Kỹ thuật nuôi cấy mô ra đời đã mở ra một cuộc cách mạng trong nhân giống thực
vật. Nhưng với phương pháp truyền thống nuôi cấy trên môi trường thạch thì khó đáp
ứng được nhu cầu giống cây trồng cung cấp trên thị trường, giá thành lại cao; do việc
phải cấy chuyền, tách mẫu bên trong tủ cấy hầu như đều thực hiện bằng tay, tốn nhiều lao
động lại dể bị nhiễm. Chính vì vậy cần phải có một hệ thống nuôi cấy mới làm sao có thể
tự động hóa giúp giảm thiểu nhân công, thời gian và số lượng cây nhiều. Năm 1981,
Takayama và Misawa đã đề xuất một hệ thống nuôi cấy lỏng có hệ thống sục khí chủ
động từ bên ngoài vào với tên gọi Bioreactor [2]. Trong nuôi cấy lỏng người ta chia ra ba
loại là nuôi cấy lỏng tĩnh, nuôi cấy lỏng lắc và nuôi cấy Bioreactor, tất cả đều được dùng
để nuôi cấy huyền phù tế bào, phát sinh cơ quan.[21] Và hệ thống Bioreactor là thường
được dùng nhiều, chủ yếu để nuôi cấy huyền phù tế bào và sản xuất hoạt chất thứ cấp trên
nhiều đối tượng nghiên cứu khác nhau [22][2][18], và hiện nay đang có xu hướng dùng
Bioreactor để nuôi cấy rễ lông tơ nhằm thu nhận hoạt chất thứ cấp, bởi so với nuôi cấy
huyền phù thì nuôi cấy rể có ưu thế là ít bị biến đổi di truyền và chứa nhiều sản phẩm cần
thu nhận hơn.
Nhưng thực ra từ những năm 60, Giáo sư Gamborg đã đưa ra ý tưởng ứng dụng
nuôi cấy tế bào thực vật trong fermenter, vào những năm đó thiết bị nuôi cấy tương
đương như hệ thống nuôi cấy lên men. Bằng thiết bị đó các nhà khoa học có thể điều
khiển và xác định được sự tăng trưởng của tế bào. Sau khi bắt đầu nuôi cấy tế bào trong
môi trường lỏng đã cho các nhà khoa học biết rằng tế bào thực vật khác với tế bào nấm
men, và nếu được bảo quản trong điều kiện giống nhau thì tế bào thực vật không sinh
trưởng đơn độc mà cũng không xảy ra sự sinh trưởng đồng thời theo một cách như tế bào
nấm men. Nuôi cấy bằng kỹ thuật này, việc nghiên cứu thu nhận sinh khối, nghiên cứu
dinh dưỡng và sinh hoá trong môi trường lỏng tỏ ra rất hiệu quả [4]. Trong những năm
sau đó vào những năm 1970, một công ty Thuốc lá của Nhật Bản đã rất quan tâm đến vấn
đề này, họ đã tiến hành sản xuất sinh khối cây thuốc lá để làm nguyên liệu cho sản xuất
thuốc điếu; công ty này đã nuôi cấy trong tank fermenter 20 lít [15].
Về sau, để khắc phục những nhược điểm của hệ thống cho ngập chìm mẫu hoàn
toàn, Harris và Mason đã cải tiến thành hai hệ thống nuôi cấy ngập chìm tạm thời
(Temporary immersion system- TIS) là hệ thống nuôi cấy nghiêng và hệ thống nuôi cấy
Rocker vào năm 1983; ít lâu sau, vào năm 1985 Tesserat và Vandercook đã thiết kế một
hệ thống nuôi cấy tự động APCS, đây là hệ thống có thể thây thế được môi trường và có
thể sử dụng trong thời gian dài mà không cần cấy chuyền. Nuôi cấy bằng Bioreactor là
Đồ án chuyên môn Công nghệ Tế bào Thực vật
GVHD: Huỳnh Văn Kiệt 2 SVTH: Huỳnh Phạm Bảo Triều
một trong những phương pháp đầy hứa hẹn cho nhân giống với số lượng lớn tế bào, phôi
soma hay các đơn vị phát sinh cơ quan (củ, chồi, ), và sản xuất các hoạt chất trao đổi
thứ cấp bằng cách sử dụng tế bào thực vật.
Mỗi hệ thống có những ưu nhược điểm riêng nhưng tất cả đều mang lại một số
thành công bước đầu trong việc tạo ra một số sản phẩm. Trong những năm gần đây, hệ
thống đã được phổ biến rộng, nhưng cũng chỉ mới ở các công ty đa quốc gia hoặc nghiên
cứu cơ bản tại các phòng nghiệm và hệ thống này được ứng dụng trên nhiều lĩnh vực
khác nhau như nhân giống cây trồng, y học và đạt một số kết quả nhất định. Một công
ty tai Đức, Diversa, đã trang bị đến năm hệ thống Bioreactor có dung tích đến 75.000 L
để nuôi cấy tế bào thực vật. Tuy nhiên, những chi tiết cụ thể về hệ thống Bioreactor đó
không được tiết lộ, theo hình ảnh trưng bày cho thấy hệ thống của họ có hình dáng trông
giống hệ thống lên men vi khuẩn bình thường. Công ty đó đã nuôi cấy tế bào Echinacea
purpurea ở quy mô lớn để sản xuất hợp chất có hoạt tính miễn dịch sinh học là
polysaccharide.[15]
24 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 6862 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Ứng dụng hệ thống nuôi cấy bioreactor trong công nghệ sinh học thực vật, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đồ án chuyên môn Công nghệ Tế bào Thực vật
GVHD: Huỳnh Văn Kiệt 1 SVTH: Huỳnh Phạm Bảo Triều
ỨNG DỤNG HỆ THỐNG NUÔI CẤY BIOREACTOR TRONG CNSH
THỰC VẬT
1. MỞ ĐẦU
Kỹ thuật nuôi cấy mô ra đời đã mở ra một cuộc cách mạng trong nhân giống thực
vật. Nhưng với phương pháp truyền thống nuôi cấy trên môi trường thạch thì khó đáp
ứng được nhu cầu giống cây trồng cung cấp trên thị trường, giá thành lại cao; do việc
phải cấy chuyền, tách mẫu bên trong tủ cấy hầu như đều thực hiện bằng tay, tốn nhiều lao
động lại dể bị nhiễm. Chính vì vậy cần phải có một hệ thống nuôi cấy mới làm sao có thể
tự động hóa giúp giảm thiểu nhân công, thời gian và số lượng cây nhiều. Năm 1981,
Takayama và Misawa đã đề xuất một hệ thống nuôi cấy lỏng có hệ thống sục khí chủ
động từ bên ngoài vào với tên gọi Bioreactor [2]. Trong nuôi cấy lỏng người ta chia ra ba
loại là nuôi cấy lỏng tĩnh, nuôi cấy lỏng lắc và nuôi cấy Bioreactor, tất cả đều được dùng
để nuôi cấy huyền phù tế bào, phát sinh cơ quan.[21] Và hệ thống Bioreactor là thường
được dùng nhiều, chủ yếu để nuôi cấy huyền phù tế bào và sản xuất hoạt chất thứ cấp trên
nhiều đối tượng nghiên cứu khác nhau [22][2][18], và hiện nay đang có xu hướng dùng
Bioreactor để nuôi cấy rễ lông tơ nhằm thu nhận hoạt chất thứ cấp, bởi so với nuôi cấy
huyền phù thì nuôi cấy rể có ưu thế là ít bị biến đổi di truyền và chứa nhiều sản phẩm cần
thu nhận hơn.
Nhưng thực ra từ những năm 60, Giáo sư Gamborg đã đưa ra ý tưởng ứng dụng
nuôi cấy tế bào thực vật trong fermenter, vào những năm đó thiết bị nuôi cấy tương
đương như hệ thống nuôi cấy lên men. Bằng thiết bị đó các nhà khoa học có thể điều
khiển và xác định được sự tăng trưởng của tế bào. Sau khi bắt đầu nuôi cấy tế bào trong
môi trường lỏng đã cho các nhà khoa học biết rằng tế bào thực vật khác với tế bào nấm
men, và nếu được bảo quản trong điều kiện giống nhau thì tế bào thực vật không sinh
trưởng đơn độc mà cũng không xảy ra sự sinh trưởng đồng thời theo một cách như tế bào
nấm men. Nuôi cấy bằng kỹ thuật này, việc nghiên cứu thu nhận sinh khối, nghiên cứu
dinh dưỡng và sinh hoá trong môi trường lỏng tỏ ra rất hiệu quả [4]. Trong những năm
sau đó vào những năm 1970, một công ty Thuốc lá của Nhật Bản đã rất quan tâm đến vấn
đề này, họ đã tiến hành sản xuất sinh khối cây thuốc lá để làm nguyên liệu cho sản xuất
thuốc điếu; công ty này đã nuôi cấy trong tank fermenter 20 lít [15].
Về sau, để khắc phục những nhược điểm của hệ thống cho ngập chìm mẫu hoàn
toàn, Harris và Mason đã cải tiến thành hai hệ thống nuôi cấy ngập chìm tạm thời
(Temporary immersion system- TIS) là hệ thống nuôi cấy nghiêng và hệ thống nuôi cấy
Rocker vào năm 1983; ít lâu sau, vào năm 1985 Tesserat và Vandercook đã thiết kế một
hệ thống nuôi cấy tự động APCS, đây là hệ thống có thể thây thế được môi trường và có
thể sử dụng trong thời gian dài mà không cần cấy chuyền. Nuôi cấy bằng Bioreactor là
Đồ án chuyên môn Công nghệ Tế bào Thực vật
GVHD: Huỳnh Văn Kiệt 2 SVTH: Huỳnh Phạm Bảo Triều
một trong những phương pháp đầy hứa hẹn cho nhân giống với số lượng lớn tế bào, phôi
soma hay các đơn vị phát sinh cơ quan (củ, chồi,…), và sản xuất các hoạt chất trao đổi
thứ cấp bằng cách sử dụng tế bào thực vật.
Mỗi hệ thống có những ưu nhược điểm riêng nhưng tất cả đều mang lại một số
thành công bước đầu trong việc tạo ra một số sản phẩm. Trong những năm gần đây, hệ
thống đã được phổ biến rộng, nhưng cũng chỉ mới ở các công ty đa quốc gia hoặc nghiên
cứu cơ bản tại các phòng nghiệm và hệ thống này được ứng dụng trên nhiều lĩnh vực
khác nhau như nhân giống cây trồng, y học… và đạt một số kết quả nhất định. Một công
ty tai Đức, Diversa, đã trang bị đến năm hệ thống Bioreactor có dung tích đến 75.000 L
để nuôi cấy tế bào thực vật. Tuy nhiên, những chi tiết cụ thể về hệ thống Bioreactor đó
không được tiết lộ, theo hình ảnh trưng bày cho thấy hệ thống của họ có hình dáng trông
giống hệ thống lên men vi khuẩn bình thường. Công ty đó đã nuôi cấy tế bào Echinacea
purpurea ở quy mô lớn để sản xuất hợp chất có hoạt tính miễn dịch sinh học là
polysaccharide.[15]
2. MỘT SỐ HỆ THỐNG BIOREACTOR
2.1. Cấu tạo chung
Bioreactor là hệ thống có cấu tạo tương đối giống với hệ thống fermentor trong
nuôi cấy vi sinh vật. Cấu trúc bên trong của Bioreactor cũng chứa các thành phần như bộ
điều chỉnh nhiệt độ - pH, thùng chứa dung dịch dinh dưỡng, hệ thống cung cấp không
khí, hệ thống cánh khuấy (trong một số thiết bị được thay bằng bộ sục khí nén từ dưới
lên)… Nguyên tắc hoạt động của từng thiết bị phụ thuộc vào từng công nghệ sản xuất. Về
sau, để tăng khả năng ứng dụng của hệ thống này trong nuôi cấy, người ta đã đưa ra một
số mô hình cải tiến như các hệ thống ngập chìm tạm thời (TIS). Hệ thống này hoạt động
trên nguyên tắc ngập chìm không hoàn toàn, mà được điều chỉnh thời gian ngập bằng tự
động.
2.2. Phân loại
Hệ thống Bioreactor có rất nhiều kiểu, nhưng trong giới hạn bài viết tôi chỉ đưa ra
hai hệ thống nuôi cấy được sử dụng phổ biến nhất trong nghiên cứu cũng như trong sản
xuất là hệ thống Bioreactor kiểu Air-lift và hệ thống nuôi cấy ngập chìm tạm thời.
2.2.1. Bioreactor không có cánh khuấy
Đây là kiểu Bioreactor đơn giản, được thiết kế với một bộ phận sủi bột khí ở phí
dưới đáy bình, nó có tác dụng khuấy trộn môi trường và cung cấp oxygen và lượng
oxygen cung cấp ảnh hưởng đến sự phát triển của đối tượng. Theo Hiroyuki Honda,
callus của cây nho phát triển tốt nhất ở dòng khí cung cấp là 80 ml/phút, và góp phần làm
tăng lượng anthocyanin trong nuôi cấy [11].
Loại này khắc phục được hai nhược điểm của Bioreactor có cánh khuấy là: ít ốn
năng lượng cho khuấy trộn môi trường và ít gây ra lực xé rách các tế bào nhờ những dòng
Đồ án chuyên môn Công nghệ Tế bào Thực vật
GVHD: Huỳnh Văn Kiệt 3 SVTH: Huỳnh Phạm Bảo Triều
khí nhỏ di chuyển nhẹ nhàng từ dưới lên. Sự hòa trộn dòng khí vào pha lỏng trở nên hiệu
quả hơn do có sự lưu trú các bong bóng khí trong môi trường [2]. Theo nghiên cứu của
Paek và cộng sự (2003) trên đối tượng là các cây lâm nghiệp cho thấy, để có thể tạo được
các bọt khí nhỏ mịn, dòng khí phải được thổi qua một màng lọc với những lỗ có kích
thước nhỏ 0.01 – 0.1 mm. Chính nhờ sự nhỏ mịn của các bong bóng khí đã làm giảm
đáng kể sự cọ xát cho các tế bào nên tế bào ít bị tổn thương, nhất là đối với những tế bào
có độ nhạy cảm cao [17]
Ưu điểm của hệ thống này là có khả năng nhân sinh khối rất nhanh, khi nuôi ấy
ngập chìm và được di chuyển tự
do trong môi trường làm cho
hiệu ứng ưu thế ngọn bị biến
mất và chồi phát triển tương đối
đồng đều. Hệ thống này rất phù
hợp cho những quá trình nhân
sinh khối tế bào và nhân sinh
khối rễ do khả năng chịu được
sự ngập chìm trong môi trường,
và thực tế hiện nay người ta
cũng đang sử dụng hệ thống này
vào sản xuất giống hay sinh
khối như nuôi củ hoa Lily, hoa
thu Hải đường hay nhân sâm
của phân viện sinh học Đà Lạt [2].Chính
khả năng này đã thúc đẩy sự ứng dụng hệ
thống Bioreactor vào nhân giống cũng
như nhân nhanh sinh khối để thu các chất hoạt
hóa sinh học.
Tuy nhiên, Hệ thống Bioreactor Air-lift cũng lộ ra những khuyết điểm trong quá
trình nuôi cấy như là dể bị hiện tượng thủy tinh thể hay hiện tượng street tế bào do mẫu
khi nuôi cấy luôn được cho ngập chìm hoàn toàn và liên tục và hệ thống cũng khó áp
dụng một cách đồng loạt cho nhiều giống khác nhau. Một vấn đề lớn nữa là nuôi cấy
trong môi trường lỏng dể bị nhiểm vi sinh vật như nấm,vi khuẩn, côn trùng…Đó là
những nguyên nhân mà hiện nay người ta đã có những cải tiến thiết bị trong nuôi cấy
lỏng có cung cấp không khí từ bên ngoài [2]
2.2.2. Hệ thống nuối cấy ngập chìm tạm thời
Hệ thống ngập chìm tạm thời gọi tắc là TIS, được nghiên cứu cải tiền vào năm
1985. Và nó được sử dụng nhiều trong các nghiên cứu [23].
Ở nước ta, bước đầu Phân viện Sinh học Đà Lạt đã chế tạo hệ thống nuôi cấy này
và đã thành công trong việc nhân giống nhanh loài hoa African violet. Kết quả cho thấy
Đồ án chuyên môn Công nghệ Tế bào Thực vật
GVHD: Huỳnh Văn Kiệt 4 SVTH: Huỳnh Phạm Bảo Triều
hệ thống TIS cho hiệu quả nhân chồi và tăng sinh khối chồi hoa African violet cao hơn so
với phương pháp nhân giống truyền thống. Cụ thể là số chồi tăng 4,61 lần và sinh khối
tăng 23,17 lần [2]
2.2.2.1. Nguyên tắc và cấu tạo
Ngoài những hệ thống nuôi cấy nghiêng, Rocker và hệ thống nuôi cấy tự động
APCS thì trên thị trường một số hệ thống đã được thương mại hóa như: Hệ thống RITA,
hệ thống bình đôi BIT và hệ thống Plantima. Vì đây thực ra là các hệ thống được dùng để
nghiên cứu ở nước ta hiện nay.
Tất cả các hệ thống này đều tuân theo những điều kiện là tránh sự ngập liên tục, có
thể thay đổi môi trường, điều khiển tự động và hạn chế sự nhiểm.
Về cấu tạo hệ thống nuôi cấy ngập chìm tạm thời gồm các bộ phận như máy nén
khí tạo áp lực để hút môi trường từ ngăn chứa lên ngăn chứa mẫu cấy và ngược lại, hệ
thống cài đặt thời gian dùng để điều khiển chu kỳ ngập, hệ thống ống dẫn và van điều
khiển, các màng lọc, bình nuôi cấy thường bằng nhựa polycarbonate hay thủy tinh.
2.2.2.1.1. Hệ thống RITA
Hệ thống RITA (Hình 1) là công trình của
Teisson và Alvard vào năm 1995. Một bình chứa
1 L gồm có hai phần, phần trên chứa mẫu cấy và
phần dưới chứa môi trường. Một áp suất khí
dương được cung cấp vào ngăn dưới sẽ đẩy chất
lỏng dâng lên ngăn chứa mẫu cấy. Mẫu cấy được
ngập chìm trong môi trường lỏng lâu hay mau tùy
theo thời gian áp suất vượt mức được duy trì.
Trong suốt thời gian ngập, không khí được sục vào trong môi trường lỏng, môi trường
được chuyển động làm cho mẫu cấy xoay trở được các mặt tiếp xúc với bề mặt môi
trường, áp suất vượt mức sau đó được thoát ra bên ngoài nhờ một ngõ ra phía trên đầu hệ
thống. Và hệ thống này thể tích môi trường dinh dưỡng được giữ trong suốt quá trình
nuôi cấy mà không cần phải thay mới.
Hiện nay, có nhiều hãng sản xuất hệ thống nuôi cấy ngập chìm tạm thời RITA®
như hãng Cirad, Pháp; BIT® Twin Flask của Cuba đã được khảo sát và nghiên cứu trên
nhiều đối tượng khác nhau. Một hệ thống cũng xuất hiện gần đây là hệ thống Plantima®
Đồ án chuyên môn Công nghệ Tế bào Thực vật
GVHD: Huỳnh Văn Kiệt 5 SVTH: Huỳnh Phạm Bảo Triều
của công ty Atech, Ðài Loan. Hệ thống này cũng đã được tiến hành khảo sát trên nhiều
đối tượng như chuối, hoa Lan…
Hình 1:
Pha 1:Mô không ngập trong môi trường
Pha 2: Hiện tượng ngập được hoạt hóa, các van
mở ra cho khí đi qua các màng lọc đẩy môi trường
lỏng lên ngập mô cấy.
Pha 3: Sự trao đổi khí trong hệ thống
Pha 4: Chu kỳ kết thúc, các van đóng lại và môi
trường và môi trường lỏng rút xuống ngăn dưới
2.2.2.1.2. Hệ thống bình sinh đôi BIT
Hệ thống bình sinh đôi BIT (Hình 2) được thiết kế
bởi Escalona và cộng sự (1998) được dự định nhân giống số
lượng lớn qua con đường phát sinh phôi soma. Ðối với nhân
giống theo con đường phát sinh cơ quan kích thước mẫu cấy
đòi hỏi một hệ thống có thể tích lớn hơn và rẻ hơn. Con
đường dễ dàng nhất để đạt được trạng thái ngập chìm tạm
thời theo chu kỳ nhất định là nối hai bình thủy tinh hay
plastic có kích thước từ 250 mL - 10 L bằng một hệ thống
ống dẫn, và điều khiển tạo ra áp suất vượt mức để đưa môi
trường vào bình chứa mẫu và ngược lại. Hệ thống BIT®
được thiết kế đáp ứng với những yêu cầu trên.
2.2.2.1.3. Hệ thống Plantima
Hệ thống này được thiết kế tổng thể tương tự như hệ thống RITA tuy nhiên có
thay đổi và cải tiến một số chi tiết như hệ thống bơm và vị trí các màng lọc. Hệ thống này
được sản xuất và cung cấp bởi Công ty A-tech Bioscientific tại đảo Ðài Loan. Hệ thống
này cũng đã được tiến hành khảo sát trên nhiều đối tượng như chuối, hoa Lan…Cấu tạo
và phương pháp vận hành cơ bản (Hình 3, Hình 4):
Đồ án chuyên môn Công nghệ Tế bào Thực vật
GVHD: Huỳnh Văn Kiệt 6 SVTH: Huỳnh Phạm Bảo Triều
Hình 3: Các bộ phận chính của Plantima Hình 4: Hệ thống điều khiển chu kỳ ngập
2.2.2.2. Ưu và khuyết điểm của hệ thống nuôi cấy ngập chìm tạm thời
a. Ưu điểm
- Hệ thống nuôi cấy ngập chìm tạm thời (Temporary Immersion System) có tác
động tích cực lên tất cả các giai đoạn từ nhân nhanh chồi cho tới phát sinh phôi soma trên
nhiều đối tượng cây trồng khác nhau. Như khả năng phát sinh chồi và phôi soma không
bị biến dị với tần số cao.
- Sự sinh trưởng và hệ số nhân nhanh chồi của cây được nuôi cấy trong hệ thống
ngập chìm tạm thời luôn cao hơn so với những cây nuôi cấy trong hệ thống thông thường
trên môi trường rắn hay trong những hệ thống bioreactor thông thường.
- Cây tái sinh và phôi soma thu được trong hệ thống này luôn có chất lượng tốt
hơn.
- Nuôi trong hệ thống nuôi cấy ngập chìm tạm thời có tỷ lệ sống sót cao, sinh
trưởng khỏe mạnh trong quá trình thuần hoá ngoài vườn ươm. Điều này được chứng
minh thông qua việc trồng trực tiếp ra đất củ khoai tây bi và phôi soma cây cà phê.
- Hệ thống nuôi cấy ngập chìm tạm thời đã kết hợp thành công những ưu điểm của
hệ thống nuôi cấy rắn thoáng khí và hệ thống nuôi cấy lỏng giúp cây tránh được những
hiện tượng bất lợi do sự thiếu thông thoáng của môi trường lỏng ngập liên tục hay trong
hệ thống kín trên môi trường rắn, giúp gia tăng sự hấp thu chất dinh dưỡng.
- Hạn chế được hiện tượng thủy tinh thể so, đây là ưu điểm lớn của hệ thống này
so với hệ thống Bioreactor thông thường.
- Hệ thống này tiết kiệm được công lao động, không gian phòng nuôi cấy giảm số
lượng chai lọ nên giảm được chi phí sản xuất, và hệ thống cho hiệu suất sinh học cao. Mô
hình này rất thích hợp cho việc mở rộng quy mô phục vụ cho sản xuất thương mại.
- Một ưu điểm khác của hệ thống này là trong việc giảm được hoạt tính của các
chất độc ngoại bào hay các chất ức chế sinh trưởng được tiết ra ngoài môi trường trong
thời gian nuôi cấy
Đồ án chuyên môn Công nghệ Tế bào Thực vật
GVHD: Huỳnh Văn Kiệt 7 SVTH: Huỳnh Phạm Bảo Triều
b. Khuyết điểm
- Hiện nay chưa khảo sát được mật độ nuôi cấy [32]
- Thời gian ngập tối ưu phải được khảo sát và xác định chính xác cho từng giai
đoạn nuôi cấy của từng loại cây cũng như thời gian giữa các lần cấy chuyền đối với
những hệ thống không thể bổ sung môi trường mới
- Phải khảo sát tối ưu hóa thành phần môi trường cho từng giai đoạn nuôi cấy
- Một ưu điểm khác của hệ thống này trong việc giảm được hoạt tính của các chất
độc ngoại bào hay các chất ức chế sinh trưởng được tiết ra ngoài môi trường trong thời
gian nuôi cấy
- Giá thành của các thiết bị nuôi cấy ngập chìm tạm thời ở nước ta hiện nay rất đắt
nhưng vẫn chưa được tự chế tạo trong nước.
- Những thông số kỹ thuật của hệ thống này cần được khảo sát kỹ lưỡng và tối ưu
hóa đối với từng giai đoạn nuôi cấy của từng loại cây
2.2.2.3. Ảnh hưởng của hệ thống ngập chìm tạm thời lên chất lượng cây nuôi cấy
Theo nghiên cứu của Escalona và cộng sự
(1999), cho thấy khi nuôi cấy chồi trong hệ thống
TIS thì lá sẽ nhỏ hơn lá trong nuôi cấy lỏng [9].
Những cụm chồi phát triển từ các chồi bên trong
Bioreactor thường có hình cầu và chồi có xu hướng
phát triển toả tròn xung quanh tâm. Do đó, một số
chồi con có kích thước không lớn và cần được kéo
dài trong cùng hệ thống trước khi cho ra rể ngoài
ống nghiệm. Ngược lại, chồi cây có thân dài hơn và
ra nhiều lá hơn khi nuôi cấy trong hệ thống ngập chìm tạm thời so với nuôi cấy trên thạch
[24]. Chồi cây nuôi cấy trong hệ thống này cũng dài và nặng hơn chồi nuôi cấy trên môi
trường bán rắn. Những ảnh hưởng có lợi từ hệ thống ngập chìm tạm thời lên sự phát triển
chồi có thể là kết quả của việc sử dụng những bình chứa dung tích lớn [4]
2.3. Các yếu tố và thông số ảnh hưởng đến quá trình nuối cấy
Khác với nuôi cấy trên bề mặt thạch các thông số kỹ thuật hay các yếu tố ảnh
hưởng chỉ là dinh dưỡng, pH, và độ vô trùng; thì đối với nuôi cấy trong hệ thống
Bioreactor thì có thêm các thông số như không khí, oxygen hòa tan, sự khuấy trộn và có
thể có thêm yếu tố ngập chìm. Ở từng đối tượng cụ thể mà các thông số kỹ thuật có thể
được điều chỉnh cho tối ưu.
2.3.1. Không khí
Trong không khí thì thành phần các loại gồm Nitrogen (78%), Oxygen (21%) và
Cacbon dioxide (0,036%). Lượng không khí trong bình phụ thuộc vào thể tích và độ
Đồ án chuyên môn Công nghệ Tế bào Thực vật
GVHD: Huỳnh Văn Kiệt 8 SVTH: Huỳnh Phạm Bảo Triều
thoáng khí của bình. Hệ thống Bioreactor, hai yếu tố quan trọng là môi trường và độ
thoáng khí.[3]
Trong quá trình hô hấp thực vật sử dụng O2 và thải CO2, còn trong quá trình quang
hợp thì ngược lại. Trong pha tối, nồng độ CO2 tăng lên trong nuôi cấy, còn khi điều kiện
quang tự dưỡng chiếm ưu thế thì nồng độ đó giảm đi trong pha sáng. Nồng độ CO2 cao
có nhiều tác động có lợi trên sự kéo dài chồi và sự phát triển của lá cây Theobroma cacao
[4]. Theo Woltering (1990), đã chứng minh được rằng nồng độ CO2 trên 10.000 ppm rất
có ích cho cây hoa Hồng và cây hoa Đồng tiền trong việc giảm lão hoá của lá.
Tuy nhiên, trong quá trình nuôi cấy In vitro thì ngoài cơ chế trên thì cây còn thải
ra trong bình nuôi cấy các chất khí như ethylen(C2H4), ethanol(C2H5OH), acetaldehyde
và hydrocacbon. Và theo nghiên cứu của De Proft và cộng sự (1985), thì trong điều kiện
nuôi cấy In vitro thành phần môi trường khí khác nhau thì sự phát triển của cây cung
khác nhau, cụ thể là là việc hàm lượng CO2 giảm và hàm lượng ethylene tăng.
Trong nuôi cấy dùng hệ thống Bioreactor thì cung cấp hay thải các chất khí đã
được tính đến trong công nghệ của thiết bị nuôi cấy, và điều này có ý nghĩa rất lớn đến
quá trình của mẫu cấy. Lấy trường hợp của củ khoai tây nuôi cấy bằng Bioreactor air-lift,
khi chúng ta nuôi cấy chìm liên tục thì quá trình cảm ứng tạo củ bị ức chế và các củ chỉ
phát triển sau khi các chồi được kéo dài ra và được tiếp xúc với pha khí ở phần trên của
Bioreactor [4]. Các biện pháp tăng cường thêm lượng O2, điều khiển lượng hormone và
các điều kiện thẩm thấu đều không có hiệu quả và khó giải thích được hiện tượng trên.
Nhưng nếu thay bằng hình thức nuôi cấy 2 pha, môi trường có bổ sung 9% sucrose để
cảm ứng tạo củ thì sự tạo củ từ chồi sẽ phát triển, vượt lên cả môi trường, tiếp xúc với
pha khí ở phía trên. Ngoài ra, thì thoáng khí còn ảnh hưởng rất lớn đến sự sinh trưởng và
phát triển của chồi Hồ Điệp, kết quả khảo nghiệm của các nhà nghiên cứu trên nhiều hệ
thống nuôi cấy khác nhau cho thấy nếu sự thông thoáng càng nhiều thì chồi Hồ Điệp
càng sinh trưởng và phát triển tốt hơn. Điều này đã cho thấy tầm quan trọng của pha khí
trong Bioreactor đối với sự phát triển của thực vật [2]. Một nghiên cứu đi vào khảo sát sự
ảnh hưởng của sự thông thoáng đến sự phát triển của nuôi cấy huyền phù Catharanthus
roseus trong hệ thống Bioreactor airlift của P. K. Hegarty và cộng sự cho thấy, khối
lượng khô sau khi nuôi cấy có thể tăng lên rất nhiều và hàm lượng chất mang hoạt chất
thứ cấp rất cao.
Vì vậy trong nuôi cấy thì sự sinh trưởng và phát triển của cây không chỉ phụ thuộc
vào môi trường nuôi cấy mà còn phụ thuộc vào thành phần không khí trong hệ thống nuôi
cấy.
2.3.2. Oxygen hòa tan
Một trong những chức năng của Bioreactor là tăng cường khả năng vận chuyển
oxygen từ pha khí sang pha lỏng. Do oxygen chỉ hoà tan một phần trong nước (0.25
Đồ án chuyên môn Công nghệ Tế bào Thực vật
GVHD: Huỳnh Văn Kiệt 9 SVTH: Huỳnh Phạm Bảo Triều
mmol.l
-1
ở 250C, 1 atm) nên để đáp ứng nhu cầu oxygen cho sự phát triển của mô thực
vật, một lượng lớn oxygen cần được khuếch tán vào môi trường nuôi cấy. Ngoài ra, mức
độ đảo trộn cũng là một yếu tố cần quan tâm do oxygen hòa tan trong môi trường cần
nhanh chóng được mô và tế bào hấp thu.
Tóm lại, đế đáp ứng tốt nhất nhu cầu oxygen cho sự phát triển của mô và tế bào thì
lượng oxygen hòa tan trong dung dịch nuôi cấy luôn phải lớn hơn ngưỡng oxygen hòa tan
cực đại mà tế bào mô hấp thu (DO2 htcđ). Trong trường hợp lượng oxygen hòa tan vào
trong môi trường nhỏ hơ