Hơn 20 năm quá trình thực hiện đổi mới, nền kinh tế Việt Nam đã có những chuyển biến rõ rệt. Từ một nước xã hội chủ nghĩa nghèo nàn và lạc hậu vừa bước ra khỏi chế độ bao cấp, Việt Nam đã từng bước tiến lên xây dựng một nền kinh tế đa ngành, đa dạng hóa và hiện nay phát triển khá “nóng” trong lĩnh vực đầu tư, đây là một vấn đề đang được nhiều doanh nghiệp, cá nhân và nhà nước Việt Nam rất quan tâm, đặc biệt là trong bối cảnh đất nước ta đang trong quá trình phát triển mạnh mẽ và đang từng bước hội nhập với nền kinh tế quốc tế. Các doanh nghiệp, cá nhân đã chọn lựa đầu tư để sử dụng hiệu quả tài sản của mình, từ đó góp phần tăng tài sản của nền kinh tế, thúc đẩy quá trình lưu thông, phân phối các sản phẩm, đóng góp vào ngân sách nhà nước, giải quyết được nhiều việc làm cho người lao động…
Song, trên thực tế, đã có không ít các cá nhân, các doanh nghiệp Việt Nam còn hiểu chưa đúng về đầu tư, còn lúng túng trong việc xây dựng, triển khai và quản lý các dự án đầu tư, chưa sử dụng và khai thác có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư, ngoài ra vẫn còn có nhiều thiếu sót trong các khâu của quá trình thực hiện các dự án đầu tư và nhất là đầu tư trong các lĩnh vực kinh tế…điều đó đã dẫn đến tình trạng thất thoát và lãng phí trong các dự án đầu tư một cách đáng tiếc. Vì thế, để cho lĩnh vực “đầu tư” của Việt Nam phát triển ngày càng mạnh mẽ và bền vững thì công việc xây dựng, phát triển các dự án đầu tư cần phải có hướng đi rõ ràng và cần một sự nỗ lực phấn đấu không ngừng của doanh nghiệp, cá nhân, nhà nước ta.
58 trang |
Chia sẻ: ducpro | Lượt xem: 3632 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thất thoát và lãng phí trong đầu tư - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA KINH TẾ ĐẦU TƯ
-----*****-----
BÀI THẢO LUẬN
Đề tài:
Thất thoát và lãng phí trong đầu tư. Thực trạng và giải pháp.
Nhóm sinh viên : nhóm 8
Lớp tín chỉ : KTĐT – 2
Khóa : 48
Hệ : Chính quy
Hà nội, tháng 9 năm 2008
Danh sách thành viên nhóm 8
Họ và tên
Lớp chuyên nghành
Lò Thị Mai Phương
Kinh tế đầu tư 48A
Vũ Tố Quyên
Kinh tế đầu tư 48A
Nguyễn Thị Hồng Nhung
Kinh tế đầu tư 48A
Lê Thi Minh Thúy
Kinh tế đầu tư 48A
Vũ Đức Linh
Kinh tế đầu tư 48A
Danh mục các từ viết tắt
FDI
Foreign Direct Investment
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
WTO
World Trade Organisation
Tổ chức thương mại thế giới
DN
Doanh nghiệp
DNNN
Doanh nghiệp nhà nước
XDCB
Xây dựng cơ bản
KCN
Khu công nghiệp
NSNN
Ngân sách Nhà nước
WB
World Bank
Ngân hàng thế giới
TTNN
Thanh tra Nhà nước
LỜI MỞ ĐẦU
Hơn 20 năm quá trình thực hiện đổi mới, nền kinh tế Việt Nam đã có những chuyển biến rõ rệt. Từ một nước xã hội chủ nghĩa nghèo nàn và lạc hậu vừa bước ra khỏi chế độ bao cấp, Việt Nam đã từng bước tiến lên xây dựng một nền kinh tế đa ngành, đa dạng hóa và hiện nay phát triển khá “nóng” trong lĩnh vực đầu tư, đây là một vấn đề đang được nhiều doanh nghiệp, cá nhân và nhà nước Việt Nam rất quan tâm, đặc biệt là trong bối cảnh đất nước ta đang trong quá trình phát triển mạnh mẽ và đang từng bước hội nhập với nền kinh tế quốc tế. Các doanh nghiệp, cá nhân đã chọn lựa đầu tư để sử dụng hiệu quả tài sản của mình, từ đó góp phần tăng tài sản của nền kinh tế, thúc đẩy quá trình lưu thông, phân phối các sản phẩm, đóng góp vào ngân sách nhà nước, giải quyết được nhiều việc làm cho người lao động…
Song, trên thực tế, đã có không ít các cá nhân, các doanh nghiệp Việt Nam còn hiểu chưa đúng về đầu tư, còn lúng túng trong việc xây dựng, triển khai và quản lý các dự án đầu tư, chưa sử dụng và khai thác có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư, ngoài ra vẫn còn có nhiều thiếu sót trong các khâu của quá trình thực hiện các dự án đầu tư và nhất là đầu tư trong các lĩnh vực kinh tế…điều đó đã dẫn đến tình trạng thất thoát và lãng phí trong các dự án đầu tư một cách đáng tiếc. Vì thế, để cho lĩnh vực “đầu tư” của Việt Nam phát triển ngày càng mạnh mẽ và bền vững thì công việc xây dựng, phát triển các dự án đầu tư cần phải có hướng đi rõ ràng và cần một sự nỗ lực phấn đấu không ngừng của doanh nghiệp, cá nhân, nhà nước ta.
Đề tài đi vào phân tích thực trạng thất thoát và lãng phí trong đầu tư, đồng thời đưa ra một số giải pháp kiến nghị nhằm hạn chế lãng phí và thất thoát trong đầu tư tại Việt Nam trong thời kỳ hiện nay, giai đoạn 2000 - 2007. Chúng tôi xin chân thành cảm ơn TS. Từ Quang Phương, TS. Phạm Văn Hùng đã hướng dẫn, giúp đỡ chúng tôi hoàn thành đề tài này.
Hà Nội, 23/10/2008
Chương I:
Những vấn đề lý luận chung về thất thoát và lãng phí trong hoạt động đầu tư
I. Những vấn đề lý luận chung về đầu tư.
1. Khái niệm đầu tư.
Đầu tư nói chung là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được kết quả đó. Như vậy, mục tiêu của công cuộc đầu tư là đạt được các kết quả lớn hơn so với những hi sinh về nguồn lực mà nguời đầu tư phải gánh chịu khi tiến hành đầu tư. Nguồn lực hy sinh có thể là tiền, là tài nguyên thiên nhiên, là sức lao động và trí tuệ. Những kết quả đạt được có thể là sự tăng thêm các tài sản chính( tiền vốn), tài sản vật chất( nhà máy, đường xá, bệnh viện, trường học…), tài sản trí tuệ (trình độ văn hóa, chuyên môn, quản lý, khoa học, kỹ thuật…) và nguồn nhân lực có đủ điều kiện làm việc với năng suất lao động cao hơn trong nền sản xuất xã hội.
Đầu tư đó là quá trình bỏ vốn để tạo nên cũng như để vận hành một loại tài sản kinh doanh nào đó như nhà xưởng, máy móc và vật tư (thường được gọi là đầu tư cho các đối tượng vật chất) cũng như để mua cổ phiếu, trái phiếu hoặc cho vay lấy lãi ( thường gọi là đầu tư tài chính), mà ở đây những tài sản đầu tư này có thể sinh lợi dần hoặc thỏa mãn một nhu cầu nào đó cho người bỏ vốn cũng như toàn xã hội trong một thời gian nhất định trong tương lai ( thường gọi là dự án đầu tư ).
Đầu tư đó là sử dụng vốn nhằm tạo nên các dự trữ và tiềm năng về tài sản để sinh lợi dần trong thời gian tương lai. Ở đây cần hiểu đúng ý nghĩa của danh từ dự trữ. Ví dụ, một nhà máy công nghiệp được xây dựng lên không phải là để sử dụng hết ngay một lúc, mà phải khai thác và vận hành nó trong nhiều năm, phần chưa sử dụng hết của nó có thể coi như một dự trữ hay một tiềm năng.
Đầu tư là một chuỗi hành động chi cho một chủ trương kinh doanh nào đó, và ngược lại chủ đầu tư sẽ nhận lại được một chuỗi các khoản thu để đảm bảo hoàn vốn và có lãi một cách thỏa đáng. Ở đây đầu tư được quan niệm như một dòng nghiệp vụ thu chi sinh ra từ một chủ trương kinh doanh nào đó.
Đầu tư là sử dụng các khoản tiền đã tích lũy được của xã hội, của các cơ sở sản xuất
kinh doanh và dịch vụ, tiền tiết kiệm của dân vào việc tái sản xuất của xã hội nhằm tạo ra các tiềm lực lớn hơn về mọi mặt của đời sống kinh tế xã hội.
Đầu tư đó là một quá trình quản lý tài sản một cách hợp lý, nhất là về mặt cơ cấu của tài sản để sinh lợi. Ở đây cần lưu ý rằng tài sản đó là một tổng thể các nhân tố và nguồn lực của sản xuất- kinh doanh thuộc quyền sử dụng của một doanh nghiệp nào đó tồn tại dưới hình thức vật chất( như nhà xưởng, máy móc, dự trữ vật tư), hoặc dưới hình thức tiền tệ và tài chính ( như các phương tiện tiền mặt, các khoản cho vay, các giấy có giá..v..v..), hoặc dưới hình thức phi vật chất ( như uy tín đối với thị trường), hoặc dưới hình thức lực lượng lao động. Đây là một khái niệm về đầu tư có nội dung tổng quát và rộng rãi nhất.
2. Các giai đoạn hình thành và thực hiện một dự án đầu tư.
Quá trình hình thành và thực hiện một dự án đầu tư trải qua 3 giai đoạn : chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư và vận hành các kết quả đầu tư. Cụ thể:
2.1. Giai đoạn chuẩn bị đầu tư.
Trong 3 giai đoạn thì giai đoạn chuẩn bị đầu tư là giai đoạn tạo tiền đề và quyết định sự thành công hay thất bại ở 2 giai đoạn sau, đặc biệt là giai đoạn vận hành kết quả đầu tư. Giai đoạn này bao gồm:
- Nghiên cứu về sự cần thiết phải đầu tư và quy mô đầu tư.
- Tiến hành xúc tiến thăm dò thì trường trong nước hoặc nước ngoài để tìm nguồn cung ứng vật tư, thiết bị hoặc tiêu thụ sản phẩm. Xem xét khả năng có thể huy động vốn để đầu tư và lựa chọn hình thức đầu tư.
- Tiến hành điều tra, khảo sát và chọn địa điểm xây dựng.
- Lập dự án đầu tư.
- Thẩm định dự án để quyết định đầu tư.
2.2. Giai đoạn thực hiện đầu tư.
Giai đoạn này bao gồm các công việc sau đây:
- Xin giấy phép đầu tư.
- Chọn thầu tư vấn khảo sát, thiết kế, giám định kỹ thuật và chất lượng của công trình.
- Tổ chức đấu thầu.
- Ký kết hợp đồng với các tổ chức, cá nhân có liên quan đến dự án.
- Theo dõi, kiểm tra việc thực hiện đầu tư.
2.3. Giai đoạn vận hành các kết quả đầu tư, đưa dự án vào khai thác sử dụng.
Vận hành các kết quả đầu tư nhằm đạt được các mục tiêu của dự án đầu tư, vận hành
có tốt hay không là dựa vào quá trình tổ chức quản lý hoạt động, quá trình chọn lựa các phương thức vận hành thích hợp với tùy từng dự án khác nhau.
II. Những vấn đề lý luận về thất thoát và lãng phí trong đầu tư.
1. Thế nào là thất thoát và lãng phí trong đầu tư.
Thất thoát trong đầu tư là hiện tượng mất mát, thiệt hại không đáng có về vốn đầu trong suốt quá trình đầu tư, từ khi quyết định chủ trương đầu tư cho đến khi dự án hoàn thành và đưa vào sử dụng.
Phần vốn đầu tư bị thất thoát là phần vốn tuy đưa vào dự án nhưng bị lãng phí hoặc biến mất trong quá trình triển khai thực hiện dự án. Nguyên nhân ở đây có thể do tiêu cực và tham nhũng gây nên lãng phí hoặc do thiên tai, dịch họa và do tác động của nền kinh tế.
Thất thoát trong đầu tư được đo lường bằng giá trị thất thoát và tỷ lệ thất thoát. Giá trị thất thoát được hiểu là hiệu số giữa tổng vốn đầu tư thực hiện với giá trị thực của công trình. Giá trị thực là phần chi phí thực tế, hợp lý, cần thiết để xây dựng công trình đạt được mục đích đầu tư. Tỷ lệ thất thoát là tỷ lệ phần trăm giữa giá trị thất thoát và tổng vốn đầu tư thực hiện xây dựng công trình. Tỷ lệ thất thoát phản ánh mức độ thất thoát vốn đầu tư.
Hiện tại, do chưa đo lường có hệ thống về mức độ thất thoát trong toàn bộ quá trình đầu tư nên khó có thể đưa ra được những đánh giá đủ độ tin cậy để xác định mức độ nghiêm trọng của tình hình và làm cơ sở để xem xét hiệu quả cụ thể của việc hoàn thiện các chính sách quản lý nhằm chống thất thoát được đưa ra áp dụng như thế nào.
Lãng phí trong đầu tư có thể hiểu là việc quản lý, sử dụng vốn đầu tư không mang lại hiệu quả như mong muốn, mà nguyên nhân của sự lãng phí này là xuất phát từ sự thiếu trách nhiệm, thiếu năng lực của các cơ quan quyết định đầu tư, chủ đầu tư và các cơ quan tư vấn, thiết kế, cơ quan thẩm định, cơ quan trực tiếp quản lý vốn trong quá trình thực hiện đầu tư.
Theo Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí : “Lãng phí là việc quản lý, sử dụng tiền, tài sản, lao động, thời gian lao động và tài nguyên thiên nhiên không hiệu quả. Đối với lĩnh vực đã có định mức, tiêu chuẩn, chế độ do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành thì việc lãng phí là việc quản lý, sử dụng ngân sách nhà nước, tiền, tài sản, lao động, thời gian lao động trong khu vực nhà nước và tài nguyên thiên nhiên vượt quá định mức, tiêu chuẩn chế độ hoặc không đạt mục tiêu đã xác định”.
Theo Pháp lệnh của ủy ban Thường vụ Quốc hội về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, chúng ta có thể hiểu “lãng phí là sử dụng các nguồn lực tài chính, lao động, thời gian... vượt quá định mức, tiêu chuẩn, chế độ do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định hoặc sử dụng đúng định mức, tiêu chuẩn, chế độ nhưng chất lượng đạt thấp hơn hoặc không đúng mục tiêu đã xác định.”
Lãng phí chính là chi cho những việc không đáng chi và chi ở những mức không đáng chi. Những việc đáng chi ở đây là những việc cấp bách nhất, nếu chúng ta không có những chỉ tiêu để đánh giá được việc gì là quan trọng nhất, là đáng chi nhất trong đầu tư thì dễ dẫn đến việc lãng phí, có thể là lãng phí tiền, cơ hội hay là lãng phí một tiềm năng của một dự án đầu tư.
Lãng phí của một dự án đầu tư là gì? Theo ý kiến các chuyên gia trong công tác quản lý dự án và quan niệm của các nhà tài trợ thì đó là các khoản chi không đem lại hiệu quả gì cho dự án hoặc phần chi cao hơn các quy định hợp pháp, chi không đúng quy định của dự án... căn cứ theo mục đích và động cơ của các hành động trên mà có thể coi đó là lãng phí hay tham ô.
Lãng phí do những chi phí, tổn hao và sử dụng nguồn lực tài chính, nhân lực và các nguồn lực khác trên mức hợp lý. Hoặc không đạt được mục tiêu, kết quả đã xác định, nếu có thì chất lượng, hiệu quả ở mức thấp hơn yêu cầu đặt ra. Do những hư hao, tổn thất không đáng có hoặc không thể được phép. Khái quát lại, những điểm nêu trên do hành vi chủ quan của cá nhân, tập thể đều được gọi là hành vi lãng phí.
Tóm lại, lãng phí là một hành động thiếu tinh thần trách nhiệm, không có ý thức quý trọng của cải, quý trọng sức người của nhà nước, của nhân dân. Một dự án đầu tư được tiến hành lúc nào cũng có thất thoát, trong đó lãng phí chiếm đến gần 80% giá trị thất thoát. Thất thoát lãng phí là một hành động gây kết quả tai hại đến tài sản của nhà nước, của tập thể và đó cũng là một hành động vi phạm pháp luật.
2. Các hình thức biểu hiện thất thoát và lãng phí trong đầu tư
Thất thoát và lãng phí được xem là vấn đề nghiêm trọng hiện nay, là một trong những nguyên nhân làm cho hiệu quả của các dự án đầu tư giảm sút, xét dưới từng góc độ khác nhau có thể nhận diện được thất thoát và lãng phí trong đầu tư cũng khác nhau, nếu xem xét trong từng giai đoạn của quá trình đầu tư thì ta có thể thấy một số hình thức biểu hiện rõ ràng nhất đó là : “dàn trải, kéo dài, thất thoát về vốn, kém hiệu quả, chất lượng và tuổi thọ công trình giảm…”. Cụ thể trong từng giai đoạn như sau:
Giai đoạn Chuẩn bị đầu tư
Chuẩn bị đầu tư là một giai đoạn quan trọng trong quá trình đầu tư, trong giai đoạn này có hai quyết định quan trọng đó là: Quyết định chủ trương đầu tư và quyết định đầu tư.
Chủ trương đầu tư thường có biểu hiện sai lầm là việc quy hoạch sai hay không có quy hoạch các dự án, đầu tư không có quy hoạch, không theo quy hoạch được phê duyệt hoặc phê duyệt sai không phù hợp với đặc điểm kinh tế, điều kiện tự nhiên, dân số và lao động…cũng sẽ dẫn đến hiệu quả đầu tư thấp, đây cũng là một nguyên nhân dẫn tới thất thoát vốn đầu tư, gây lãng phí về người và tài sản.
Quyết định đầu tư thường có biểu hiện sai lầm trong biên soạn và thẩm định báo cáo khả thi, dẫn đến lựa chọn địa điểm công trình sai, xác định quy mô dự án đầu tư quá lớn, nội dung đầu tư không đồng bộ, lựa chọn công nghệ sản xuất không phù hợp, ít quan tâm đến thực tế sử dụng và vận hành công trình sau này…đây cũng là nguyên nhân gây ra lãng phí lớn, tạo ra phần chủ yếu của thất thoát trong đầu tư.
Trong lĩnh vực giáo dục ta có thể thấy nhiều biểu hiện nhất có quyết định đầu tư sai lầm. Đó là một số dựa án xây dựng các trường học năng khiếu trong 1 thành phố đầy đủ trang thiết bị hiện đại, tiện nghi, tuy nhiên chiêu sinh được rất ít đơn giản vì trong thành phố đã có một trường giống như thế, đó là một quyết định đầu tư sai lầm gây lãng phí to lớn.
Về lĩnh vực công nghiệp, những biểu hiên thường thấy là quyết định xây dựng các nhà máy sản xuất nhiều loại hàng hóa đa dạng, tuy nhiên lại không tính toán đến quá trình vận hành sau này, không nghiên cứu kỹ thị trường nên thường dẫn tới hoạt động không hiệu quả, gây thất thoát và lãng phí lớn.
Trong khâu chuẩn bị đầu tư có một quyết định quan trọng nữa đó là: “chọn địa điểm đầu tư”. Chọn địa điểm đầu tư mà sai, không đáp ứng được các yêu cầu như: Gần nguồn nguyên liệu, gần nơi tiêu thụ sản phẩm, phù hợp với đặc điểm tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý, khí hậu,… thì sẽ có tác động trực tiếp và gián tiếp đến hiệu quả hoạt động của dự án đầu tư cả trước mắt và lâu dài. Mỗi lần di chuyển địa điểm nhà máy không chỉ tốn kém chi phí về mặt vật chất, chi phí bảo quản, chi phí chạy thử, mà còn phải chi phí lớn cho công tác chuẩn bị mặt bằng…Xác định quy mô dự án không chính xác, không phù hợp với đặc điểm, điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội của đất nước, của vùng, của địa điểm xây dựng dự án sẽ gây thất thoát, lãng phí như: dự án hoạt động không hết công suất, chi phí cho sản phẩm cao, càng hoạt động càng lỗ, thậm chí có dây chuyền thiết bị không phát huy hiệu quả do đầu tư không đồng bộ…Trong các dự án xây dựng một số công trình phục vụ cho giao thông cũng đã có một số dự án do chọn sai vị trí xây dựng mà nó đã không phát huy được hiệu quả thực sự của nó, gây lãng phí rất nhiều.
Hoặc chẳng hạn, đối với các dự án có thể gây ô nhiễm môi trường (sản xuất phân bón hay thuốc trừ sâu…) khi chọn địa điểm nếu đặt ở gần khu dân cư đông đúc, đến lúc đưa dự án vào hoạt động mới phát hiện và xử lý ô nhiễm thì quá tốn kém, đưa chi phí đầu tư vượt quá dự kiến ban đầu có khi rất lớn, gây lãng phí rất nhiều tiền của.
Khâu bố trí kế hoạch, cấp vốn đầu tư
Từ giai đoạn chuẩn bị đầu tư chuyển sang giai đoạn thực hiện đầu tư phải thông qua khâu bố trí kế hoạch và cấp vốn đầu tư. Việc bố trí kế hoạch đầu tư cũng là khâu dễ gây ra lãng phí, thất thoát với những hiện tượng sau đây:
+ Bố trí kế hoạch không phù hợp với các mục tiêu định hướng của chiến lược, của quy hoạch được phê duyệt, kế hoạch đầu tư hàng năm không ăn khớp với kế hoạch đầu tư trung và dài hạn…cũng sẽ dẫn đến gián tiếp làm thất thoát và lãng phí vốn đầu tư sau này,
+ Bố trí vốn đầu tư phân tán : danh mục các dự án đầu tư trong kế hoạch đầu tư quá nhiều, chủ yếu là các dự án quy mô nhỏ, dẫn đến vốn đầu tư càng bị phân tán làm cho thời gian đầu tư bị kéo dài, tiến độ thực hiện dự án bị chậm lại, vốn đầu tư không phát huy được hiệu quả, gây lãng phí vốn đầu tư.
Trong khâu này ta có thể nhận thấy biểu hiện rõ nhất là trong các dự án xây dựng các khách sạn du lịch và các công viên của một số thành phố, các dự án thường được cấp vốn rất lớn và qua nhiều năm triển khai có dự án không phát huy được hiệu quả, có dự án thì vẫn đang còn dở dang. Điều này đặt ra vấn đề cần xem xét lại việc cấp vốn đầu tư và bố trí vốn sao cho hợp lý, nên đầu tư vào các dự án có tiềm năng, tránh lãng phí và thất thoát.
Giai đoạn Thực hiện đầu tư.
Trong giai đoạn này ta có thể thấy biểu hiện thất thoát và lãng phí rõ ràng nhất đó là vấn đề thời gian, vốn đầu tư của các dự án được chi ra và nằm khê đọng trong suốt những năm thực hiện đầu tư, đó là những năm vốn không sinh lời. Thời gian thực hiện đầu tư càng kéo dài thì vốn ứ đọng càng nhiều, tổn thất càng lớn, lãng phí càng lớn.
Khâu thiết kế
Chất lượng thiết kế một dự án đầu tư không đúng theo các quy phạm, quy chuẩn về kỹ thuật của nhà nước, hồ sơ thiết kế không phù hợp với tình hình thực tế về địa chất, địa hình, khí hậu, điều kiện tự nhiên và đặc điểm về tài nguyên, nguồn nhân lực và đặc điểm về nguyên liệu, vật tư thiết bị đầu vào, quy mô và khả năng tiêu thụ sản phẩm đầu ra…sẽ dấn đến những sai sót tất yếu trong thi công, gây hậu quả thất thoát lãng phí do phải khắc phục sai sót để đảm bảo mục đích đầu tư.
Khâu lập và quản lý dự toán
Lập và quản lý dự toán của dự án thực chất là quản lý giá trong hoạt động đầu tư, đây là
khâu không chỉ gây thất thoát lãng phí về vốn đầu tư mà còn là khâu nhạy cảm gây ra sơ hở dẫn đến phát sinh tiêu cực trong hoạt động đầu tư, nó thể hiện ở một số hình thức sau:
+ Việc tính khối lượng từng loại công việc, vật tư theo thiết kế kỹ thuật, thiết kế tổ chức thi công làm cơ sở cho việc lập tổng dự toán, dự toán công trình. Nếu khâu này không chính xác, gây thất thoát lãng phí về vốn đầu tư.
+ Áp dụng sai giá chủng loại vật tư, thiết bị đã đươc cơ quan chức năng thông báo theo thực tế tại thời điểm tính toán, nghiệm thu thanh toán cũng sẽ gây thất thoát lãng phí.
+ Sử dụng sai định mức kinh tế- kỹ thuật của nhà nước ban hành cho từng loại dự án đầu tư theo quy phạm và quy chuẩn. Hệ thống định mức kinh tế_ kỹ thuật để lập dự toán, thanh quyết toán không tiên tiến, không đầy đủ, không cụ thể đều dẫn đến thất thoát lãng phí vốn đầu tư.
Trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản có khâu đền bù, giải phóng mặt bằng cũng là khâu thất thoát và lãng phí nhiều. Trách nhiệm của các chủ đầu tư và chính quyền các cấp chưa được thực hiện đúng mức, công việc bàn giao mặt bằng thi công chậm (hiện khá phổ biến ở Việt Nam) đã làm thiệt hại cho nhà thầu không nhỏ, làm thời gian kéo dài, tiến độ thi công, gây ứ đọng vốn nhà nước và chậm đưa công trình vào khai thác sử dụng.
Khâu chọn thầu tư vấn khảo sát, thiết kế, tổ chức đấu thầu
Đấu thầu là quá trình lựa chọn nhà thầu đáp ứng các yêu cầu của đôi bên mời thầu để thực hiện gói thầu thuộc các dự án trên cơ sở bảo đảm tính cạnh tranh, công bằng, minh bạch và hiệu quả kinh tế. Tình trạng đáng quan tâm hiện nay là một số nhà thầu (phần lớn là doanh nghiệp xây dựng nhà nước) chấp nhận bỏ giá thầu theo kiểu phá giá, dưới mức hợp lý (được hiểu là bù đắp chi phí sản xuất cộng thuế giá trị gia tăng và một phần lợi nhuận tối thiểu). Điều nay tất yếu dẫn đến hậu quả tiêu cực là bớt xén vật tư, giảm cấp vật liệu làm giảm chất lượng dự án đầu tư. Hậu quả là doanh nghiệp bị thiệt hại, bị lỗ. Nhà nước lại bỏ ra một khoản chi phí để khắc phục, sửa chữa công trình.
Khâu theo dõi, kiểm tra việc thực hiện đầu tư.
Công tác theo dõi, giám sát, kiểm tra việc thực hiện đầu tư của chủ đầu tư, ban quản lý dự án, của tư vấn giám sát không chặt chẽ, thậm chí mang tính hình thức dẫn đến việc nhà thầu : làm sai thiết kế; sử dụng vật tư không đúng quy cách, không đảm bảo chất lượng; bớt xén nguyên vật liệu…các phần của dự án đầu tư nhiều khi được nghiệm thu không đúng chế độ, khai tăng khối lượng, nghiệm thu khống khối lượng, nâng giá vật tư, nguyên vật liệu lên…
Một số dự án như xây dựng kênh mương, nhà máy