Thực phẩm chức năng đang là xu hướng nghiên cứu và phát triển mạnh của các nhà khoa học cũng như xu hướng sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp hiện nay. Trên thị trường ngày càng xuất hiện nhiều đồ ăn, thức uống mang tính chất của thực phẩm chức năng (vừa là thực phẩm vừa có khả năng ngăn ngừa và hỗ trợ điều trị một số bệnh). Các loại nước uống dưới dạng trà là những sản phẩm có tác dụng như vậy.
Trà, không chỉ là thức uống để thưởng thức như một thú vui tao nhã mà còn là dược liệu quý thiên nhiên ban tặng cho con người. Ở Việt Nam, trà được xem là thức uống không thể thiếu khi tiếp khách hoặc dùng sau những bữa ăn. Ngoài công dụng giải khát, trà còn chứa biết bao điều bí ẩn mà con người cần khám phá.
Việt Nam là một thị trường rất tiềm năng với tâm lý của người Việt “trà ngon, bạn hiền”. Tuy nhiên các loại trà truyền thống lại khá kén người uống và pha chế cầu kỳ. Đa số người tiêu dùng cho rằng trà túi lọc tiện lợi, vệ sinh, có thể sử dụng hết tinh chất của trà, đặc biệt là sản phẩm trà dược liệu.
Dựa vào tiêu chí đó chúng em muốn tìm hiểu và thử nghiệm một loại trà mới đó là trà túi lọc từ lá điều.
38 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2903 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đồ án Thành phần hóa học và công dụng của lá điều, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
CHƯƠNG I: MỞ ĐẦU
Thực phẩm chức năng đang là xu hướng nghiên cứu và phát triển mạnh của các nhà khoa học cũng như xu hướng sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp hiện nay. Trên thị trường ngày càng xuất hiện nhiều đồ ăn, thức uống mang tính chất của thực phẩm chức năng (vừa là thực phẩm vừa có khả năng ngăn ngừa và hỗ trợ điều trị một số bệnh). Các loại nước uống dưới dạng trà là những sản phẩm có tác dụng như vậy.
Trà, không chỉ là thức uống để thưởng thức như một thú vui tao nhã mà còn là dược liệu quý thiên nhiên ban tặng cho con người. Ở Việt Nam, trà được xem là thức uống không thể thiếu khi tiếp khách hoặc dùng sau những bữa ăn. Ngoài công dụng giải khát, trà còn chứa biết bao điều bí ẩn mà con người cần khám phá.
Việt Nam là một thị trường rất tiềm năng với tâm lý của người Việt “trà ngon, bạn hiền”. Tuy nhiên các loại trà truyền thống lại khá kén người uống và pha chế cầu kỳ. Đa số người tiêu dùng cho rằng trà túi lọc tiện lợi, vệ sinh, có thể sử dụng hết tinh chất của trà, đặc biệt là sản phẩm trà dược liệu.
Dựa vào tiêu chí đó chúng em muốn tìm hiểu và thử nghiệm một loại trà mới đó là trà túi lọc từ lá điều.
Do trong lá điều có chứa thành phần các chất Tanin có tác dụng chữa bệnh đường ruột, Tanin được dùng trong y học để làm thuốc cầm máu, nó có khả năng tăng cường sức đề kháng của thành huyết quản trong cơ thể động vật, tăng cường sự tích lũy và đồng hóa sinh tố C. chất epicatechin có tác dụng chống viêm. Lá điều còn có tác dụng gây ngủ, chữa bệnh phong, lở, viêm họng. Trong lá điều già có các chất có khả năng trị vết thương và chữa bệnh vẩy nến. có một nước đã ứng dụng và sản xuất trà từ lá điều là jamaica và một số nơi ở vùng nhiệt đới.trà này có tác dụng chũa tiêu chảy,đau họng,loét miệng, viêm amiddan,bệnh tiểu đường và các bệnh về họng.ngoai ra nó cũng được sử dụng để làm nước súc miệng, rủa vết thương.
Đó là tiền đề để chúng em làm thử nghiệm ra một loại trà mới này.
Mục tiêu: tạo ra một loại sản phẩm trà mới so với trên thị trường Việt Nam cũng như trên Thế Giới có tác dụng chữa bệnh và có hương vị lạ ở dạng túi lọc .
Chương 2 :TỔNG QUAN VỀ TÀI LIỆU.
2.1.Các sản phẩm trà
Nước trà là nguồn caffeine, theophylline và chất chống oxy hóa (antioxidant) tự nhiên, nhưng nó gần như không có mỡ, carbohydrate, hay protein. Nó có vị hơi đắng, chat và khắc cổ, đặc biệt có tính giải nhiệt.
Hiện nay các sản trà rất đa dạng và phong phú. Dựa vào tình hình sản xuất trà trên thế giới, dựa vào tính chất của các loại trà và dựa vào đặc tính sinh lý của các quá trình sản xuất trà, ta có thể phân trà thành phẩm như sau:
Trà xanh : dựa vào phương pháp diệt men và phương pháp làm khô khác nhau mà chia ra nhiều loại theo tính chất hương vị đặc biệt của từng loại trà. Các loại trà xanh khác nhau có phẩm chất khác nhau, nhưng đặc tính chung của trà là một màu nước xanh tươi hoặc vàng xanh, vị chát mạnh và có hương thương tự nhiên của trà. Trà được hái từ những lá trà non, sau khi hấp trà sấy khô không lên men. Do trà xanh không được cho lên men nên nên các chất có trong thành phần trà rất ít bị biến đổi, nước trà vẫn giữ được nhiều khoáng chất và chất có loiwj cho sức khỏe ví dụ chứa 30-40% polyphenol trích ly trong nước. Trà xanh được cho là chứa nhiều chất chống ung thư( epigallocatechín- 3 gallate (EGCG)) và một lượng cao vitamin C
Hình 2.1
Trà đen : trà đen không diệt men ngay như trà xanh mà them giai đoạn lên men trong khoảng 4-5h để tạo ra các biến đổi hóa sinh cần thiết làm tăng them màu sắc và hương vị đặc trưng cho sản phẩm mà các sản phẩm khác không có. Trà có màu nước đen hoặc đỏ tươi, vị dịu, hương thơm nhẹ dễ chịu . Trà đen chứa 3-10% polyphenol.
Trà đỏ ( trà olong): lá và búp trsf sau khi thu
hoạch được phoi khô, vò nát rồi ủ trong thời
gian ngắn nhờ vào quy trình sản xuất bán lên men. Lượng polyphenol trong trà ô long có nhiều ích lợi cho sức khỏe. Loại trà này có màu nước vàng ánh hoặc vàng kim, vị mạnh có hương thơm đặc biệt.
Bạch trà: là loại trà thuần chất nhất. Lá trà non sau khi thu hái về đươc hấp ngay để chống lại sự lên men rồi sấy khô. Khi pha nước trà có màu nhạt, trong nhưng vị mạnh do vậy có tên là bạch trà. Loại trà này chứa nhiều flavonoid ( chất có tác dụng chống ung thư) so với các loại trà khác.
Hình 2.2
Trà ướp hương: ta có thể dùng hoa tươi hoặc hương liệu khô để ướp hương cho trà. Một số loại trà thường gặp trà nhài, trà sen, trà hoa bưởi, trà hoa hồng, trà hồng đào…Trà hương là một loại trà đặc sản của nước ta, được người tiêu dùng rất ưu chuộng. Sau khi ướp hương không những hương thơm của trà của trà được tăng lên mà những chất thơm này còn có tác dụng kích thích tinh thần, bổ trợ cho tiêu hóa nên trà này là loại sản phẩm có tính dinh dưỡng cao.
Trà thảo dược: Ngoài các loại trà truyền thống được sản xuất từ trà tươi, thị trường trà đang nở rộ với vô số loại trà thảo dược làm từ nguyên liệu thảo mộc thiên nhiên: trà Atiso, trà khổ qua, trà cỏ ngọt, trà trái nhàu, trà chanh, trà tam diệp, trà đắng, trà linh chi…
Trà uống liền: Ngày nay do công việc bận rộn, nhiều người không có thời gian để pha, đợi cho trà ngấm, trà uống liền đã ra đời và mang tính đột phá trong phong cách dùng trà. Trà uống liền dạng trà túi lọc và trà hòa tan.
Hình 2.3
Trà túi lọc là lọai trà đen xay thành bột, đựng trong những cái túi nhỏ. Túi lọc phải giữ được hương vị trà, phải chống ẩm, chống mốc, chống thẩm thấu cho trà và hương liệu, lại phải bảo đảm an toàn thực phẩm. Với chức năng “lọc”, khi pha, chỉ có trà tan vào nước, còn bã trà vẫn giữ nguyên trong túi. Mỗi túi trà có khối lượng 5 g, đủ cho một ly 100 – 200 ml, tùy khẩu vị từng người. Hiện nay trên thị trường, ngoài trà Lipton nhãn vàng nổi tiếng, các lọai trà thảo dược khác như actiso, trà thanh nhiệt, trà linh chi… đều là loại trà túi lọc.
Trà hòa tan: Trà được xay thành bột, tinh chiết, lọai bỏ chất không tan rồi sấy khô, tẩm ướp hương liệu, chất bảo quản, chất tạo vị… Mỗi gói trà có khối lượng từ 10 – 20 g. Thêm vào 100 – 200 ml nước sôi là có một ly trà: Trà chanh, trà gừng, trà xanh, trà chanh dây… Tùy theo sở thích, khách hàng có thể chọn loại trà có đường hoặc không đường, trà nguyên chất hay ướp hương liệu, trà chanh hay trà thường.
2.2.Lợi ích của việc uống trà:
Nước trà không những là một loại nước uống có giá trị và phổ biến mà còn là một dược thảo giúp tăng cường sự tỉnh táo, giảm đau, đỡ mệt, tăng sức , gia cố nghị lực, phục hồi thị giác. Ngày nay các nghiên cứu khoa học cho thấy trà có những lợi ích bào vệ sức khỏe con người như sau:
- Tăng khả năng miễn dịch
- Hạ cholesterol xấu (LDL)
- Tăng cholesterol tốt (HDL)
- Điều hòa đuờng trong máu
- Giảm huyết áp
- Giúp chữa các bệnh rối loạn tim mạch
- Giảm nguy cơ đột quị
- Giảm khả năng gây ung thư
- Tăng tuồi thọ
- Tăng trí nhớ
- Giúp tiêu hóa và giảm cân
- Diệt khuẩn, khử trùng…
Hơn nữa trà còn có tính cách ngăn ngừa phòng chống bệnh tật như:
- Ngăn ngừa sâu răng, chống viêm lợi
- Bảo vệ da
- Chống viêm khớp
- Ngăn ngừa bệnh cúm
- Chống tụ máu
- Ngăn ngừa bệnh tiểu đưởng
- Chống ung thư da, phổi, thực quản, dạ dày, ruột…
Sở dĩ trà có các lợi ích bảo vệ sức khỏe và phòng ngừa bênh tật như vậy là nhờ vào các polyphenol, caffeine, các vitamin và muối khoáng là các thành phần chính của trà.
Trong các thành phần trên thì catechin( một chất chống oxy hóa thuộc loại polyphenol) là chất đáng chú ý nhất. Catechin có nồng độ cao nhất ở trà xanh và trà trắng, và giảm dần từ trà ô long tới trà đen, tùy theo thời gian lên men khi chế biến. Catechin có tính chống oxi hóa và là chất chính giúp cơ thể chống lại các bệnh hiểm nghèo như ung thư, đột qụy, cao huyết áp, tiểu đường, béo phì, ngộ độc thức ăn.
Hàm lượng polyphenol trong trà phụ thuộc nhiều vào giống trà, khu vực trồng, mùa vụ thu hái, độ cao, cường độ chiếu sáng và cách chế biến sản xuất trà. Có bốn loại polyphenol chính trong lá trà, đó là: epigallocatechin gallate (EGCG), epigallocatechin (EGC), epicatechin gallate (ECG), and epicatechin (EC).
Tuy nhiên uống trà cũng phải cẩn thận vì đôi khi ta quá lam dụng sẽ có tác dụng phụ. Như các loại trà có chất chát (tannin) nếu uống nhiều có thể gây phản ứng ở ruột, giảm hấp thụ calcium( Ca) và sắt( Fe). Ngoài ra uống nhiều trà đậm có thể mất ngủ vì chất caffeine trong trà kích thích thần kinh.
2.3Một số thương hiệu trà trên thị trường:
Với hơn 600 doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh trà (không kể hàng nghìn hộ cá thể), trong đó có gần 200 doanh nghiệp trực tiếp xuất khẩu, Việt Nam đứng thứ 5 thế giới về trồng và chế biến trà, đứng thứ 8 về sản lượng trà xuất khẩu hàng năm.
Trên thị trường có các loại trà của các công ty như công ty Khôi Nguyên( Đà Lạt), công ty Tâm Châu, tổng công ty chè Việt Nam,… Ngoài ra trên thị trường có các thương hiệu trà nước ngoài: Pickwick sản phẩm của hãng trà Dowe Egberts, Hà Lan; Công ty Unilever Bestfoods & Elida P/S Việt Nam với trà Lipton.
2.4 Tìm hiểu về cây điều:
2.4.1 Đặc điểm về hình thái cây điều:
Thân:
Điều thuộc loại cây gỗ, cao trung bình 6-10m. Trong điều kiện khí hậu thích hợp (lượng mưa đủ, nhiệt độ cao). Đất đai tốt, cây có thể cao đến 15-20m. Nếu có đầy đủ ánh sáng, điều là loại cây không cao, nhưng tán lá xòe rất rộng (có khi gấp đôi chiều cao).
Cây điều phân cành sớm, thường ngay từ gốc với cả cành sơ cấp và cành thứ cấp. Theo Kumaran và cộng sự (1976), cây 4 tuổi có số cành sơ cấp thay đổi từ 9 tới 30 và số cành thứ cấp từ 246 tới 412. Gỗ điều tương đối mềm, nhẹ, tỷ trọng là 0,5 (Lima 1954, Tavares 1959). Cây điều mọc ở những nơi có ánh sáng đầy đủ, cành sẽ phát triển đều đặn và tạo thành một tán hình ô đường kính có thể đạt tới 12 - 15m.
Rễ:
Rễ điều thuộc loại rễ cọc, mọc rất nhanh (sau 2 năm có thể đâm sâu đến 2m hay hơn nữa), nên cây điều chịu hạn giỏi và yêu cầu đất tơi, xốp.
Cây điều là loại cây vừa có rễ cọc vừa có hệ rễ ngang. Ở những vùng đất khô, mạch nước ngầm thấp, rễ cọc có thể đâm xuống rất sâu để hút nước. Hệ rễ ngang phát triển rất rộng, đường kính có thể gấp đôi đường kính tán, có chức năng tìm kiếm hút chất dinh dưỡng để nuôi cây. Nhờ vậy, cây điều vẫn ra hoa kết quả trong suốt cả mùa khô héo dài 5- 6 tháng.
Bảng 2.1: Số đo của rể và thân điều theo tuổi cây.
Tuổi cây(m)
Rể
Cây
Độ sâu(m)
Lan rộng(m)
Chu vi thân(m)
Chiều cao(m)
Bán kính trung bình của tán(m)
1,52,53,54,56
1
2
2,3
5,0
-
1,2
4,6
5,6
-
7,3
0,229
0,432
1,000
-
1,000
2,0
4,0
4,6
-
6,4
-
-
3,3
-
3,9
(Nguồn: Tsakiris A. and Northwood P.J.A.,1967.)
Lá: Lá điều thuộc loại lá đơn, nguyên, phiến lá dày, gân nổi rõ ở dưới mặt lá, cuống ngắn.
Lá điều thường tập trung ở đầu cành, loại lá đơn, nguyên, mọc so le, gân hình mạng. Lá có hình thuỗn hay hình trứng ngược, đuôi lá thường hơi tròn hoặc hơi lõm, mặt trên nhẵn bong. Khi non lá có màu xanh nhạt hoặc đỏ, khi già có màu xanh xậm. Lá điều dài 6 tới 24 cm, rộng 4 – 15 cm, cuốn lá dài 1 – 2 cm (Johnson, 1973, Kumaran et al., 1976(a)).Cây điều có thể có bộ tán lá rất rộng.
Hoa:
Hoa điều trổ từ tháng 1 đến tháng 4, có khi cả năm. Hoa nhỏ màu trắng vàng, nở từ từ trung bình khoảng 32 ngày. Mỗi cụm hoa có từ 65-240 hoa gồm 2 loại: hoa đực và hoa lưỡng tính, trong đó phần lớn là hoa đực, hoa lưỡng tính chỉ chiếm khoảng 14%. Cây điều ra hoa từ đông sang tây theo chiều kim đồng hồ. Hoa thụ phấn chéo (nhụy cái của cây điều này hầu hết đều nhận phấn của cây điều khác). Sự thụ phấn chủ yếu nhờ côn trùng, một phần nhờ gió. Cây điều chỉ thụ phấn tốt trong điều kiện thời tiếtkhô giáo, trời không u ám. Nếu gặp mưa khi ra hoa, độ ẩm không khí cao, cây điều rễ bị mất mùa.
Sau khi thụ phấn, hột điều phát triển rất nhanh, cuống phình lên thành trái (trái giả). Sau 60 ngày, trái chín có màu đỏ hay vàng tùy loại. Trái thường tập trung thành chùm ở đầu cành.
Về hình thái học hoa điều có những đặc trưng sau:
Bao hoa có 5 cánh hoàn toàn tương tự nhau.
Đài hoa gồm các lá đài dài 3 – 4 mm, mặt ngoài có màu xanh lá mạ sáng, mặt trong có màu xanh lá cây vàng và có lông tơ dầy.
Tràng hoa có các lá tràng hình mũi mác phủ đầy lông tơ ở cả hai mặt, dài 1 – 1,5 cm, rộng 0,1 – 0,15 cm màu trắng hơi vàng với các sọc xếp thành hàng từ màu hồng tới tím.
Các nhị đực thẳng đứng, các bao phấn hình cầu màu đỏ và nứt dọc. số nhị đực từ 8 – 11 xếp thành 2 vòng và phân làm 2 loại theo chiều dài (Ascenso Crespo J.1972):
Nhị lớn có từ 1 – 2; chiều dài trung bình là 6 mm ở hoa đực và 8 mm ở hoa lưỡng tính.
Nhị nhỏ có từ 7 – 10, chiều dài trung bình là 3 mm ở hoa đực và 5 mm ở hoa lưỡng tính.
Nhuỵ gồm bầu đơn 1 ô, vòi nhuỵ có chiều dài khoảng 1 cm, tận cùng là núm nhuỵ.
Ở hoa đực nhuỵ thui lép đi, còn ở hoa lưỡng tính phát triển mập hơn, Vòi nhuỵ dài hơn nhị lớn, rất hiếm có trường hợp ngắn hơn hoặc bằng, nếu có thì sự tự thụ phấn sẽ cao hơn.
Sự đậu quả cũng như sự trổ hoa rất bình thường, trên cùng một cây có cả hoa, quả (ở những giai đoạn phát triển khác nhau) ở bên nhau. Ngay khi đã chin hoàn toàn trái điều và hạt vẫn dính vào nhau rời khỏi cây và rụng xuống đất. Nếu thời tiết khô hạt có thể lưu trên mặt đất 1 hoặc 2 ngày mà không có bất kì sự hư hại nào,
Hạt:
Hột điều (trái thực) hình thận, khi còn tươi có màu xanh, khi khô chuyển sang nâu, mọc lộ ra ngoài đầu trái giả trông giống như rái đào có hột chui ra ngoài. Vì vậy cây điều còn gọi là cây đào lộn hột.
Hột điều gồm 3 phần:
a) Vỏ thường dày 0,4 cm, chiếm 70% trọng lượng hột, có 3 lớp.
- Lớp vỏ ngoài dai và láng;
- Lớp vỏ giữa xốp như bọt biển chứa dầu vỏ hột điều;
- Lớp vỏ trong rất cứng.
b) Vỏ lụa bao quanh nhân, chiếm 5% trọng lượng hột.
c) Hạt điều hình thận màu lục sẫm (bottle green) khi hạt tươi và chuyển sang màu nâu hơi xám khi hạt khô. Ở các giống thông thường hạt có chiều dài trung bình 2,5 – 3,5 cm rộng 2 cm và dày 1 – 1,5 cm trọng lượng trung bình 5 – 6 g.
2.4.2 Gía trị lợi ích từ cây điều:
Trái điều chứa nhiều vitamin B1, B2 và C. trái điều vàng chứa nhiều vitamin C và ít vitamin B2 hơn trái điều đỏ. Trái điều có thể ăn sống, nấu canh chua hay chế biến thành tinh dầu chuối, nước giải khát, rượu, dấm, mứt, ép lấy nước làm sirô nhuyên chất hay đem cô đặc, đóng hộp. Rượu từ trái điều có tính giải nhiệt, trị nhức mỏi, làm lợi tiểu, chữa viêm họng. Nước trái điều pha với sunfat sắt có thể dùng để nhuộm đen tóc.
Nhân hột điều có giá trị dinh dưỡng cao chứa prôtit ít hơn đậu phộng nhưng nhiều lipit, gluxit hơn, dùng để ăn: hột điều rang, làm gia vị, nhân bánh trung thu, nhân kẹo sôcôla và một số loại bánh kẹo khác. Ngoài ra, hột điều còn được dùng để ép lấy dầu chế margarin (bơ thực vật).Bánh dầu hột điều còn có thể dùng làm bánh mứt.
Dầu vỏ hột điều gồm chủ yếu là axit anacardic (C22H32O3) và một lượng ít cardol (C24H32O2). Dầu vỏ hột điều dùng để điều chế verni, sơn chống thấm, chịu nhiệt, bảo vệ kim loại, dung môi chống nóng, cháy, vật liệu cách điện, chất bôi trơn, má phanh ô tô, xe lửa, keo dán gỗ, chất phòng lão cho cao su, xi măng đặc biệt, thuốc nhuộm, thuốc trừ sâu, diệt mối, chống nấm, mực in, mực dấu, thuốc trừ bệnh phong, mụn cóc, nứt gót chân, hương liệu, mỹ phẩm ...
Trong kỹ thuật nhiệt đới hóa các máy móc thiết bị, nhất là các thiết bị điện tử tinh vi, dầu vỏ hột điều làm tăng tuổi thọ các linh kiện điện tử và tăng độ an toàn trong máy móc. Đặc biệt dầu vỏ hột điều còn được dùng làm tranh sơn mài. Vỏ lụa chứa một ít đạm, đường và muối khoáng, có thể dùng để nuôi gà vịt. Lá điều: người In-đô-nê-xi-a ăn lá non; người Bồ-đào-nha nấu lá điều để làm thuốc ngủ; người ấn độ dùng lá già để chữa da bị phồng lở hay phỏng lửa.
Vỏ cây điều chứa chất chát dùng để thuộc da, làm mực, thuốc nhuộm vải. Vỏ cây điều ngâm lấy nước chữa bệnh đau cổ, trừ bệnh ỉa chảy nhẹ và táo bón.
Rễ cây điều dùng làm thuốc chống nôn, thuốc xổ.
Gỗ cây điều dùng làm bàn ghế, nguyên liệu giấy, sợi đóng thùng. Thân cây và cành cung cấp củi.
Nhựa cây điều có thể dùng làm thuốc sát trùng, điều chế vecni, làm keo dán sách, thuốc trừ bệnh phong hay các bệnh ngoài da.
Bảng 2.2
Peru
Thuốc sát trùng, nước rửa sát trùng âm đạo, điều trị tiêu chảy, nhiễm trùng, bệnh về da.
Trinidad
Điều trị hen suyễn, ho, tiêu chảy, kiết lỵ, khó tiêu, đau dạ dày.
Thổ Nhĩ Kì
Thuốc độc, điều trị tiêu chảy, cơn sốt, mụn cóc.
Venezuela
Điều trị kiết lỵ, phong hủi, đau cổ họng.
Các nơi khác
Chất cầm máu, rượu, thuốc diệt cá, thuốc xổ, hen xuyễn, cảm lạnh, vết chai ở chân, sung huyết, ho, sức yếu.
Lợi ích kinh tế : Cây điều mọc tự nhiên ở các bãi cát ven biển và trong các khu rừng ở vùng đảo Ăng-ti và Bra-xin, lưu vực sông A-ma-dôn ở Nam Mỹ.
Từ cây hoang dại, cây điều dần dần được trồng trên diện tích lớn ở Bra-xin, vào thế kỷ XVI, người Bồ-đào-nha mang giống điều trồng ở các nước châu á và châu Phi.
Hiện nay, những nước chủ yếu sản xuất hột điều trên thế giới là ấn độ, Mô-dăm-bích, Tang-da-ni-a, Kê- ni-a, Bra-xin.
Trong những năm qua, ấn độ đi đầu trong nghiên cứu cây điều, đã vươn lên vị trí hàng đầu trên thị trường thế giới, vói tư cách là nước sản xuất hột điều, đồng thời là nước nhập khẩu hột điều quan trọng bực nhất.
Trên thế giới, sản lượng hột điều hàng năm không ổn định, nhịp độ phát triển chậm. Hiện nay, sản lượng hột điều vẫn ở mức 400.000-500.000 tấn /năm.
Các nước tư bản chủ nghĩa phát triển (Mỹ, Ca-na-đa, CHLB Đức, Anh, Pháp, Nhật, úc) là những nước nhập nhân điều với khối lượng lớn và tỷ trọng cao nhất. Trong các nước xã hội chủ nghĩa, Liên Xô là nước nhập khẩu nhân điều quan trọng nhất sau Mỹ.Từ 1976-1982, giá nhân điều có xu hướng tăng nhanh một cách đột biến từ 2.580 đôla Mỹ/ tấn năm 1976 tăng lên 5.250 đôla Mỹ/ tấn năm 1982 (tăng 20% mỗi năm). Giá dầu điều bằng 20- 25% giá nhân điều.
Nhân điều có hàm lượng các chất béo, chất đạm và hydrat carbon khá cao, có mặt nhiều loại vitamin, axit amin và các chất khóang rất cần cho sức khỏe con người.
Nhân hột điều có giá trị dinh dưỡng cao chứa prôtit ít hơn đậu phộng nhưng nhiều lipit, gluxit hơn, dùng để ăn: hột điều rang, làm gia vị, nhân bánh trung thu, nhân kẹo sôcôla và một số loại bánh kẹo khác. Ngoài ra, hột điều còn được dùng để ép lấy dầu chế margarin (bơ thực vật).Bánh dầu hột điều còn có thể dùng làm bánh mứt.
Nhân điều phần lớn được sử dụng để sản xuất Snack (60% lượng nhân điều tiêu thụ hàng năm trên thế giới), phổ biến ở dạng nhân điều rang muối, số còn lại để sản xuất bánh kẹo trong đó có 2 sản phẩm chiếm tỷ lệ cao là Chocolate và kẹo điều
Bảng 2.3:Hàm lượng các chất khoáng trong nhân điều:
Chất khoáng
Nhân đã bóc vỏ lụa
Nhân còn vỏ lụa
Natri ppm
Kali ppm
Calci ppm
Magie ppm
Sắt ppm
Đồng ppm
Kẽm ppm
Mangan ppm
Photpho ppm
Lưu huỳnh ppm
Clo ppm
48
5421
248
2536
60
22
38
18
8400
1600
Vết
50
6515
268
2550
64
25
42
19
6900
1600
Vết
Các axit béo chủ yếu trong nhân điều:
Oleic axit: (CH3(CH2)7CH:CH(CH2)7COOH) 60%
Linoleic axit: (CH3(CH2)4CH:CH.CH2CH:CH(CH2)7COOH) 20%
y-linolenic axit 1%
Palmitic axit (CH3(CH2)14COOH) 10%
Stearic axit ( CH17H35COOH) 9%
Như vậy nhân điều chứa tới 81% các axit chưa bão hòa (oleic, linoleic và linoleic axit).
Các chất đạm: Nhân điều chứa trên 20% các chất đạm thực vật.
Các chất béo: ở nhân điều các chất béo chiếm khoảng 47% trong số này có trên 80% là các chất béo chưa bão hòa, tỷ lệ giữa chất béo chưa bão hòa và chất béo bão hòa là 4:1 rất có lợi. các chất béo chưa bão hòa không những không tạo ra và làm tăng Cholesterol mà còn có tác động điều hòa và làm giảm lượng Cholesterl trong máu giúp tránh được các bệnh về tim mạch.
Các axit béo chủ yếu (Essential Fatty Acids viết tắt là EFAs) hỗ trợ việc điều chỉnh sự cân bằng của các chất béo bão hòa và Cholesterol trong các tế bào. EFAs là những nhân tố có tính quyết định trong việc giư trạng thái lỏng của màng tế bào.EFAs có ích chủ yếu trong việc hình thành các màng và chỉnh sửa các mô. Sự thiếu hụt EFAs có thể dẫn tới các bệnh về tiểu đường, hen phế quản, rối loạn thận và viêm khớp.
Các chất đường: hydrat carbon trong nhân điều chiếm một tỷ lệ thấp khỏang 20% trong đó đường hòa tan chiếm 1% đủ tao mùi, vị dễ chịu hấp dẫn của nhân điều mà không bị béo phì.
Thành phần xơ có trong nhân điều cũng là một thành phần có lợi, đã được biết xỏ ở trong ruột giúp làm