Đề tài Tổng quan về ODA ở Việt Nam

Phát triển kinh tế là quá trình lớn lên, tăng tiến mọi mặt của nền kinh tế. Nó bao gồm sự tăng trưởng kinh tế và đồng thời có sự hoàn chỉnh về mặt cơ cấu, thể chế kinh tế, chất lượng cuộc sống. Trong đó, Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng của tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hoặc tổng sản lượng quốc gia (GNP) hoặc quy mô sản lượng quốc gia tính bình quân trên đầu người (PCI) trong một thời gian nhất định. Để phát triển kinh tế ta cần có : Điều kiện đầu tiên là phải có sự tăng trưởng kinh tế (gia tăng về quy mô sản lượng của nền kinh tế, nó phải diễn ra trong một thời gian tương đối dài và ổn định). Sự thay đổi trong cơ cấu kinh tế: thể hiện ở tỷ trọng các vùng, miền, ngành, thành phần kinh tế . thay đổi. Trong đó tỷ trọng của vùng nông thôn giảm tuơng đối so với tỷ trọng vùng thành thị, tỷ trọng các ngành dịch vụ, công nghiệp tăng, đặc biệt là ngành dịch vụ. Cuộc sống của đại bộ phận dân số trong xã hội trở nên tươi đẹp hơn: giáo dục, y tế, tinh thần của người dân được chăm lo nhiều hơn, môi trường được đảm bảo. Phát triển kinh tế là một quá trình tiến hóa theo thời gian và do những nhân tố nội tại (bên trong) quyết định đến toàn bộ quá trình phát triển đó.

doc58 trang | Chia sẻ: ducpro | Lượt xem: 5913 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tổng quan về ODA ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TỔNG QUAN VỀ ODA Ở VIỆT NAM A.CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI I.Vai trò của nguồn vốn đối với sự phát triển kinh tế 1.Phát triển kinh tế Phát triển kinh tế là quá trình lớn lên, tăng tiến mọi mặt của nền kinh tế. Nó bao gồm sự tăng trưởng kinh tế và đồng thời có sự hoàn chỉnh về mặt cơ cấu, thể chế kinh tế, chất lượng cuộc sống. Trong đó, Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng của tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hoặc tổng sản lượng quốc gia (GNP) hoặc quy mô sản lượng quốc gia tính bình quân trên đầu người (PCI) trong một thời gian nhất định. Để phát triển kinh tế ta cần có : Điều kiện đầu tiên là phải có sự tăng trưởng kinh tế (gia tăng về quy mô sản lượng của nền kinh tế, nó phải diễn ra trong một thời gian tương đối dài và ổn định). Sự thay đổi trong cơ cấu kinh tế: thể hiện ở tỷ trọng các vùng, miền, ngành, thành phần kinh tế ... thay đổi. Trong đó tỷ trọng của vùng nông thôn giảm tuơng đối so với tỷ trọng vùng thành thị, tỷ trọng các ngành dịch vụ, công nghiệp tăng, đặc biệt là ngành dịch vụ. Cuộc sống của đại bộ phận dân số trong xã hội trở nên tươi đẹp hơn: giáo dục, y tế, tinh thần của người dân được chăm lo nhiều hơn, môi trường được đảm bảo. Phát triển kinh tế là một quá trình tiến hóa theo thời gian và do những nhân tố nội tại (bên trong) quyết định đến toàn bộ quá trình phát triển đó. Ngày nay, ở nhiều quốc gia người ta sử dụng khái niệm phát triển bền vững thay cho phát triển. Phát triển bền vững là sự phát triển không chỉ chú trọng tới phát triển kinh tế mà còn phải tôn trọng những nhu cầu tất yếu của xã hội và sự tác động đến môi trường sinh thái. Đó là "sự phát triển có thể đáp ứng được những nhu cầu hiện tại mà không ảnh hưởng, tổn hại đến những khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai..." . Nói cách khác, phát triển bền vững phải bảo đảm có sự phát triển kinh tế hiệu quả, xã hội công bằng và môi trường được bảo vệ, gìn giữ. Để đạt được điều này, tất cả các thành phần kinh tế - xã hội, nhà cầm quyền, các tổ chức xã hội... phải bắt tay nhau thực hiện nhằm mục đích dung hòa ba lĩnh vực chính: kinh tế - xã hội - môi trường. 2.Vai trò của nguồn vốn: 2.1 Đối với mỗi đơn vị kinh tế Vốn có vai trò hết sức quan trọng đối với doanh nghiệp, vốn là điều kiện không thể thiếu được để thành lập doanh nhiệp và tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh. Hoạt động này cần phải có tiền để chi tiêu, mua sắm thiết bị, nguyên vật liệu, trả lương … số tiền này không thể lấy ở đâu khác ngoài nguồn vốn của doanh nghiệp. Khi nguồn vốn không đáp ứng đủ nhu cầu này thì hoạt động sản xuất kinh doanh bị ngưng trệ, suy giảm. nếu tình trạng này không được khắc phục kịp thời, doanh nghiệp sẽ lâm vào tình trạng khủng hoảng tài chính, gián đoạn hoạt động kinh doanh, tâm lý công nhân viên hoang mang, mất uy tín với khách hàng… và có thể dẫn đến phá sản hoặc sáp nhập với công ty khác. Nếu hoạt động sản xuất kinh doanh đã ổn định, thì để mở rộng quy mô đòi hỏi doanh nghiệp phải mở rộng sản xuất, gia tăng sản lượng, gia tăng đầu tư và tái đầu tư, cải tiến máy móc thiết bị … để làm được những điều đó doanh nghiệp cần phải huy động thêm vốn đầu tư. Thực tế cho thấy nhu cầu huy động vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam là rất lớn, nếu không bổ sung vốn kịp thời cho điều này, họ sẽ có thể bị mất vị thế của mình trên thị trường. Tất cả những điều trên cho thấy sự quan trọng của vốn đối với sự tồn tại và phát triển của một doanh nghiệp. 2.2 Đối với nền kinh tế quốc dân Vốn bao gồm những nhân tố là : vốn tiền tệ, vốn tư liệu sản xuất, vốn con người. Với một nước đang phát triển như Việt Nam, cũng giống như nhiều nước đang hoặc chậm phát triển khác, chúng ta không có đủ khả năng sản xuất ra tư liệu sản xuất đặc biệt là máy móc thiết bị. Vì vậy chúng ta buộc phải nhập khẩu phần lớn máy móc công nghệ từ nước ngoài. Để có tiền cho nhập khẩu máy móc chúng ta có thể đi vay nước ngoài hoặc tiết kiệm quốc dân. Đi vay nước ngoài thì phải trả cả vốn và lãi, đồng thời còn phải chịu nhiều điều kiện ràng buộc khiến chúng ta phải lệ thuộc vào họ. Vì thế ta phải bằng mọi biện pháp và hình thức phù hợp, linh hoạt để đẩy mạnh tích tụ tập trung vốn cho công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, trong đó vốn trong nước phải là quyết định. Nếu dựa trên nguồn gốc thì ta có: vốn nội địa, và vốn nước ngoài. Vốn nội dịa hình thành từ tích lũy nội địa (bao gồm tiết kiệm của chính phủ và tiết kiệm của người dân), thể hiện nội lực của một quốc gia, nó có tính ổn định và chủ động hơn so với vốn nước ngoài. Đây là yếu tố then chốt quyết định tính ổn định của tăng trưởng kinh tế. Một nền kinh tế huy động được nhiều vốn trong nước đưa vào đầu tư sẽ an toàn hơn đồng thời tránh bị lệ thuộc so với vốn nước ngoài. Tất nhiên nói như vậy không có nghĩa là chúng ta xem nhẹ nguồn vốn nước ngoài. Do khởi đầu của chúng ta thấp, chúng ta cần dựa vào vốn đầu tư nước ngoài. Vốn nước ngoài có vai trò tạo kích thích cho sản xuất trong nước phát triển. Nhưng dù là viện trợ phát triển chính thức (ODA) hay đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) thì đều là phải hoàn trả với lãi suất nặng nhẹ khác nhau. Vì thế, để phát triển ổn định và lâu dài cần phải huy động tối đa nguồn vốn trong nước. Trong từng thời kì cụ thể, để việc tích lũy vốn cao có hiệu quả, cần phaỉ tính toán được mức tích lũy hợp lý. Không phải cứ tích lũy càng cao càng tốt, vì tích lũy quá cao đồng nghĩa với giảm tiêu dùng, vô hình chung làm giảm sức mua, làm cho sản xuất không phát triển được. Theo kinh nghiệm của nhiều nước cho thấy, mức hợp lý đối với tích lũy của Việt Nam nên là 30%GDP. Bên cạnh đó, việc sử dụng hợp lý có hiệu quả số tích lũy đó cũng rất quan trọng. Để đo lường hiệu quả sử dụng vốn ta sử dụng hệ số ICOR. Hệ số này cho biết một đồng sản lượng( tăng trưởng) cần bao nhiêu đồng vốn đầu tư. Theo các chuyên gia, với các nước đang phát triển như Việt Nam, hệ số này nên dao động từ 2.5 đến 3, và mức tăng trưởng bình quân ít nhất trên 8% một năm. Thực tế ICOR của chúng ta xấp xỉ 5, cho thấy chúng ta đang sử dụng lãng phí vốn đầu tư rất lớn. Ngoài vốn tiền tệ ra, chúng ta đang có một lượng vốn quí hơn cả là con người. Với dân số trên 80 triệu với tỷ lệ trong độ tuổi lao động cao, chi phí thấp thì đây là một lợi thế rất lớn của chúng ta. Tuy nhiên trình độ tay nghề còn thấp lại là một điểm yếu khi so sánh với các nước khác trong khu vực. Vì vậy cần chú trọng đầu tư vào giáo dục đào tạo để có được một đội ngũ lao động lành nghề thì mới có thể sử dụng có hiệu quả vốn con người, nâng cao khả năng cạnh tranh trong thu hút đầu tư. 3.Tổng quan về các nguồn huy động vốn cho sự phát triển kinh tế. 3.1 Từ nguồn trong nước : a) Nguồn vốn nhà nước : bao gồm nguồn ngân sách nhà nước, nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước và nguồn đầu tư phát triển của doanh nghiệp nhà nước. Nguồn vốn từ ngân sách nhà nước : là một nguồn đầu tư quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của quốc gia. Nó thường được sử dụng cho các dự án phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng, các lĩnh vực cấn sự tham gia của nhà nước, chi cho hoạt động của bộ máy nhà nước. Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước : đây là một phương thức quá độ, chuyển từ phương thức cấp phát vốn ngân sách nhà nước sang phương thức tín dụng đối với các dự án có khả năng thu hồi vốn trực tiếp. Với nguyên tắc tín dụng, các đơn vị sử dụng vốn này phải đảm bảo nguyên tắc hoàn trả vốn vay. Bên cạnh đó, nó còn phục vụ công tác điều tiết kinh tế vĩ mô, thông qua nguồn vốn tín dụng, nhà nước khuyền khích phát triển kinh tế ở những vùng, miền phù hợp với chiến lược của mình. Nguồn vốn đầu tư của doanh nghiệp nhà nước : mặc dù vẫn còn một số hạn chế nhưng khu vực kinh tế nhà nước, với sự tham gia của các doanh nghiệp nhà nước vẫn đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nhiều thành phần, hiệu quả của khu vực này ngày càng được khẳng định. Nguồn này chủ yếu bao gồm từ khấu hao tài sản cố định và thu nhập giữ lại doanh nghiệp nhà nước, thông thường chiếm 14 -15% tổng vốn đầu tư xã hội b) Nguồn vốn từ khu vực dân cư và tư nhân : bao gồm tất cả các phần tiết kiệm của dân cư, phần tích lũy của doanh nghiệp tư nhân, hợp tác xã. Đây là một nguồn vốn quan trọng, có tiềm năng to lớn trong việc phát triển kinh tế xã hội, góp phần đáng kể vào tổng quy mô nguồn vốn xã hội, được xem như là những tế bào có khả năng tái tạo các nguồn tài chính khác. c) Kiều hối : Kiều hối là bao gồm toàn bộ tiền kiều bào gửi cho thân nhân với ý nghĩa trợ cấp tiêu dùng, tiền người lao động gửi về nhà, tiền kiều bào gửi về đầu tư, người thân của khách du lịch chuyển về tiếp tế khi họ dừng chân ở Việt Nam, người thân của du học sinh người nước ngoài du học tại Việt Nam và phải thông qua con đường chính thức như: thông qua các tổ chức tín dụng được phép; thông qua các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ tài chính bưu chính quốc tế; cá nhân mang ngoại tệ theo người vào Việt Nam có khai báo với Hải quan cửa khẩu. Ở nước ngoài nguồn vốn này được tính là nguồn huy động nước ngoài. Còn ở Việt Nam, nguồn này vẫn được tính là nguồn huy động trong nước, điều này vô tình đã làm tăng trị số của GDP. 3.2 Từ nguồn nước ngoài : a) FDI : Khái niệm về đầu tư trực tiếp nước ngoài : Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) xảy ra khi công dân của một nước (nước đầu tư) nắm giữ quyền kiểm soát các hoạt động kinh tế ở một nước khác (nước chủ nhà hay nước nhận đầu tư). Trong khái niệm này, thật sự không có sự đầu tư gia tăng về kinh tế hay một sự chuyển giao ròng giữa các quốc gia mà đơn thuần chỉ là một sự di chuyển tư bản từ quốc gia này sang quốc gia khác. Các công ty nắm quyền kiểm soát hoạt động ở nhiều quốc gia được xem như các công ty đa quốc gia, các công ty xuyên quốc gia hay các công ty toàn cầu. Sự phát triền hoạt động của các công ty này chính là động lực thúc đầy sự phát triển trong thương mại quốc tế thông qua hình thức đầu tư trực tiếp vào các quốc gia khác trên thế giới. b) FII : Đầu tư gián tiếp nước ngoài là hình thức đầu tư thông qua việc mua cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu, các giấy tờ có giá khác, quỹ đầu tư chứng khoán và thông qua các định chế tài chính trung gian khác mà nhà đầu tư không trực tiếp tham gia quản lý hoạt động đầu tư. iii) ODA : sẽ được làm rõ ở phần sau II. Vai trò của nguồn vốn ODA: 1.Khái Niệm ODA là viết tắt của cụm từ Official Development Assistance (Hỗ trợ phát triển chính thức), là một hình thức đầu tư nước ngoài. Gọi là Hỗ trợ bởi vì các khoản đầu tư này thường là các khoản cho vay không lãi suất hoặc lãi suất thấp với thời gian vay dài,đôi khi còn gọi là viện trợ. Gọi là Phát triển vì mục tiêu danh nghĩa của các khoản đầu tư này là phát triển kinh tế và nâng cao phúc lợi ở nước được đầu tư. Gọi là Chính thức, vì nó thường là cho Nhà nước vay. Một khoản tài trợ được coi là ODA nếu đáp ứng đầy đủ 3 điều kiện sau: Một là: Được các tổ chức chính thức hoặc đại diện của các tổ chức chính thức cung cấp. Tổ chức chính thức bao gồm các nhà nước mà đại diện là Chính phủ, các tổ chức liên chính phủ hoặc liên quốc gia và các tổ chức phi chính phủ hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận. Hai là: Mục tiêu chính là giúp các nước tiếp nhận phát triển kinh tế, nâng cao phúc lợi xã hội. Các lĩnh vực được ưu tiên sử dụng vốn ODA bao gồm: Xoá đói, giảm nghèo, nông nghiệp và phát triển nông thôn; cơ sở hạ tầng kinh tế kỹ thuật như giao thông vận tải, thông tin liên lạc, năng lượng; cơ sở hạ tầng xã hội như giáo dục, y tế, bảo vệ môi trường; các vấn đề xã hội như tạo việc làm, phòng chống dịch bệnh, phòng chống các tệ nan xã hội; cải cách hành chính, tư pháp, tăng cường năng lực của cơ quan quản lý nhà nước, cải cách thể chế,… Ba là: Thành tố hỗ trợ (Grant element) phải đạt ít nhất 25%. Thành tố hỗ trợ còn được gọi là yếu tố không hoàn lại là một chỉ số biểu hiện tính ưu đãi của ODA so với các khoản vay thương mại theo điều kiện thị trường. Thành tố hỗ trợ càng cao càng thuận lợi cho nước tiếp nhận. Chỉ tiêu này được xác định dựa trên tổ hợp các yếu tố: lãi suất, thời gian ân hạn, thời hạn cho vay, số lần trả nợ trong năm và tỷ lệ chiết khấu. 2. Nguồn gốc ODA: Đại chiến thế giới lần thứ hai kết thúc cũng là thời điểm mở đầu cho một cuộc chiến mới kéo dài gần nửa thế kỷ, đó là chiến tranh lạnh giữa phe Xã hội chủ nghĩa và Tư bản chủ nghĩa, mà đứng đầu là Liên Xô và Hoa Kỳ. Hai cường quốc này thực thi nhiều biện pháp, đặc biệt là về kinh tế để củng cố hệ thống đồng minh của mình. Đối với Hoa Kỳ, nền kinh tế không những không bị tàn phá mà ngày càng giàu có nhờ chiến tranh. Năm 1945, GNP của Hoa Kỳ là 213,5 tỷ USD, tăng gần gấp đôi so với 125,8 tỷ USD của năm 1942 và chiếm 40% tổng sản phẩm toàn thế giới. Ở thái cực khác, các nước đồng minh của Hoa Kỳ lại chịu tác động nặng nề của cuộc chiến tranh. Sự yếu kém về kinh tế của các nước này khiến Hoa Kỳ lo ngại trước sự mở rộng nhanh chóng của phe Xã hội chủ nghĩa. Để ngăn chặn sự phát triển đó, giải pháp quan trọng lúc bấy giờ là giúp các nước tư bản sớm hồi phục kinh tế. Năm 1947, Hoa Kỳ triển khai kế hoạch Marshall, thông qua Ngân hàng Tái thiết và Phát triển quốc tế (IBRD) để viện trợ cho các nước Tây Âu. Từ năm 1947 đến 1951, Hoa Kỳ viện trợ cho các nước Tây Âu tổng cộng 12 tỷ USD (tương đương 2,2% GNP của thế giới và 5,6% GNP của Hoa Kỳ lúc bấy giờ).  Về phía mình, Liên Xô cũng sử dụng biện pháp trợ giúp kinh tế để củng cố và gia tăng số lượng các nước gia nhập phe Xã hội chủ nghĩa. Với tinh thần quốc tế vô sản, Liên Xô đã tài trợ cho nhiều quốc gia trên thế giới, từ các nước ở châu Âu, châu Á, đến các nước châu Phi và châu Mỹ La-tinh. Năm 1991, khi Liên Xô tan rã, tổng số tiền các nước thuộc phe Xã hội chủ nghĩa còn nợ Liên Xô lên đến con số khổng lồ, quy đổi thành khoảng 120 tỷ USD. Viện trợ của Hoa Kỳ cho các nước Tây Âu và của Liên Xô cho các nước xã hội chủ nghĩa được xem như là các khoản ODA đầu tiên. Mặc dù, mục tiêu chính của các khoản viện trợ này là chính trị nhưng chúng cũng đã có tác dụng quan trọng giúp các nước tiếp nhận phát triển kinh tế, xã hội. Trong những năm 1960, trước sự đấu tranh mạnh mẽ của các nước đang phát triển, cộng với nhận thức thay đổi của các nước giàu đối với sự phát triển của các nước đang phát triển, Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) thành lập Uỷ ban Hỗ trợ phát triển (DAC). Uỷ ban này có nhiệm vụ yêu cầu, khuyến khích và điều phối viện trợ của các nước OECD cho các nước đang và kém phát triển. Trong bản báo cáo đầu tiên của mình, DAC đã sử dụng thuật ngữ “Offical Development Assistance”, với nghĩa là sự trợ giúp tài chính có ưu đãi của các nước phát triển cho các nước đang phát triển. 3.Phân loại ODA : Có nhiều cách phân loại ODA, dưới đây là một số cách phổ biến nhất: 3.1 Căn cứ vào tính chất tài trợ: ODA không hoàn lại: Là hình thức ODA mà nước tiếp nhận không phải hoàn trả lại cho nhà tài trợ. ODA vay ưu đãi (hay còn gọi là tín dụng ưu đãi): Là khoản vay với các điều kiện ưu đãi về lãi suất (dưới 2%, trung bình từ 0.25%năm), thời gian ân hạn và thời gian trả nợ dài (25-40 năm mới phải hoàn trả và thời gian ân hạn 8-10 năm), bảo đảm “yếu tố không hoàn lại” đạt ít nhất 35% đối với các khoản vay có ràng buộc và 25% đối với các khoản vay không ràng buộc. ODA vay hỗn hợp: Là các khoản viện trợ không hoàn lại hoặc các khoản vay ưu đãi được cung cấp đồng thời với các khoản tín dụng thương mại nhưng tính chung lại có “yếu tố không hoàn lại” đạt ít nhất 35% đối với các khoản vay có ràng buộc và 25% đối với các khoản vay không ràng buộc. 3.2 Căn cứ vào mục đích sử dụng: Hỗ trợ cơ bản: Là loại ODA dành cho việc thực hiện nhiệm vụ chính của các chương trình, dự án đầu tư xây dựng các cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội như đường sá, cầu, cảng,…. Loại ODA này thường là các khoản vay ưu đãi. Hỗ trợ kỹ thuật: Là loại ODA được thực hiện nhằm chuyển giao tri thức, chuyển giao công nghệ, phát triển năng lực, phát triển thể chế, nghiên cứu tiền đầu tư các chương trình dự án, phát triển nguồn nhân lực,… Loại ODA này thường là ODA không hoàn lại. 3.3 Căn cứ vào điều kiện để nhận ODA: ODA không ràng buộc: Là khoản ODA bằng vốn vay hoặc không hoàn lại không kèm theo những điều khoản ràng buộc liên quan đến cung cấp và mua sắm hàng hóa và dịch vụ.  ODA có ràng buộc: Là khoản ODA bằng vốn vay hoặc không hoàn lại có kèm theo các điều kiện liên quan đến cung cấp và mua sắm hàng hóa và dịch vụ từ một số nhà cung cấp hoặc quốc gia nhất định do nhà tài trợ quyết định. 3.4 Căn cứ vào nhà tài trợ: ODA song phương: Là loại ODA được Chính phủ một nước tài trợ trực tiếp cho Chính phủ nước khác. ODA đa phương: Là loại ODA do các tổ chức quốc tế, các tổ chức liên chính phủ tài trợ cho Chính phủ của một nước. ODA của các tổ chức phi chính phủ: Là loại ODA do các tổ chức phi chính phủ cung cấp. 5. Đặc điểm của nguồn vốn ODA 5.1 Đối với nước viện trợ: + cái được Tùy theo chiến lược kinh tế mà nước viện trợ có thể cấp ODA kèm theo yêu cầu nước tiếp nhận phải cắt giảm thuế, mở của thị trường những mặt hàng mà họ có lợi thế cạnh tranh, gỡ dần hàng rào bảo hộ các ngành công nghiệp non trẻ của nước tiếp nhận. Thông qua cung cấp ODA, các nước viện trợ có thể thỏa thuận yêu cầu nước tiếp nhận sử dụng những dịch vụ, hàng hóa của họ. Lượng hàng hóa này thường được tính là 1 phần của vốn ODA Cũng thông qua ODA, các nước viện trợ có thể yêu cầu các nước tiếp nhận mua lại những máy móc, công nghệ đã lỗi thời ở nước họ. Hoặc chúng được tính như 1 phần trong vốn ODA. Việc cung cấp vốn ODA giúp các nước viện trợ tạo lập các mối quan hệ hợp tác, mở rộng ngoại giao, giúp nước viện trợ tạo được vị thế vững chắc trên thế giới. + cái mất Nước viện trợ sẽ phải gánh chịu chi phí cơ hội, vì với số vốn đem viện trợ họ có thể đầu tư vào những dự án trong nước có mức sinh lợi cao hơn. Khi viện trợ ODA cho nước khác, nghĩa là họ đã chấp nhận điều này. Tuy nhiên, việc viện trợ ODA cũng mang lại cho bên viện trợ những lợi ích gián tiếp khác, như những lợi thế chính trị vô hình, … 5.2 Nước nhận viện trợ + thuận lợi Ta có thể dễ dàng nhận thấy những ưu điểm của nguồn vốn này qua nhưng đặc điểm hay cũng như yêu cầu để một nguồn vốn đầu tư nước ngoài được gọi là ODA đã được nêu ở trên. Đây là nguồn vốn viện trợ không hoàn lại hoặc với lãi suất rất thấp và có thời hạn rất dài, mặt khác trong nguồn vốn ODA luôn có một phần viện trợ không hoàn lại, thấp nhất là 25% của tổng số vốn ODA, cho nên có thể tận dụng để phát triển cơ sở hạ tầng qua đó tạo môi trường thuận lợi thu hút các nguồn vốn đầu tư nước ngoài khác như FDI hay các nguồn vốn tài trợ khác của các công ty, tổ chức kinh tế quốc tế khác Xoá đói giảm nghèo, phát triển xã hội. tăng cường bảo vệ môi trường và phát triển bền vững: Nhiều dự án ODA hỗ trợ bảo vệ môi trường ở các thành phố lớn. Nhiều dự án ODA đã dành cho việc tăng cường hệ thống cấp nước sạch ở đô thị và nông thôn; cải thiện hệ thống thoát nước thải ở các thành phố lớn. Bảo tồn các di tích văn hóa hay cá danh lam thắng cảnh. tăng cường thể chế: ODA đã góp phần tăng cường năng lực và thể chế thông qua các chương trình, dự án hỗ trợ công cuộc cải cách pháp luật, cải cách hành chính và xây dựng chính sách quản lý kinh tế ò các nứoc đang phát triển. Quan hệ đối tác chặt chẽ: Quan hệ giữa phía nhận viện trợ và các nhà tài trợ đã được thiết lập trên cơ sở quan hệ đối tác, đề cao vai trò làm chủ của bên tiếp nhận ODA thông qua các hoạt động hài hoà và tuân thủ các quy trình và thủ tục ODA. Điều này được thể hiện trên nhiều lĩnh vực như phát triển các quan hệ đối tác trong nông nghiệp, lâm nghiệp, hiệu quả viện trợ... nghiên cứu áp dụng các mô hình viện trợ mới (hỗ trợ ngân sách, tiếp cận ngành,...), hài hoà quá trình chuẩn bị dự án, thống nhất hệ thống báo cáo, hài hoà hoá quá trình mua sắm, tăng cường năng lực toàn diện về quản lý ODA. + khó khăn Các nước giàu khi viện trợ ODA đều gắn với những lợi ích và chiến lược như mở rộng thị trường, mở rộng hợp tác có lợi cho họ, đảm bảo mục tiêu về an ninh - quốc phòng hoặc theo đuổi mục tiêu chính trị... Vì vậy, họ đều có chính sách riêng hướng vào một số lĩnh vực mà họ quan tâm hay họ có lợi thế (những
Luận văn liên quan