Hiện nay, trên thế giới các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt đã trở nên rất phổ biến và chiếm tỷ lệ ngày càng cao trong khối lượng vốn huy động ký gửi tại các ngân hàng. Mỗi hình thức thanh toán đều có công dụng riêng thích hợp cho từng đối tượng và loại hình giao dịch đa dạng phong phú. Việc đưa ra một hình thức thanh toán phù hợp vừa là nhiệm vụ, vừa là mục đích kinh doanh và trọng điểm cạnh tranh của các ngân hàng.
Sau khi trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), hệ thống Ngân hàng Việt Nam đã có những bước chuyển mình mạnh mẽ nhằm đáp ứng cho nhu cầu phát triển của nền kinh tế trong những thách thức và cơ hội mới. Cũng như nhiều quốc gia phát triển trên thế giới Việt Nam đang nỗ lực để thực hiện việc thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế.
Đến trước năm 2004 sự xuất hiện của máy ATM trong khu vực dân cư ở Việt Nam vẫn còn phát triển khiêm tốn, chưa được sử dụng rỗng rãi. Gần đây theo đà phát triển của thế giới, chiếc máy ATM đã trở nên phổ biến, gần gũi với người dân. Tốc độ tăng trưởng của thị trường thẻ ATM ngày càng cao, quy mô, số lượng phát hành và sử dụng ngày càng lớn. Tuy nhiên bên cạnh những tiện ích to lớn do việc sử dụng máy ATM vẫn còn tồn tại những vấn đề hạn chế cần được quan tâm đòi hỏi phải có những giải pháp thích hợp.
15 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 3228 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Thực trạng sử dụng máy ATM tại Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
Hiện nay, trên thế giới các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt đã trở nên rất phổ biến và chiếm tỷ lệ ngày càng cao trong khối lượng vốn huy động ký gửi tại các ngân hàng. Mỗi hình thức thanh toán đều có công dụng riêng thích hợp cho từng đối tượng và loại hình giao dịch đa dạng phong phú. Việc đưa ra một hình thức thanh toán phù hợp vừa là nhiệm vụ, vừa là mục đích kinh doanh và trọng điểm cạnh tranh của các ngân hàng.
Sau khi trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), hệ thống Ngân hàng Việt Nam đã có những bước chuyển mình mạnh mẽ nhằm đáp ứng cho nhu cầu phát triển của nền kinh tế trong những thách thức và cơ hội mới. Cũng như nhiều quốc gia phát triển trên thế giới Việt Nam đang nỗ lực để thực hiện việc thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế.
Đến trước năm 2004 sự xuất hiện của máy ATM trong khu vực dân cư ở Việt Nam vẫn còn phát triển khiêm tốn, chưa được sử dụng rỗng rãi. Gần đây theo đà phát triển của thế giới, chiếc máy ATM đã trở nên phổ biến, gần gũi với người dân. Tốc độ tăng trưởng của thị trường thẻ ATM ngày càng cao, quy mô, số lượng phát hành và sử dụng ngày càng lớn. Tuy nhiên bên cạnh những tiện ích to lớn do việc sử dụng máy ATM vẫn còn tồn tại những vấn đề hạn chế cần được quan tâm đòi hỏi phải có những giải pháp thích hợp.
Đề tài :” Thực trạng sử dụng máy ATM tại Việt Nam “là một đề tài thực tế và gần gũi với sinh viên.Qua quá trình tìm hiểu Tắc kè Team đã có thêm rất nhiều hiểu biết và trải nghiệm thú vị.
MỤC LỤC
Trang
Lời nói đầu
1
I/ Lịch sử hình thành và phát triển của máy ATM
3
1. Khái niệm
3
2. Lịch sử phát triển
4
II/ Chức năng của máy ATM
5
III/ Thực trạng sử dụng máy ATM tại Việt Nam
6
IV/ Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng máy ATM tại Việt Nam
10
Tài liệu tham khảo
17
NỘI DUNG
I/ SƠ LƯỢC VỀ MÁY ATM.
1. Khái niệm.
Máy rút tiền tự động hay máy giao dịch tự động (còn được gọi là ATM, viết tắt của Automatic Teller Machine trong tiếng anh) là một thiết bị ngân hang giao dịch tự động với khách hàng, thực hiện việc nhận dạng khách hàng thông qua thẻ (thẻ ghi nợ, thẻ tín dụng) hay các thiết bị tương thích và giúp khách hàng kiểm tra tài khoản, rút tiền mặt, chuyển khoản, thanh toán tiền hàng hóa dịch vụ.
2. Lịch sử phát triển.
ATM (Automatic Teller Machine) - máy rút tiền tự động - ngày nay đã trở nên phổ biến trên khắp thế giới. Người dân Việt Nam cũng chẳng mấy xa lạ với loại máy rút tiền này. Chỉ cần vài phút, người tiêu dùng có thể thực hiện mọi giao dịch tài chính tại bất cứ nơi nào có đặt máy ATM mà không cần phải đến ngân hàng.
Trên thế giới: Hiện người ta vẫn còn bàn cãi về người sáng chế ra máy ATM. Theo đó, Luther George Simjian - một nhà phát minh người Thổ Nhĩ Kỳ - là người đầu tiên nghĩ ra "loại máy có lỗ đặt áp vào tường" cho phép khách hàng có thể thực hiện mọi giao dịch tài chính. Simjian bắt đầu đăng ký bằng sáng chế cho ý tưởng này vào năm 1939. Ông đã cố thuyết phục một ngân hàng - ngày nay là Ngân hàng Citicorp - thử lắp đặt máy phát tiền tự động này. Thế nhưng chỉ trong vòng 6 tháng sau, người ta phải tháo dỡ loại máy trên do nhu cầu sử dụng không cao. Theo Simjian, khách hàng giao dịch qua máy thường chỉ là... các cô gái điếm và các con bạc vốn không thích thú việc giao dịch trực tiếp với nhân viên thu ngân.
Cũng có giả thuyết cho rằng máy phát tiền mặt tự động đầu tiên là do John Shepherd-Barron sáng chế vào giữa thập niên 1960. Hồi đó xuất phát từ nhu cầu của bản thân muốn có thể rút tiền từ ngân hàng bất cứ lúc nào nên ông đã nghĩ ra loại máy rút tiền tự động. Loại máy do Shepherd-Barron chế tạo có thể thực hiện giao dịch bất cứ lúc nào với tần số 24/7 (tức 24 giờ/ngày và 7 ngày/tuần) và được lắp đặt lần đầu tiên tại chi nhánh Ngân hàng Barclays ở London (Anh) vào năm 1967. Lúc đó, khách hàng chỉ được rút tối đa 10 bảng Anh cho một lần giao dịch. Thế nhưng, các chuyên gia đã không công nhận đây là loại máy ATM vì chúng luôn nuốt thẻ và khách hàng phải mua thẻ khác nếu muốn thực hiện một giao dịch nữa.
Theo họ, loại máy ATM đầu tiên mà chúng ta đang sử dụng chính là loại máy đã ra mắt công chúng vào năm 1969 tại Ngân hàng Chemical Bank ở New York (Mỹ). Tác giả của loại máy ATM trên chính là Don Wetzel - Phó giám đốc chi nhánh kế hoạch sản phẩm của Docutel (một công ty chuyên về máy tự động xử lý hành lý). Ông nảy ra ý tưởng tạo ra chiếc máy ATM hiện đại trong một lần xếp hàng chờ rút tiền tại một ngân hàng ở Dallas. Ông trình bày ý tưởng của mình và được Công ty Docutel hỗ trợ tài chính. Với số tiền 5 triệu USD, Wetzel cùng 2 cộng sự đã chế tạo thành công chiếc máy ATM đầu tiên trên thế giới. Họ được nhận bằng sáng chế vào năm 1973.
Tại Việt Nam: Máy ATM xuất hiện tại Việt Nam từ những năm 1996 đến nay. Và đặc biệt là hiện tại thì máy ATM đã có thêm một chức năng ngoài những chức năng đã có đó là: Bán vàng thẻ. Chiếc máy này chính thức ra mắt vào ngày (9/10/2010) tại trụ sở chi nhánh DongA Bank quận 5 TP.HCM, Ngân hàng Đông Á
Sự phát triển của Máy ATM trên thế giới:
Trong năm 1969, Chemical Bank phát động chiến dịch quảng cáo ATM rầm rộ với khẩu ngữ: "Kể từ ngày 2/9, ngân hàng chúng tôi sẽ mở cửa lúc 9 giờ sáng và sẽ không bao giờ đóng cửa nữa". Thế là từ dạo ấy, khách hàng có thẻ tín dụng không cần phải xếp hàng chờ đến phiên được nhân viên ngân hàng giải quyết cho rút tiền mặt nữa. Chỉ cần đút tấm plastic có vẹt từ trường vào một cái máy ATM, khách hàng có thể rút tiền mặt bất cứ lúc nào mình thích, kể cả ngày cuối tuần.
Tiếp sau Chemical Bank, nhiều ngân hàng khác cũng bắt đầu chiến dịch lắp đặt và quảng bá máy ATM. Năm 1973, tại Mỹ đã có 2.000 máy ATM hoạt động trên toàn quốc. Chi phí cho một máy ATM lúc bấy giờ vào khoảng 30.000 USD. Hiện nay riêng ở Mỹ, số lượng máy ATM được đưa vào sử dụng lên đến 371.000 cái. Bạn có thể thấy ATM không chỉ có trong các siêu thị, sân bay mà còn hiện diện trong nhiều cửa hàng bán thức ăn nhanh McDonald hay các cửa hàng rượu nhỏ ở Mỹ. Ngay cả ở khu vực núi đá cheo leo South Rim thuộc dải Grand Canyon hiểm trở ở bang Colorado (Mỹ) cũng có máy ATM. Ngày nay, ATM hiện diện ở khắp mọi nơi trên thế giới, thậm chí vành đai Bắc cực hay trạm quan sát McMurdo Station ở Nam cực cũng có vài máy. Nếu Nữ hoàng Anh Elizabeth II cần một ít tiền để "boa" cho các cảnh vệ của mình, bà có thể rút tiền từ máy ATM được lắp đặt sẵn trong cung điện Buckingham ở London.
Đến Việt Nam :
Theo thống kê của Hội thẻ ngân hàng Việt Nam, tính đến cuối năm 2009, về thị phần thẻ nội địa, Ngân hàng Nông nghiệp (Agribank) đã vượt lên trở thành ngân hàng có số lượng thẻ ATM lớn nhất Việt Nam với gần 4,2 triệu thẻ, chiếm 20,7% thị phần. Tiếp đến là Ngân hàng cổ phần Đông Á với 4 triệu thẻ, chiếm 19,8% thị phần; đứng thứ ba là Vietcombank với 3,85 triệu thẻ, chiếm 19% thị phần.Tương ứng đó :
Về lượng máy ATM, tới cuối năm 2009 Agribank cũng giữ vị trí số một với 1.702 máy (chiếm 17,5% thị phần), tiếp theo là Vietcombank 1.483 máy (15,3%), Vietinbank đứng thứ ba với 1.042 máy (10,7%). Đi kèm với việc đoạt “ngôi vương” về lượng thẻ phát hành cũng như số máy ATM, nguồn tin từ một lãnh đạo của Agribank cho biết, tỷ lệ thẻ ATM hoạt động thực sự của ngân hàng này khoảng từ 85% đến 90%.
Tuy nhiên, Agribank lại không lọt vào top 3 ngân hàng có doanh số giao dịch thẻ lớn nhất (thẻ ATM chiếm hơn 93%). Giữ vị trí số một vẫn là Vietcombank với thị phần 30,7% (doanh số 100.828 tỷ đồng). Ngân hàng Đông Á đứng thứ 2 với 19,5% (64.036 tỷ đồng), Vietinbank đứng thứ 3 với 12,95% (42.580 tỷ đồng). Dù có “ngôi vương” về lượng thẻ và số máy ATM nhưng thị phần về doanh số giao dịch của Agribank chỉ là 12,51% (bằng 40% của Vietcombank).
Bạn có biết : Trên thế giới
Cứ mỗi 7 phút sẽ có một máy ATM mới được lắp đặt ở một nơi nào đó trên hành tinh.
Số lượng máy ATM trên 1 triệu dân ở Mỹ là 1.250, ở Úc: 800, Trung Quốc: 40... và Việt Nam: 3.
Hiện nay có khoảng hơn 1,5 triệu máy ATM hoạt động trên toàn cầu.
Ngày thứ sáu được xem là ngày có số lượng người giao dịch qua máy ATM cao nhất trong tuần
Tại việt nam
ANZ là ngân hàng đầu tiên lắp đặt máy ATM ở Việt Nam. Khi đó cả nước mới chỉ có 2 máy ATM
Việc sử dụng máy ATM thực sự phát triển khoảng 10 năm gần đây
II.VAI TRÒ CỦA MÁY ATM :
a) Đối với người sử dụng.
Sự xuất hiện của máy ATM mang đến một dịch vụ tiện lợi nhanh chóng phục vụ tốt cho nhu cầu giao dịch tiền tệ trong cuộc sống hiện đại khách hàng có nhu cầu sử dụng tiền tệ không cần phải tốn thời gian và công sức để đến ngân hàng và đối mặt với các thủ tục phức tạp tại đó, giao dịch được thực hiện một cách nhanh chóng trong suốt 24/24 giờ trong ngày và 7 ngày trong tuần. Mặt khác việc những chiếc máy ATM của các ngân hàng được đặt trong các siêu thị sẽ rất tiện lợi cho người dân, có thể không cần phải đem quá nhiều tiền mặt trong người.
Chiếc máy ATM cung cấp các dịch vụ như : rút tiền, gửi tiền ,in sao kê,kiểm tra tài khoản,chuyển tiền,mua vàng,thanh toán tiền điện nước..............và ngày càng đa dạng các dịch vụ khác.
b) Đối với ngân hàng.
Có điều kiện tạo một kênh huy động vốn nhàn rỗi đáng kể trong dân chúng khi mà tiền của người dân đều được huy động trong tài khoản ngân hàng. Số tiền này sẽ giúp ngân hàng tăng nguồn vốn hoạt động đồng thời có được nguồn thu vững chắc từ việc cung cấp các dịch vụ thanh toán thông qua hệ thống ATM.
c) Đối với nền kinh tế.
-Việc trả lương thanh toán các khoản qua hệ thống thẻ ATM hạn chế tình trạng trốn thuế của các đơn vị, hộ kinh doanh, không muốn minh bạch nhận tiền thanh toán bằng thẻ, vì như thế sẽ khai báo chi tiết nguồn thu của họ trên sao kê tài khoản tại ngân hàng
-Thông qua việc giám sát các hoạt động thanh toán của hệ thống các ngân hàng thương mại ngân hàng trung ương có thể biết được lượng tiền đang lưu thông ,do đó có thể xác định được lượng cung, lượng cầu tiền để từ đó đề ra các chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa một các hữu hiệu, giảm thiếu lạm phát,giúp nền kinh tế phát triển bền vững.
Việc tự động hóa trong giao dịch sẽ nâng cao chất lượng của hệ thống tài chính quốc gia,từng bước giảm dần thanh toán bằng tiền mặt, tạo điều kiện thuận lợi cho một nền kinh tế hiện đại phát triển và đáp ứng nhu cầu hội nhập trong tương lai của kinh tế Việt Nam.
III/ THỰC TRẠNG SỬ DỤNG MÁY ATM.
Hiện dịch vụ ATM ở Việt Nam chủ yếu phục vụ các giao dịch rút tiền mặt,in sao kê.Có thể nói thị trường thẻ Việt Nam có sự phát triển bùng nổ trong những năm qua, do phát triển quá nhanh lượng khách hàng mà cơ sở vật chất chưa đáp ứng kịp nên có nhiều sự cố xảy ra. Điển hình như khi khách hàng rút tiền không nhận đựoc tiền mà vẫn bị trừ vào tài khoản. VD: Chị Nguyễn Thị S ( TP.HCM) cho biết có lần chị đặt lệnh rút 1,5 triệu đồng, máy ATM báo “giao dịch không thực hiện” rồi tự trả thẻ. Chị đưa thẻ vào máy lần nữa kiểm tra số dư nhưng chỉ nhận được dòng chữ "giao dịch không hoạt động", chị chọn lệnh "in hóa đơn" nhưng máy không thực hiện rồi trả thẻ. Về đến nhà, chị S nhận tin nhắn trên điện thoại di động: tài khoản đã bị trừ 1.503.300 đồng…Không riêng gì chị S, rất nhiều khách hàng gặp những tình huống tuơng tự. Ngoài ra, việc rút tiền qua thẻ gặp sự cố luôn là vấn đề bức xúc của nhiều khách hàng.
Gần đây nhất là sự cố máy ATM rò điện gây chết người. Điều này gây hoang mang không nhỏ cho người dân. Vì việc rút tiền nên bắt buộc mọi người luôn phải tiếp cận với máy. Và qua kiểm tra tổng quát thì người dân cực kỳ hoang mang cụ thể là Theo tổng hợp của ngành điện, qua kiểm tra khoảng 1.330 phòng đặt máy ATM đã phát hiện hơn 120 phòng bị rò rỉ, có nguy cơ xảy ra tai nạn điện giật cho người rút tiền. Các máy ATM thiếu an toàn này thuộc hầu hết các ngân hàng trên địa bàn TP.HCM, như: Vietcombank, Vietinbank, Sacombank, Việt Á (VAB), Miền Tây (Western Bank), Á Châu (ACB), Techcombank, BIDV, ANZ... Còn trên địa bàn TP.HÀ NỘI hiện có 1.128 máy ATM của các ngân hàng khác nhau. Qua kiểm tra 100% số máy trên, các đội công tác đã phát hiện 152 máy không đảm bảo an toàn, gồm cả những máy bị rò điện và máy không có tiếp địa.
Bên cạnh những vấn đề trên thì hiện tượng phá máy trộm tiền của là một vấn đề cần phải có biện pháp khắc phục cần thiết điển hình như vụ ở phường 13, quận Tân Bình. Các đối tượng dùng giấy báo che chắn kín buồng ATM và dùng bình hàn gió đá cắt bung tấm trả tiền tự động trên máy ATM, lấy đi 822 triệu đồng.Trong 02 tháng gần đây đã có tới 9 vụ trộm cắp tiền ở máy ATM lên tới 2 tỷ đồng..Như vậy :
a) Sử dụng máy ATM chưa thật sự an toàn.
Có thể nói, ngày nay văn minh thanh toán không dùng tiền mặt đang được phổ biến rộng rãi ở khá nhiều nước trên toàn thế giới. Một trong những công cụ góp phần làm giảm việc thanh toán tiền mặt chính là những chiếc thẻ nhỏ gọn và xinh xắn, được coi như là những “chiếc ví điện tử”. Tuy nhiên, trong thời đại khoa học cực thịnh công nghệ cực thịnh như hiện nay và internet được phổ cập rộng rãi và toàn cầu thì việc bảo mật cho những chiếc thẻ đang là một vấn đề làm đau đầu các chuyên gia trong ngành ngân hàng bởi nạn làm thẻ giả và đánh cắp thông tin cá nhân của thẻ qua các máy ATM đang ngày càng được phổ biến nhân rộng với những cách thức tinh vi hơn điều đó đã được tổ chức thẻ quốc tế cảnh báo từ rất lâu.
Tuy mới phát triển chưa lâu song có nhiều vụ khiếu kiện về việc mất tiền trong tài khoản thẻ ATM mà “khổ chủ” - người sử dụng không biết kêu ai đành phải ngậm đắng chịu thiệt thòi. Một trong những nguyên nhân chính là tính an toàn của dịch vụ thẻ chưa được đảm bảo. Theo dự báo của các chuyên gia, đây chính là cuộc chiến mới của các ngân hàng khi chấp nhận vào cuộc chơi với dịch vụ thẻ.
Việc làm giả thẻ khá phổ biến trên thế giới và chắc chắn các dịch vụ thẻ của Việt Nam cũng không là ngoại lệ. Nhưng điều quan trọng hơn mà người dân quan tâm là các biện pháp hữu hiệu để bảo vệ quyền lợi của khách hàng lại chưa có. Chính vì thế, khi các ngân hàng Việt Nam có máy ATM bị rút tiền bằng thẻ tín dụng quốc tế giả thì họ không phải chịu trách nhiệm gì về thiệt hại tài chính do thẻ tín dụng quốc tế giả gây nên bởi đó là giao dịch “hợp pháp”. Thực chất, thẻ tín dụng chỉ là một tấm thẻ cung cấp các thông tin cho hệ thống phần mềm máy tính sử lý, nếu các thông tin đó là đúng thì máy tính sẽ tiến hành giao dịch.
Ngoài ra, hiện nay ngân hàng và người sử dụng vẫn phải giao dịch với nhau trên cơ sở pháp lý là quy chế phát hành thẻ đã ban hành từ trước đó.Ngân hàng nhà nước chưa có bất kỳ quy định nào ràng buộc các ngân hàng cung cấp dịch vụ thẻ phải trang bị camera an ninh tại nơi đặt máy ATM.
b) Dịch vụ máy ATM còn yếu.
Gần đây các ngân hàng đã lắp đặt thêm nhiều máy ATM trên toàn quốc. Tuy nhiên dường như hệ thống giao dịch điện tử qua máy ATM vẫn chưa thực sự sẵn sàng vào cuộc. Đó là chưa kể đến những thách thức không dễ khắc phục càng làm hạn chế các tính năng của thẻ. Các ngân hàng phát hành thẻ chưa liên kết với nhau thành một hệ thống nên thẻ của ngân hàng này phát hành không sử dụng được tại máy ATM của ngân hàng khác. Do vậy dẫn đến tình trạng tại cùng một địa điểm nhưng phải có vài máy ATM của từng ngân hàng khác nhau. Mặc dù vào ngày 21/4/2007 công ty cổ phần chuyển mạch tài chính quốc gia Việt Nam đã đi vào hoạt động nhưng nó cũng chỉ mới có 3 ngân hàng tham gia ,bên cạnh đó còn có 2 liên minh khác của Vietcombank và Vietnam Bank Card tự thiết lập một hệ thống riêng nhưng về cơ bản vẫn dựa trên hạ tầng đã có. Điều này cho thấy thị trường thẻ Việt Nam vẫn còn trong tình trạng phân tán và chưa thể phát huy sức mạnh thực sự trong thời gian tới
Trong khi chức năng chính của thẻ là thanh toán thì đa số người tiêu dùng hiện nay chỉ dùng thẻ để rút tiền mặt tại các máy ATM, từ đó dẫn đến hiểu sai chức năng của thẻ. Các địa điểm có lượng giao dịch đòi hỏi thanh toán nhiều như siêu thị, trung tâm thương mại, nhà hàng hiện nay vẫn chưa có các máy đọc thẻ. Ngay tại một số siêu thị lớn có máy đọc thẻ thì cũng không được trang bị tại tất cả các quầy thu ngân, do đó khách hàng vẫn gặp khó khăn khi muốn trả tiền bằng thẻ
Một bất cập khác của thẻ ATM là chưa thật sự có nhiều tiện ích, hấp dẫn khách hàng. Mảng phát triển mạnh nhất của dịch vụ thẻ này là trả lương qua tài khoản. Tuy nhiên, mới chỉ có các công ty lớn, tập đoàn, liên doanh và các tổ chức nước ngoài “sài” dịch vụ này. Các tiện ích khác như chuyển khoản, thanh toán bảo hiểm, tiền điện thoại, tiền điện… hiện chỉ có một số ngân hàng áp dụng điển hình là ngân hàng Đông Á EAB.
c) Hệ thống máy ATM thường xuyên bị quá tải.
Trong những năm gần đây, mặc dù thị trường thẻ ATM phát triển nhanh chóng nhưng số lượng thẻ ATM phát hành còn rất thấp so với tiềm năng thị trường. Tuy nhiên, hệ thống ATM đã bắt đầu có dấu hiệu quá tải.
Hiện nay các ngân hàng đang nỗ lực chạy đua trong việc phát hành thẻ, số lượng thẻ ATM không ngừng tăng lên và hệ thống máy ATM cũng được các ngân hàng chú trọng đầu tư để phục vụ nhu cầu sử dụng thẻ ATM của khách hàng. Tuy nhiên số lượng máy ATM hiện có và mạng lưới chấp nhận thẻ vẫn còn khá ít đã gây ra tình trạng quá tải trong hệ thống ATM nhất là vào những lúc cao điểm như ngày lễ, tết khi mà nhu cầu rút tiền của người dân tăng cao. Điều này gây khó khăn cho người sử dụng và gây tâm lý sử dụng thẻ ATM không tiện lợi so với sử dụng tiền mặt.
Ngoài ra việc đặt máy ở một số nơi công cộng như: siêu thị, nhà hàng, sân bay, nhà ga, khu công nghiệp, trường đại học… cũng gây ra hạn chế về thời gian hoạt động do các máy không thể đặt ở những nơi mở vì lý do an ninh không đảm bảo nên các máy ATM chỉ có thể hoạt động trong giờ hành chính (nếu đặt trong các ngân hàng) hoặc đến 9-10 giờ tối (nếu đặt ở siêu thị, nhà hàng, trung tâm thương mại…). Vì vậy trên lý thuyết máy ATM hoạt động 24/24 giờ hiện nay chưa được thực hiện. Hơn nữa, việc các máy ATM của Việt Nam hay bị hỏng cũng là một vấn đề gây trở ngại làm nản lòng người sử dụng. Bên cạnh đó việc thẻ ATM do ngân hàng nào phát hành thì chỉ có máy của ngân hàng đó mới sử dụng được cũng là một nguyên nhân góp phần làm quá tải hệ thống máy ATM trong thời gian qua.
Các ngân hàng trong thời gian qua liên tục đầu tư để gia tăng số lượng máy ATM nhằm phục vụ nhu cầu sử dụng của khách hàng. Thế nhưng hệ thống máy ATM của các ngân hàng phân bố chưa đồng đều và hầu như chỉ phân bố ở thành phố lớn như thành phố HCM và Hà Nội(chiếm 46%). Tại các thành phố này, các máy ATM cũng chỉ tập trung ở những nơi giao dịch của ngân hàng là chủ yếu. Thêm vào đó hệ thống các điểm chấp nhận thẻ tương đối ít điều này đã làm gây tâm lý ngại sử dụng thẻ ở khách hàng.
IV/ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG MÁY ATM TẠI VIỆT NAM.
Tuy những mặt hạn chế vẫn còn tồn tại khá lớn, nhưng trong xu thế hội nhập toàn cầu thì sự phát triển của phương thức thanh toán là quy luật tất yếu, nó vẫn đem lại nhiều tiện ích cho khách hàng, lợi ích cho cả nền kinh tế, thay đổi thói quen hạn chế sử dụng tiền mặt của người dân, giúp hoàn thành mục tiêu của chính phủ là đưa phương thức thanh toán này trở thành phổ biến ở Việt Nam và hạn chế lượng tiền mặt lưu thông trong nền kinh tế. Tuy nhiên các ngân hàng phải không ngừng nâng cao chất lượng để phục vụ khách hàng, khai thác được tiềm năng to lớn của thị trường Việt Nam
1. Phát triển dịch vụ.
Hệ thống tài khoản và thẻ hiện nay được liên tục cải thiện và phát triển về dịch vụ. Phát triển các dịch vụ Ngân hàng là giải pháp cần thiết. Trước đây đã có những quy định bắt buộc phải thanh toán qua Ngân hàng. Nhưng kết quả là mệnh lệnh hành chính đã chứng tỏ không hiệu quả và đến nay các giải pháp thị trường đã vào cuộc. Khi mà dịch vụ Ngân hàng đã trở nên tiện lợi thì chẳng cần mệnh lệnh, người ta cũng thanh toán qua Ngân hàng. Tuy nhiên việc phát triển dịch vụ trong giai đoạn này cần tính đến vấn đề hội nhập.Vì thế cần đa dạng hóa các dịch vụ tiện ích có thể thực hiện được trên máy ATM.
2. Mở rộng mạng lưới.
Để tăng sự tiện lợi cho người sử dụng, một giải pháp đơn giản là các Ngân hàng cần tăng cường liên kết hệ thống thanh toán thẻ với nhau, mở rộng hơn các điểm chấp nhận thẻ nhằm tạo ra lợi thế kinh tế th