Việt Nam bước vào giai đoạn hội nhập với thịtrường chứng khoán non trẻ, đầy
biến động. Nền kinh tếViệt Nam muốn được tăng trưởng bền vững, kiểm soát được
lạm phát thì trong đó vai trò của thịtrường chứng khoán là vô cùng quan trọng. Thị
trường chứng khoán vừa là một kênh chuyển tải vốn trong nền kinh tế, vừa nhưmột là
một thước đo sức khỏe của một nền kinh tế. Vì vậy việc ổn định và phát triển kinh tế
không thểtách rời với việc ổn định và phát triển thịtrường chứng khoán.
Việc ứng dụng các mô hình phân tích cơbản và phân tích kỹthuật đểdựbáo tỷ
suất sinh lợi chứng khoán là rất cần thiết đối với các nhà đầu tưmang tính chuyên
nghiệp. Tuy nhiên, những diễn biến trên thịtrường chứng khoán Việt Nam trong thời
gian qua là bằng chứng hiển nhiên cho việc thiếu vắng các công cụdựbáo này. Đa số
các nhà đầu tưtrên thịtrường chứng khoán Việt Nam hiện nay đều thực hiện quyết
định đầu tưmột cách cảm tính.
Hơn nữa, đã có nhiều nghiên cứu trên thếgiới việc ứng dụng các lý thuyết đầu tư
vào thịtrường chứng khoán, đặc biệt là các nghiên cứu thực tiễn trên các thịtrường
chứng khoán cho những kết quảcó ý nghĩa thiết thực. Dựa vào điều đó càng khẳng
định tính đúng đắn và tính thực nghiệm của các mô hình.
Mô hình CAPM là một nỗlực đểkhám phá ra các công cụnhưchỉsốP/E và PBV
đểdựbáo tỷsuất sinh lợi thịtrường trung bình trong thời gian dài. Kiểm định mô hình
CAPM cho thấy βcủa chứng khoán riêng lẻthì không ổn định nhưng βcủa danh mục
là ổn định với giả định khoản thời gian trong mẫu đủdài và một sốlượng giao dịch cổ
phiếu thích hợp. Có sự ủng hộkhác nhau do mối quan hệtuyến tính dương giữa tỷ
suất sinh lợi và rủi ro hệthống của danh mục, với một sốchứng cứmới cho thấy cần
thiết đểxem xét các biến rủi ro bổsung hay các đại diện rủi ro khác nhau.
68 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 6196 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vận dụng mô hình CAPM để lựa chọn danh mục đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam bước vào giai đoạn hội nhập với thị trường chứng khoán non trẻ, đầy
biến động. Nền kinh tế Việt Nam muốn được tăng trưởng bền vững, kiểm soát được
lạm phát thì trong đó vai trò của thị trường chứng khoán là vô cùng quan trọng. Thị
trường chứng khoán vừa là một kênh chuyển tải vốn trong nền kinh tế, vừa như một là
một thước đo sức khỏe của một nền kinh tế. Vì vậy việc ổn định và phát triển kinh tế
không thể tách rời với việc ổn định và phát triển thị trường chứng khoán.
Việc ứng dụng các mô hình phân tích cơ bản và phân tích kỹ thuật để dự báo tỷ
suất sinh lợi chứng khoán là rất cần thiết đối với các nhà đầu tư mang tính chuyên
nghiệp. Tuy nhiên, những diễn biến trên thị trường chứng khoán Việt Nam trong thời
gian qua là bằng chứng hiển nhiên cho việc thiếu vắng các công cụ dự báo này. Đa số
các nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay đều thực hiện quyết
định đầu tư một cách cảm tính.
Hơn nữa, đã có nhiều nghiên cứu trên thế giới việc ứng dụng các lý thuyết đầu tư
vào thị trường chứng khoán, đặc biệt là các nghiên cứu thực tiễn trên các thị trường
chứng khoán cho những kết quả có ý nghĩa thiết thực. Dựa vào điều đó càng khẳng
định tính đúng đắn và tính thực nghiệm của các mô hình.
Mô hình CAPM là một nỗ lực để khám phá ra các công cụ như chỉ số P/E và PBV
để dự báo tỷ suất sinh lợi thị trường trung bình trong thời gian dài. Kiểm định mô hình
CAPM cho thấy β của chứng khoán riêng lẻ thì không ổn định nhưng β của danh mục
là ổn định với giả định khoản thời gian trong mẫu đủ dài và một số lượng giao dịch cổ
phiếu thích hợp. Có sự ủng hộ khác nhau do mối quan hệ tuyến tính dương giữa tỷ
suất sinh lợi và rủi ro hệ thống của danh mục, với một số chứng cứ mới cho thấy cần
thiết để xem xét các biến rủi ro bổ sung hay các đại diện rủi ro khác nhau.
Xuất phát từ quan điểm trên nhóm tác giả đã quyết định chọn đề tài “Vận dụng
mô hình CAPM để lựa chọn danh mục đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt
Nam” làm đề tài báo cáo nghiên cứu khoa học.
2. Tổng quan lịch sử nghiên cứu của đề tài :[5], [9], [10]
Mô hình CAPM được ba nhà nhà kinh tế học William Sharpe, John Lintner và
Jack Treynor đưa ra vào những năm giữa thập niên 60. CAPM là mô hình mô tả mối
2
tương quan giữa rủi ro và thu nhập kì vọng, được sử dụng để định giá các chứng khoán
có mức độ rủi ro cao. Công thức tính toán như sau:
RE = Rf + Beta * (Rm - Rf)
Với: RE là lãi suất kỳ vọng trên cổ phiếu.
Trong đó:
- Beta là chỉ số phản ánh rủi ro thị trường của một cổ phiếu. Beta có thể được dự
đoán dựa trên các số liệu quá khứ
- Rf là tỷ lệ phi rủi ro, và thường là lãi suất trái phiếu chính phủ vì loại lãi suất này
được coi là không có rủi ro thanh toán (Rủi ro mặc định - default risk)
- Rm là thu nhập thị trường kỳ vọng qua thời gian (expected market return over a
period of time), thường được tính toán hoặc cho sẵn.
Giả định khi sử dụng mô hình CAPM:
- Thị trường hiệu quả
- Nhà đầu tư luôn sở hữu một danh mục đầu tư (portfolio) đa dạng hoá.
Ý tưởng chung đằng sau mô hình định giá tài sản vốn là các nhà đầu tư khi tiến
hành đầu tư vốn của mình vào bất cứ tài sản gì thì cũng được bù đắp lại theo hai cách:
giá trị tiền tệ theo thời gian và rủi ro.
Mô hình định giá tài sản vốn phát biểu rằng: thu nhập kì vọng của một loại chứng
khoán hay danh mục đầu tư sẽ ngang bằng với mức trên các chứng khoán phi rủi ro
cộng thêm khoản lợi tức bù rủi ro nữa. Nếu thu nhập kì vọng không đạt mức thu nhập
tối thiểu yêu cầu, khi đó nhà đầu tư sẽ không tiến hành đầu tư. Các đường SML
(Security Market Line - đường biểu diễn rủi ro của thị trường chứng khoán) sẽ thể hiện
kết quả của CAPM đối với các mức rủi ro khác nhau (các betas khác nhau).
Trong những nghiên cứu gần đây, mô hình CAPM đã được bổ sung những nhân tố
khác nhằm có thể dự báo tỷ suất sinh lợi một cách chính xác hơn. Những bằng chứng
thực nghiệm cho thấy ngoài beta còn có các biến như tỷ số giá trên thu nhập (P/E) và
giá trị thị trường trên giá trị sổ sách (P/B). Đặc biệt trong thị trường các nước mới nổi,
sự tác động của tỷ số giá trên thu nhập (P/E) và giá trị thị trường trên giá trị sổ sách
(P/B) lên tỷ suất sinh lợi chứng khoán là khá rõ nét. Cùng với mô hình CAPM, P/E và
giá trị thị trường trên giá trị sổ sách được dùng như là các công cụ dự báo tỷ suất sinh
lợi chứng khoán trên thị trường các nước mới nổi. Điều này hàm ý một mô hình
CAPM đa biến với các biến là: beta, P/E và PBV.
3
Mô hình CAPM cải tiến là một nỗ lực để khám phá ra các công cụ như chỉ số P/E
và P/B để dự báo tỷ suất sinh lợi thị trường trung bình trong thời kỳ dài. Tuy nhiên,
việc ứng dụng mô hình này vào dự báo tỷ suất sinh lợi trên thị trường các nước mới
nổi nói chung và vào thị trường chứng khoán Việt Nam nói riêng sẽ có những hạn chế
nhất định.
3. Mục tiêu nghiên cứu :
Đề tài nghiên cứu khoa học của nhóm tác giả giúp cho nhà đầu tư biết đầu tư
vào những chứng khoán nào, việc kết hợp và đa dạng hóa danh mục ra sao để thành
lập và lựa chọn danh mục tối ưu.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu :
- Đối tượng : Mô hình định giá tài sản vốn (CAPM) và ứng dụng của mô hình này
vào thực tiễn..
- Phạm vi nghiên cứu :
+ Thời gian nghiên cứu: số liệu giao dịch trên thị trường chứng khoán Tp. Hồ
Chí Minh từ tháng 01/2007 đến tháng 02/2011.
+ Không gian nghiên cứu: Dựa trên việc quan sát các dữ liệu các công ty niêm
yết trên Sở giao dịch chứng khoán Tp. Hồ Chí Minh.
5. Phương pháp nghiên cứu :
- Phương pháp thu thập số liệu
+ Thu thập dữ liệu thông qua các giá chứng khoán, chỉ số VN-Index, lãi suất phi
rủi ro ( lãi suất tín phiếu), ….. .
+ Thu thập dữ liệu thông qua kênh thông tin báo chí, internet , tạp chí chuyên
ngành.
+ Tham khảo các đề tài nghiên cứu khoa học, luận văn, luận án khác có liên
quan.
- Phương pháp xử lý số liệu:
+ Phân tích , so sánh , thống kê các số liệu để đưa ra kết quả nghiên cứu.
+ Xử lý số liệu bằng các công cụ xử lý lập trình tính toán, kết hợp với các kiến
thức về xác suất, thống kế, kinh tế lượng để kết quả nghiên cứu tăng tính chính
xác và nhanh chóng .
4
6. Những đóng góp mới của đề tài:
Kết quả nghiên cứu của đề tài giúp nhà đầu tư biết đầu tư vào những chứng khoán
nào, việc kết hợp và đa dạng hóa danh mục ra sao để thành lập và lựa chọn danh mục
tối ưu. Xác định giá trị thực của tài sản, dự đoán xu hướng biến động giá của từng loại
chứng khoán để có quyết định mua hoặc bán chứng khoán đúng đắn và kịp thời.
7. Kết cấu của báo cáo nghiên cứu khoa học
Ngoài phần mở đầu và kết luận báo cáo nghiên cứu khoa học gồm 3 chương chính:
Chương 1: Cơ sở lý luận về việc xây dựng danh mục đầu tư.
Chương 2: Lựa chọn danh mục đầu tư thông qua việc vận dụng mô hình CAPM
trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
Chương 3: Giải pháp nhằm vận dụng mô hình CAPM vào việc xây dựng danh
mục đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
Ngoài ra báo cáo nghiên cứu khoa học còn có phần tài liệu tham khảo và phụ lục đính
kèm.
5
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VIỆC XÂY DỰNG
DANH MỤC ĐẦU TƯ
1.1 Những nội dung cơ bản trong lý thuyết danh mục của Harry Markowitz.
1.1.1 Những giả định của lý thuyết.
Bất cứ một mô hình hay lý thuyết nào khi được hình thành cũng phải có những giả
định ban đầu. Lý thuyết danh mục của Markowitz cũng không phải là một ngoại lệ khi
ông đã đưa ra 5 giả định sau cho lý thuyết của mình :
− Một là, các nhà đầu tư xem mỗi khoản đầu tư khác nhau đại diện cho một sự
phân phối xác suất của tỷ suất sinh lời mong đợi trong một thời kỳ nắm giữ.
− Hai là, các nhà đầu tư luôn tối đa hóa lợi ích mong đợi trong một thời kì nhất
định, và đường cong hữu dụng biên tế của sự giàu có.
− Ba là, các nhà đầu tư đánh giá rủi ro của danh mục đầu tư dựa trên cơ sở
phương sai của tỷ suất sinh lợi mong đợi.
− Bốn là, các nhà đầu tư căn cứ trên những quyết định độc lập của tỷ suất sinh lợi
về rủi ro mong đợi, vì vậy đường cong hữu dụng của họ là một phương trình
của tỷ suất sinh lợi mong đợi và phương sai (hoặc độ lệch chuẩn) của tỷ suất
sinh lợi.
− Năm là, với một mức độ rủi ro cho trước, các nhà đầu tư ưa thích tỷ suất sinh
lợi cao hơn là một tỷ suất sinh lợi thấp. Tương tự, với một mức độ tỷ suất sinh
lợi mong đợi cho trước, các nhà đầu tư lại thích ít rủi ro hơn là nhiều rủi ro.
1.1.2 Rủi ro.
Rủi ro là những điều không chắc chắn của những kết qua trong tương lai hoặc
những sự cố xảy ra có kết quả sai khác giá trị kỳ vọng.
Thái độ của nhà đầu tư đối với rủi ro:
Ghét rủi ro là mức độ không sẵn lòng đầu tư nếu biết khả năng kết quả xấu sẽ xảy
ra. Trong lý thuyết danh mục, người ta thường giả định rằng những nhà đầu tư đều
ghét rủi ro. Điều này có nghĩa là cho một sự lựa chọn giữa hai tài sản có củng tỷ suất
sinh lợi, họ sẽ chọn tài sản nào có mức độ rủi ro thấp.
Phương pháp ước lượng rủi ro:
6
Bằng cách giả định tỷ suất sinh lợi là một đại lượng ngẫu nhiên được phân phối
theo quy luật phân phối xác suất nào đó, người ta đã đo lường rủi ro thông qua các
tham số đặc trưng của đại lượng ngẫu nhiên này là phương sai hay độ lệch chuẩn. Nó
ước lượng độ phân tán của các tỷ sinh lợi quanh giá trị kỳ vọng. Bởi vậy, một phương
sai hay độ lệch chuẩn lớn chứng tỏ độ phân tán lớn. Mà độ phân tán đối với lợi nhuận
kỳ vọng lớn điều đó có nghĩa là một lợi nhuận trong tương lai càng không chắc chắn.
Rủi ro hệ thống và rủi ro phi hệ thống:
Rủi ro được đo lường bằng phương sai hay độ lệch chuẩn của tỷ suất sinh lợi chính
là rủi ro tổng thể của một tài sản rủi ro, trong đó bao gồm:
Rủi ro có thể phân tán được bằng cách đa dạng hóa danh mục đầu tư, được gọi là
rủi ro phi hệ thống. Rủi ro này chỉ ảnh hưởng đến một doanh nghiệp hay một ngành
do các nguyên nhân nội tại như lực lượng lao động, năng lực quản trị, chính sách điều
tiết của Chính phủ,…Các nghiên cứu gần đây chỉ ra rằng, nếu lựa chọn đúng đắn, một
danh mục chỉ khoảng 15 chứng khoán là có thể loại bỏ được rủi ro phi hệ thống này.
Rủi ro không thể phân tán được gọi là rủi ro hệ thống, là những rủi ro đến từ bên
ngoài một doanh nghiệp hay một ngành, chúng có thể ảnh hưởng rộng rãi như thiên
tai, chiến tranh, các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô,… được đo lường bằng hệ số beta.
1.1.3 Rủi ro của danh mục đầu tư được đa dạng hóa.
Ta có công thức tính phương sai của một cổ phần riêng lẻ:
ii rr ρσ 22 )(
−−∑=
Trong đó:
ri là tỷ suất sinh lợi từng thơì kì
−
r là tỷ suất sinh lợi mong đợi
ρi là xác suất của tỷ suất sinh lợi ứng với từng thơì kì
Qua công thức trên ta thấy khi độ lệch của tỷ suất sinh lợi từng thời kì so với giá trị
mong đợi càng lớn thì phương sai càng lớn.
Khi đa dạng hóa đầu tư, phương sai hay độ lệch chuẩn của tỷ suất sinh lợi danh
mục còn phụ thuộc vào các yếu tố.
Hiệp phương sai là một ước lượng để hai mức độ khác nhau tiến lại gần nhau tạo
thành một giá trị có ý nghĩa.
Ta có công thức của hiệp phương sai như sau:
7
COV(A,B)=Σρi ))((
−− −− BiBAiA rrrr
Một hiệp phương sai dương có nghĩa là tỷ suất sinh lợi đối với 2 khoản đầu tư có
khuynh hướng dịch chuyển về cùng một hướng so với mức trung bình của chúng trong
suốt một khoảng thời gian. Ngược lại, một giá trị hiệp phương sai âm chỉ ra tỷ suất
sinh lợi đối với hai khoản đầu tư có khuynh hướng dịch chuyển về hai hướng khác
nhau liên quan đến mức trung bình vào từng thời điểm cụ thể, cũng như mối quan hệ
giữa chúng với tỷ suất sinh lợi.
Ta có thể thấy rõ hơn khi nhìn vào công thức trên: nếu tỷ suất sinh lợi từng thời kì
của một chứng khoán cao hay thấp hơn tỷ suất sinh lợi mong đợi của nó và điều tương
tự xảy ra ở chứng khoán còn lại thì hiệp phương sai có giá trị dương lớn. Nếu độ lệch
giữa tỷ suất sinh lợi từng thời kì của một chứng khoán lớn hay ngỏ hơn tỷ suất sinh lợi
mong đợi cuả nó và điều ngược lại xảy ra ở chứng khóan kia thì hiệp phương sai sẽ có
giá trị âm lớn.
Tuy nhiên, hiệp phương sai bị ảnh hưởng nhiều bởi tính biến thiên của tỷ suất sinh
lợi. Nếu sự biến thiên quá lớn sẽ không thấy rõ được mối quan hệ giữa hai chứng
khoán.
Để có thể thấy rõ hơn mối quan hệ này chúng ta phải dùng một đại lượng có tên là
hệ số tương quan.
Hệ số tương quan là đại lượng chuẩn hoá ước lượng hiệp phương sai. Giá trị của hệ
số tương quan chỉ thay đổi trong khoản từ -1 đến 1. Hệ số tương quan giúp chúng ta
thấy rõ hơn mối liên hệ giữa các chứng khoán khi đã loại bỏ sự biến thiên quá lớn
trong hiệp phương sai bằng cách chia hiệp phương sai cho tích các độ lệch chuẩn của
các chứng khoán đó.
- Hệ số tương quan = -1 chỉ ra mối quan hệ phủ định hoàn toàn của hai chứng
khoán hay nói cách khác là tỷ suất sinh lợi của chúng di chuyễn ngược chiều
hoàn toàn với nhau.
- Hệ số tương quan = +1 chỉ ra mối quan hệ xác định hoàn toàn giữa hai chứng
khoán hay tỷ suất sinh lợi của chúng di chuyển cùng chiều hoàn toàn với nhau.
- Hệ số tưong quan = 0 cho thấy mối quan hệ độc lập hoàn toàn giữa tỷ suất
sinh lợi của 2 chứng khoán.
Sau khi đã tìm hiểu các yếu tố trên chúng ta sẽ xem chúng có ảnh hưởng như thế
nào đến rủi ro danh mục.
8
Ta có công thức tính phương sai danh mục:
σdm2 = n
i 1=
∑ ωi2σi2 + n
i 1=
∑ n
j 1=
∑ ωiωjCOV(i,j)
Qua công thức này ta thấy rủi ro danh mục không chỉ bao gồm phương sai của từng
chứng khoán trong danh mục mà còn chịu ảnh hưởng của hiệp phương sai các tài sản
trong danh mục.
Nếu các chứng khoán có tương quan xác định hoàn toàn thì rủi ro của danh mục sẽ
không thể thay đổi.
Nếu các chứng khoán có tương quan phủ định hoàn toàn thì rủi ro không hệ thống
sẽ giảm xuống bằng 0.
Khi tương quan là phủ định không hoàn toàn hay xác định hoàn toàn thì rủi ro có
thể giảm nhưng giảm bao nhiêu còn tuỳ thuộc vào các yếu tố lhác trong công thức.
Vậy ta có thể thấy việc đa dạng hoá đầu tư đã làm giảm đi rủi ro so với khi chưa đa
dạng. Nếu ta biết cách chọn các chứng khoán đa dạng hóa phù hợp rủi ro không hệ
thống của danh mục có thể biến mất.
Harry Markowitz đã chỉ ra cho chúng ta thấy đâu là danh mục mang lại hiệu
quả tối ưu cũng như làm cách nào xây dựng nên danh mục tối ưu đó. Dựa trên lý
thuyết này mà các nhà đầu tư đã có thể rút ra cho mình một nguyên lý chung, trong đó
đề cập đến hai quyết định riêng biệt mà nhà đầu tư sẽ phải đưa ra quá trình đầu tư:
- Lựa chọn danh mục gồm những cổ phiếu tốt nhất.
- Xác định việc kết hợp danh mục (tài sản rủi ro) với tài sản phi rủi ro để nhận
được một độ nhạy cảm và rủi ro tương ứng.
Nguyên lý này có tên là nguyên lý phân cách. Để hiểu rõ hơn hai quyết định trên được
hình thành trên cơ sở nào cũng như bằng cách nào có thể thực hiện tốt hai quyết định
này chúng ta hãy tìm hiểu các phần tiếp theo trong lý thuyết danh mục của Markowitz
mà trước hết là cách kết hợp các cổ phần vào danh mục. [5], [7], [9], [10]
1.1.4 Kết hợp các cổ phần vào danh mục đầu tư. Đường biên hiệu quả
(Efficient Frontier ).
1.1.4.1 Kết hợp các cổ phần vào danh mục đầu tư.
Bất kỳ một nhà đầu tư nào khi đa dạng hóa cũng đều muốn giảm thiểu rủi ro cho
danh mục đầu tư của mình. Nhưng có một vấn đề mà họ phải đối mặt ở đây chính là
việc khi họ lựa chọn những cổ phiếu có mức độ rủi ro thấp thì vô tình họ đã giới hạn
những khoản đầu tư của mình vào những cổ phiếu có tỷ suất sinh lợi không cao. Đơn
9
giản là vì rủi ro luôn đi đôi với tỷ suất sinh lợi. Vì vậy, điều mà những nhà đầu tư thực
sự muốn làm chính là với một mức tăng trưởng cao hơn, với những cổ phiếu có nhiếu
rủi ro hơn nhưng bằng một sự kết hợp hợp lý, những rủi ro này sẽ triệt tiêu lẫn nhau và
kết quả là mang lại cho họ một tỷ suất sinh lợi trung bình cao hơn nhưng với một mức
độ rủi ro thấp hơn.
Nhưng thế nào là một sự kết hợp đem lại hiệu quả? Trước hết, giả sử như bạn đang
xem xét đến hai cổ phiếu Bristol Myers và Ford Motor. Tỷ suất sinh lợi của Ford là
16% và Bristol là 12%, độ lệch chuẩn của Bristol là 10% và của Ford là 20%. Với tỷ
trọng 25% vốn vào Ford và 75% vốn vào Bristol, tỷ suất sinh lợi và độ lệch chuẩn
được thể hiện trên hình vẽ
Biểu đồ 1.1: Mối quan hệ giữa tỷ suất sinh lời kỳ vọng và rủi ro danh mục
(Nguồn: Gs.Ts. Trần Ngọc Thơ, Tài chính doanh nghiệp hiện đại, 2003) [9]
Qua tính toán chúng ta thấy được danh mục gồm hai cổ phần với tỷ trong như trên
đã giảm được độ lệch chuẩn xuống chỉ còn 9.01% và tăng tỷ suất sinh lợi lên 13% =>
Một kết hợp hiệu quả.
1.1.4.2 Đường biên hiệu quả - Efficient Frontier.
Tiếp theo, chúng ta không chỉ xem xét đến hai cổ phiếu mà là một tập hợp những
cổ phiếu mà chúng ta muốn lựa chọn để đưa vào danh mục đầu tư của mình, chúng ta
xác định những giá trị của tỷ suất sinh lợi mong đợi và độ lệch chuẩn của tất cả những
sự kết hợp mà chúng ta chọn lựa, và tất cả những danh mục mà chúng ta có thể tạo
thành sẽ phân bố đều lên phần diện tích màu xanh của hình vẽ.
Bristol
Myers
Ford
25% vốn
vào Ford
Motor
9,01%,
13%
10
Biểu đồ 1.2: Đường biên hiệu quả - Efficient Frontier.
(Nguồn: Gs.Ts. Trần Ngọc Thơ, Tài chính doanh nghiệp hiện đại, 2003) [9]
Markowittz đã chỉ ra rằng vùng tập hợp những danh mục này được giới hạn bởi
một đường cong mà ông gọi là đường biên hiệu quả.
Rõ ràng rằng với bất cứ một giá trị nào của độ lệch tiêu chuẩn thì chúng ta luôn
muốn danh mục của mình đem lại một tỷ suất sinh lợi cao nhất có thể, và vì vậy,
chúng có xu hướng lựa chọn những sự kết hợp nằm trên đường biên hiệu quả hơn là
những điểm bên dưới nằm trong vùng diện tích màu xanh. Và đây chính là một ý
nghĩa hết sức quan trọng của đường biên hiệu quả, nó cho chúng ta thấy được những
sự kết hợp tối ưu nhất trong việc xây dựng danh mục đầu tư.
Ngoài ra, còn một đặc điểm quan trọng khác của đường biên hiệu quả là nó có
hình dạng đường cong chứ không phải đường thẳng. Điều này thực sự có ý nghĩa vì nó
chỉ ra cho chúng ta thấy được bằng cách nào mà sự đa dạng hóa có thể làm giảm thiểu
rủi ro cho những khỏan đầu tư của chúng ta.
Biểu đồ 1.3: Đường biên hiệu quả của danh mục 2 cổ phiếu.
11
(Nguồn: Gs.Ts. Trần Ngọc Thơ, Tài chính doanh nghiệp hiện đại, 2003) [9]
Để dễ hình dung, giả sử chúng ta chỉ nắm trong tay mình hai cổ phiếu 1 và 2 với tỷ
trọng đầu tư 50/50. Vì đường biên hiệu quả có dạng đường cong nên độ lệch chuẩn
của danh mục hai cổ phiếu trên thay vì là bình quân gia quyền của độ lệch chuẩn từng
cổ phiếu thì giá trị của nó đã được giảm đi nhờ điểm kết hợp đã di chuyển về phía bên
trái và nằm trên đường biên hiệu quả. Chúng ta có thể thấy không riêng gì tỷ trọng
50/50, mà với bất cứ một tỷ trọng đầu tư nào thì ta luôn đạt được một độ lệch chuẩn
thấp hơn nhờ đường biên hiệu quả là một đường cong. Kết quả là với cùng một mức tỷ
suất sinh lợi, sự đa dạng hóa đã mang lại cho ta một độ lệch chuẩn nhỏ hơn, đồng
nghĩa với một mức độ rủi ro thấp hơn khi chúng ta đầu tư riêng lẻ.
Biểu đồ 1.4: Mối quan hệ giữa tỷ suất sinh lời kỳ vọng và độ lệch chuẩn.
(Nguồn: Gs.Ts. Trần Ngọc Thơ, Tài chính doanh nghiệp hiện đại, 2003) [9]
Tuy nhiên chúng ta cũng cần lưu ý là tất cả những sự kết hợp chỉ có thể xảy ra
trong khu vực được giới hạn bởi đường biên hiệu quả. Không có sự kết hợp nào có thể
vượt ra khỏi sự giới hạn này. Điều này có nghĩa là không ai có khả năng lựa chọn một
danh mục có tỷ suất sinh lợi mong đợi vượt lên trên tỷ suất sinh lợi nằm trong tập hợp
giới hạn cũng như không ai có thể lựa chọn một danh mục với độ lệch chuẩn nằm dưới
độ lệch chuẩn của tập hợp giới hạn. Nhưng có lẽ đáng ngạc nhiên nhất là không ai có
thể chọn cho mình một tỷ suất sinh lợi thấp hơn những gì hiện hữu trong hình quả
trứng vỡ. Nói một cách khác, thị trường vốn thực sự ngăn ngừa một cá nhân tự hủy
hoại bản thân do gánh chịu các khỏan thiệt hại.
12
1.2 Cơ sở lý luận về mô hình định giá tài sản vốn –CAPM.
1.2.1 Nền tảng của lý thuyết thị trường vốn.
1.2.1.1 Các giả định của lý thuyết thị trường vốn.
Vì lý thuyết thị trường vốn xây dựng dựa trên lý thuyết danh mục