thời các điều chỉnh pháp luật, các quan hệ hôn nhân và gia đình trong giai đoạn mới. Quốc hội khóa X tại kỳ họp thứ VII đã thông qua luật Hôn nhân và gia đình mới ngày 9/6/2000 và được công bố vào ngày 22/6/2000
1.2. Chức năng của từng bộ luật
1.2.1. Đặc điểm nội dung
1.2.1.1. Luật Hồng Đức (Quốc triều hình luật)
Hệ thống chương điều
Quốc triều hình luật trong cuốn sách A.341 có 13 chương, ghi chép trong 6 quyển (5 quyển có 2 chương/quyển và 1 quyển có 3 chương), gồm 722 điều. Ngoài ra, trước khi đi vào các chương và điều thì Quốc triều hình luật còn có các đồ biểu quy định về các hạng để tang và tang phục, kích thước và các hình cụ (roi, trượng, gông, dây sắt v.v).
Bố trí cụ thể như sau
1.Chương Danh lệ: 49 điều quy định về những vấn đề cơ bản có tính chất chi phối nội dung các chương điều khác (quy định về thập ác, ngũ hình, bát nghị, chuộc tội bằng tiền v.v)
2.Chương Vệ cấm: 47 điều quy định về việc bảo vệ cung cấm, kinh thành và các tội về cấm vệ.
3.Chương Vi chế: 144 điều quy định về hình phạt cho các hành vi sai trái của quan lại, các tội về chức vụ.
4.Chương Quân chính: 43 điều quy định về sự trừng phạt các hành vi sai trái của tướng, sĩ, các tội quân sự.
5.Chương Hộ hôn: 58 điều quy định về hộ tịch, hộ khẩu, hôn nhân-gia đình và các tội phạm trong các lĩnh vực này.
6.Chương Điền sản: 59 điều, trong đó 32 điều ban đầu và 27 điều bổ sung sau (14 điều về điền sản mới tăng thêm, 4 điều về luật hương hỏa, 9 điều về châm chước bổ sung luật hương hỏa) quy định về ruộng đất, thừa kế, hương hỏa và các tội phạm trong lĩnh vực này.
7.Chương Thông gian: 10 điều quy định về các tội phạm tình dục.
8.Chương Đạo tặc: 54 điều quy định về các tội trộm cướp, giết người và một số tội chính trị như phản nước hại vua.
9.Chương Đấu tụng: 50 điều quy định về các nhóm tội đánh nhau (ẩu đả) và các tội vu cáo, lăng mạ v.v
10.Chương Trá ngụy: 38 điều quy định các tội giả mạo, lừa dối.
11.Chương Tạp luật: 92 điều quy định về các tội không thuộc các nhóm tội danh trên đây.
12.Chương Bộ vong: 13 điều quy định về việc bắt tội phạm chạy trốn và các tội thuộc lĩnh vực này.
13.Chương Đoán ngục: 65 điều quy định về việc xử án, giam giữ can phạm và các tội phạm trong lĩnh vực này.
1.2.1.2. Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam (2000)
Hệ thống chương điều
Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000 bao gồm lời mở đầu, 13 chương và 110 điều. Bố trí cụ thể như sau:
+ Chương I: Những quy định chung
+ Chương II: Kết hôn
+ Chương III: Quan hệ giữa vợ và chồng
+ Chương IV: Quan hệ giữa cha mẹ và con
+ Chương V: Quan hệ giữa ông bà nội, ông bà ngoại và cháu; giữa anh, chị, em và giữa các thành viên trong gia đình
+ Chương VI: Cấp dưỡng
+ Chương VII: Xác định cha, mẹ, con
+ Chương VIII - Con nuôi
+ Chương IX: Giám hộ giữa các thành viên trong gia đình
+ Chương X: Ly hôn
+ Chương XI: Quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài
1.2.2. Chức năng
1.2.2.1. Luật Hồng Đức (Quốc triều hình luật)
Trong lịch sử tồn tại và phát triển hàng nghìn năm, các nhà nước Quân chủ và Phong kiến Việt Nam đã nhận thức được vai trò của Pháp luật và quan tâm, đầu tư cho việc ban hành Pháp luật. Hệ thống Pháp luật Việt Nam thời kỳ này gồm các bộ luật tổng hợp và các văn bản Pháp luật khác như: Chiếu, Chỉ, Lệ, Lệnh, Dụ, Sắc.
Bộ luật Quốc triều hình luật được ban hành dưới thời Lê Thánh Tông (1483) được hình thành trên cơ sở sưu tập tất cả các điều luật, các văn bản Pháp luật đã được ban bố và lưu hành dưới các thời Vua trước, được sửa chửa, bổ sung và san định lại hoàn chỉnh. Đây là bộ luật được ban hành trong giai đoạn phát triển mạnh mẽ của chế độ Phong kiến trung ương tập quyền. Quốc triều hình luật không chỉ là bộ luật chính thức của Việt Nam dưới thời Lê sơ mà còn được các thời đại sau này sử dụng cho đến hết TK thứ XVIII.
1.2.2.2. Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam (2000)
Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000 góp phần xây dựng, hoàn thiện và bảo vệ chế độ Hôn nhân và gia đình tiến bộ, xây dựng chuẩn mực pháp lý cho cách ứng xử của các thành viên trong gia đình, bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của các thành viên trong gia đình, kế thừa và phát huy truyền thống đạo đức tốt đẹp của gia đình Việt Nam nhằm xây dựng gia đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc bền vững.
Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000 qui định chế độ hôn nhân-gia đình và trách nhiệm của công dân – Nhà nước - Xã hội trong việc xây dựng, cũng cố chế độ Hôn nhân-gia đình Việt Nam.
Tiểu kết
Hai bộ luật nêu trên thể hiện rõ bản chất riêng của từng xã hội, mang đậm nét văn hóa đặc trưng của xã hội. Có thể thấy rằng, trong điều kiện phát triển của xã hội Phong kiến với nền kinh tế trọng nông, các chế định, chế tài…nghiêng hẳn về việc bảo vệ chế độ và việc duy trì xã hội phát triển theo xu hướng của giai cấp thống trị. Quốc triều hình luật (Luật Hồng Đức) có nhiều điều luật mang đậm tư tưởng Nho giáo, những vấn đề về quan hệ gia đình, luật điều chỉnh hành vi cư xử của con người sao cho phù hợp với đạo đức.Trong đó có nhiều điểm vẫn đang được xã hội chấp nhận và được coi là những điểm tiến bộ cần phát huy.
Quốc triều hình luật (Luật Hồng Đức) được xây dựng qua nhiều triều đại khác nhau, mà cụ thể là được chọn lọc từ các triều đại như: Thái Tông(1434-1442), Nhân Tông(1449), Thánh Tông(1483). Đây là một giai đoạn phát triển cao độ của chế độ Phong kiến tập quyền Việt Nam. Trong đó công lao của triều vua Lê Thánh Tông là đã san định các luật lệ của những triều vua trước để hoàn thành bước xây dựng bộ pháp điển Quốc triều hình luật (Luật Hồng Đức).
Bộ luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000 cũng có một số điểm ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo, điều này thể hiện khá rõ thông qua một số chương liên quan đến quan hệ gia đình, quan hệ hôn nhân.
Hệ thống chương điều của bộ luật Hồng Đức được bố trí khá hợp lý với 13 chương và 722 điều. Trong đó các quy định về quan hệ hôn nhân và gia đình được tập trung chủ yếu ở chương Hộ hôn và chương Điền sản. Bộ luật hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000 có hệ thống chương điều với các qui định khá rõ ràng, các mục được phân ra cụ thể với nhiều lỉnh vực riêng trong quan hệ hôn nhân và gia đình như: kết hôn, ly hôn, quan hệ vợ-chồng, quan hệ cha mẹ-con cái…
CHƯƠNG 2: QUY ĐỊNH QUAN HỆ HÔN NHÂN TRONG LUẬT HỒNG ĐỨC VÀ LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM (2000)
2.1. Những quy định tích cực trong hôn nhân
2.1.1. Những quy định chung
Luật Hồng Đức(Quốc triều hình luật)
Độ tuổi: Mặc dù luật Hồng Đức không quy định rõ ràng về độ tuổi kết hôn, tuy nhiên theo “Hồng Đức giá nghi lễ” có chỉ rõ con gái từ 16 tuổi trở lên, con trai từ 18 tuổi trở lên mới được dựng vợ gã chồng. Đây là quy định nhằm hạn chế nạn tảo hôn trong xã hội
Những trường hợp không đươc kết hôn: Không được kết hôn giữa những người trong họ hàng thân thích (điều 319), cấm kết hôn khi đang có tang cha, mẹ hay chồng (điều 317), cấm kết hôn khi ông, bà, cha hay mẹ đang bị giam cầm, tù tội (điều 318), cấm anh (em) lấy vợ góa của em (anh), trò lấy vợ góa của thầy (điều 324), với một số quy định khác trong các điều 316, 323, 334, 338, 339.
Đăng ký kết hôn: Luật Hồng Đức quy định về hình thức và thủ tục kết hôn như đính hôn và thành hôn (các điều 314, 315, 322). Điều 314 quy định: Việc kết hôn chỉ được coi là hợp pháp khi được sự đồng ý của 2 bên cha mẹ, có việc trao đổi sính lễ trước sự có mặt của họ hàng hai bên.
Luật Hồng Đức cho thấy cuộc hôn nhân có giá trị pháp lý từ sau lễ đính hôn. Ví dụ điều 315 quy định: Gả con gái đã nhận đồ sính lễ mà lại thôi không gả nữa thì phải phạt 80 trượng…Còn người con gái phải gả cho người hỏi trước. Tuy nhiên, nếu trong thời gian từ lễ đính hôn cho đến khi thành hôn mà một trong hai bên bị ác tật hay phạm tội thì bên kia có quyền từ hôn.
Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam(2000)
Điều kiện kết hôn. Nam nữ kết hôn với nhau phải tuân theo các điều kiện sau đây: (Điều 9)
1. Nam từ hai mươi tuổi trở lên, nữ từ mười tám tuổi trở lên;
2. Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định, không bên nào được ép buộc, lừa dối bên nào; không ai được cưỡng ép hoặc cản trở;
3. Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn quy định tại Điều 10 của Luật này.
Tổ chức đăng ký kết hôn: Khi tổ chức đăng ký kết hôn phải có mặt hai bên nam, nữ kết hôn. Đại diện cơ quan đăng ký kết hôn yêu cầu hai bên cho biết ý muốn tự nguyện kết hôn, nếu hai bên đồng ý kết hôn thì đại diện cơ quan đăng ký kết hôn trao Giấy chứng nhận kết hôn cho hai bên.
Những trường hợp không đươc kết hôn: (Điều 10) Việc kết hôn bị cấm trong những trường hợp sau đây:
1. Người đang có vợ hoặc có chồng;
2. Người mất năng lực hành vi dân sự;
3. Giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời;
4. Giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, bố chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, bố dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng;
5. Giữa những người cùng giới tính.
Đăng ký kết hôn: Điều 11
1. Việc kết hôn phải được đăng ký và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền (sau đây gọi là cơ quan đăng ký kết hôn) thực hiện theo nghi thức quy định tại Điều 14 của Luật này.
Mọi nghi thức kết hôn không theo quy định tại Điều 14 của Luật này đều không có giá trị pháp lý.
Nam, nữ không đăng ký kết hôn mà chung sống với nhau như vợ chồng thì không được pháp luật công nhận là vợ chồng.
Vợ chồng đã ly hôn muốn kết hôn lại với nhau cũng phải đăng ký kết hôn.
2. Chính phủ quy định việc đăng ký kết hôn ở vùng sâu, vùng xa.
2.1.2. Chấm dứt hôn nhân
Luật Hồng Đức (Quốc triều hình luật)
Cưỡng chế ly hôn:
Buộc phải ly hôn (các điều 317, 318, 323, 324, 334) do hôn nhân đã vi phạm các quy định cấm kết hôn.
Điều 310 quy định người chồng phải ly hôn khi người vợ phạm phải điều nghĩa tuyệt (đoạn tuyệt hết ân nghĩa vợ chồng) như: không con, ghen tuông, ác tật (mắc các bệnh như phong, hủi), dâm đãng, không kính cha mẹ, lắm lời, trộm cắp.
Ly hôn do nguyên nhân một phía:
Ly hôn do lỗi của người chồng: Các điều 308 / 333 quy định người vợ có quyền trình quan xin ly hôn khi: chồng đã bỏ lửng vợ 5 tháng không đi lại (có quan xã làm chứng), trừ khi chồng có việc phải đi xa hay nếu con rể lấy điều thị phi mắng nhiếc cha mẹ vợ.
Ly hôn do nguyên nhân hai phía: Điều 167 - Hồng Đức thiện chính thư - quy định rõ hình thức thuận tình ly hôn: Giấy ly hôn được làm dưới hình thức hợp đồng, người vợ và người chồng mỗi bên giữ một bản làm bằng.
Những trường hợp không được phép ly hôn: Sẽ không thể ly hôn được nếu như khi phạm vào điều thất xuất mà người vợ, chồng đang ở trong ba trường hợp (tam bất khứ): vợ đã để tang nhà chồng 3 năm; khi lấy nhau nghèo mà sau giàu có; khi lấy nhau có bà con mà khi bỏ lại không có bà con để trở về. Đồng thời, khi hai bên vợ chồng đang có tang cha mẹ thì vấn đề ly hôn cũng không được đặt ra. Khi ly hôn, con cái thường thuộc về chồng, nhưng nếu muốn giữ con, người vợ có quyền đòi chia một nửa số con.
Phân chia tài sản sau ly hôn: Thông thường, nếu ly hôn không do lỗi của người vợ thì phần tài sản riêng (gồm cả điền sản và tư trang), người vợ có quyền mang về nhà mình. Trong trường hợp có lỗi; thường thì tự ý người vợ không đem theo tài sản hoặc trong một vài trường hợp luật định người vợ buộc phải để lại tài sản đó cho chồng, "người vợ mà đi gian dâm, tài sản phải trả về cho chồng".
Sau ly hôn, qua hệ thân nhân giữa vợ và chồng chấm dứt, hai bên có quyền kết hôn với người khác. Khi ly hôn người vợ có quyền sở hữu đối với tài sản riêng của mình (của hồi môn) và được chia một số tài sản chung do 2 vợ chồng gây dựng nên (Điều 373, 374)
Ngoài ra, việc phân chia và thừa kế tài sản còn tùy thuộc vào việc vợ chồng có con hay không có con. Pháp luật quy định cụ thể ở các điều 374, 375 và 376 (Quốc triều hình luật). Tài sản của vợ chồng được hình thành từ 3 nguồn: Tài sản của chồng thừa kế từ gia đình nhà chồng; tài sản của người vợ thừa kế từ gia đình nhà vợ và tài sản do hai vợ chồng tạo dựng trong quá trình hôn nhân (tài sản chung). Khi gia đình tồn tại, tất cả tài sản được coi là của chung. Khi ly hôn, tài sản của ai, người đó được nhận riêng và chia đôi tài sản chung của hai người.
Còn khi chồng chết trước (hay vợ chết trước) tài sản có do bố mẹ dành cho được chia làm hai phần bằng nhau, một phần dành cho gia đình bên chồng (vợ) để lo việc tế lễ (bố mẹ bên chồng (vợ), hoặc người thừa tự bên chồng (vợ) giữ). Một phần dành cho vợ (chồng) để phụng dưỡng một đời (nhưng không có quyền sở hữu). Khi người vợ chồng, chết thì phần tài sản này giao lại cho gia đình bên chồng.
Đối với tài sản do hai người tạo ra cũng chia làm hai phần bằng nhau: một phần dành cho vợ (chồng) làm của riêng; một phần dành cho vợ (chồng) chia ra như sau: 1/3 dành cho gia đình nhà chồng (vợ) để lo việc tế lễ; 2/3 dành cho vợ (chồng) để phụng dưỡng một đời, không được làm của riêng, khi chết giao lại cho gia đình bên chồng. "Quốc triều hình luật" không nhắc tới động sản, chỉ đề cập tới điền sản, theo Vũ Văn Mẫu: "Điểm này cũng dễ hiểu vì trong một nền kinh tế trọng nông, các động sản khác chỉ là những vật có ít giá trị". Song trong "Hồng Đức thiện chính thư" (điều 258-259) đã không gạt hẳn các động sản ra ngoài thừa kế. "Đến như nhà cửa chỉ có thể chia làm hai, người sống được một phần làm chỗ ở, người chết được một phần làm nơi tế lễ". "Còn đến của nổi, phải để cung vào việc tế tự và theo lệ dân trả nợ miệng, còn thừa bao nhiêu cũng chia cho vợ con". "Của nổi" ở đâ