An ninh mạng là vấn đề cần thiết bởi vì Internet là một mạng của các mạng có mối liên hệ với nhau không có ranh giới. Vì lý do này mà mạng của các tổ chức có thể được sử dụng và cũng có thể bị tấn công từ bất kỳ một máy tính nào trên thế giới. Khi một công ty sử dụng Internet trong kinh doanh, các nguy cơ mới sẽ phát sinh từ những người mà không cần thiết phải truy cập đến tài nguyên máy tính của công ty thông qua môi trường vật lý.
Trong một nghiên cứu gần đây của Computer Security Institute (CIS), 70% các tổ chức bị mất mát thông tin do vấn đề an ninh mạng có lỗ thủng và 60% trong số đó nguyên nhân là do chính trong nội bộ công ty của họ.
Cùng với sự phát triển của máy tính, mạng LAN và mạng Internet, hệ thống mạng ngày nay càng được mở rộng. Khi thương mại điện tử và nhiều ứng dụng trên Internet phát triển, việc tìm ra các phương thức an toàn thông tin là điều vô cùng quan trọng, kèm theo đó là khả năng tìm và nhận dạng những mối nguy hiểm gây hại cho hệ thống thông tin. Hơn nữa sự phát triển của thế giới mạng di động và mạng không dây đã đánh dấu những bước tiến vượt bậc trong thế giới công nghệ thông tin, loại bỏ những mô hình cũ đồng thời yêu cầu có những giải pháp bảo mật linh hoạt hơn, hiệu quả hơn.
78 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2739 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đồ án Thiết kế mạng an toàn sử dụng PIX Firewall cho trường Cao đẳng cơ khí luyện kim, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
Công nghệ thông tin ngày nay được ứng dụng vào tất cả các lĩnh vực của cuộc sống. Có thể thấy máy tính và mạng internet là thành phần không thể thiếu của hầu hết các công ty, trở thành công cụ hỗ trợ đắc lực cho công việc hàng ngày và các giao dịch.
Tuy nhiên, sự phát triển này cũng kèm theo vấn đề an ninh máy tính đang ngày càng trở nên nóng bỏng. Tội phạm máy tính là một trong những hành vi phạm tội có tốc độ phát triển nhanh nhất trên toàn hành tinh. Vì vậy, việc xây dựng một nền an ninh máy tính, thiết kế và quản trị mạng đảm bảo và có khả năng kiểm soát rủi do liên quan đến việc sử dụng máy tính trở thành đòi hỏi không thể thiếu ở nhiều lĩnh vực.
Kịp thời nắm bắt xu hướng này, trong thời gian làm đồ án thực tập tốt nghiệp em đã lựa chọn đề tài “Thiết kế mạng an toàn sử dụng PIX firewall cho trường Cao đẳng cơ khí luyện kim”. Đồ án đề cập đến các nguy cơ cũng như sự cần thiết của an ninh mạng, các đặc trưng và cấu hình cơ bản PIX firewall. Và cuối cùng là ứng dụng PIX firewall thiết kế mô hình mạng cho trường Cao đẳng cơ khí luyện kim.
LỜI CẢM ƠN
Sau thời gian 5 năm học tập và rèn luyện tại Khoa Công nghệ thông tin và truyền thông – Đại học Thái Nguyên, đến nay em đã hoàn thành đồ án tốt nghiệp và kết thúc khóa học. Em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến lãnh đạo khoa, toàn thể các thầy cô giáo đã tận tình giảng dạy trang bị cho chúng em những kiến thức quý báu làm hành trang cho chúng em sau này.
Đặc biệt em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến cô giáo Bùi Thị Mai Hoa – Bộ môn Kỹ thuật máy tính đã trực tiếp hướng dẫn, giúp đỡ em có thể hoàn thành đồ án này. Các ơn sự đóng góp ý kiến của các thầy cô, bạn bè để em có thể hoàn thành đồ án này.
Thái Nguyên, tháng 06 năm 2009.
Sinh viên
Trần Giáo
LỜI CAM ĐOAN
Đồ án tốt nghiệp này đã hoàn thành đúng thời gian quy định và đáp ứng được yêu cầu đề ra nhờ sự cố gắng nghiên cứu, học tập của bản thân và dưới sự hướng dẫn trực tiếp của Th.s Bùi Thị Mai Hoa. Em đã tham khảo một số tài liệu nêu trong phần “ Tài liệu tham khảo ” và không hề sao chép nội dung từ bất kỳ đồ án nào khác.
Mọi sao chép không hợp lệ, vi phạm quy chế đào tạo, hay gian trá, em xin chịu hoàn toàn trách nhiệm trước hội đồng
MỤC LỤC
CHƯƠNG 1
TÌM HIỂU VỀ AN NINH MẠNG VÀ CHÍNH SÁCH AN NINH
1. Sự cần thiết của an ninh mạng
An ninh mạng là vấn đề cần thiết bởi vì Internet là một mạng của các mạng có mối liên hệ với nhau không có ranh giới. Vì lý do này mà mạng của các tổ chức có thể được sử dụng và cũng có thể bị tấn công từ bất kỳ một máy tính nào trên thế giới. Khi một công ty sử dụng Internet trong kinh doanh, các nguy cơ mới sẽ phát sinh từ những người mà không cần thiết phải truy cập đến tài nguyên máy tính của công ty thông qua môi trường vật lý.
Trong một nghiên cứu gần đây của Computer Security Institute (CIS), 70% các tổ chức bị mất mát thông tin do vấn đề an ninh mạng có lỗ thủng và 60% trong số đó nguyên nhân là do chính trong nội bộ công ty của họ.
Cùng với sự phát triển của máy tính, mạng LAN và mạng Internet, hệ thống mạng ngày nay càng được mở rộng. Khi thương mại điện tử và nhiều ứng dụng trên Internet phát triển, việc tìm ra các phương thức an toàn thông tin là điều vô cùng quan trọng, kèm theo đó là khả năng tìm và nhận dạng những mối nguy hiểm gây hại cho hệ thống thông tin. Hơn nữa sự phát triển của thế giới mạng di động và mạng không dây đã đánh dấu những bước tiến vượt bậc trong thế giới công nghệ thông tin, loại bỏ những mô hình cũ đồng thời yêu cầu có những giải pháp bảo mật linh hoạt hơn, hiệu quả hơn.
Việc sử dụng máy tính đã trở nên phổ biến, số lượng máy tính ngày càng tăng, hệ thống mạng LAN theo đó cũng tăng theo, mạng toàn cầu Internet được sử dụng rộng rãi kéo theo đó là sự xuất hiện những nguy cơ mới về bảo mật, khó kiểm soát hơn. Để giải quyết những nguy cơ này, giải pháp được đưa ra là sử dụng thiết bị tường lửa (firewall), công nghệ này giúp cho các doanh nghiệp khả thi hơn trong bảo mật thông tin của mình khi truy cập Internet.
Ngày nay những yêu cầu đặt ra cho hệ thống bảo mật bao gồm :
Người sử dụng chỉ có thể thực thi những quyền lợi được cấp phép.
Người sử dụng chỉ có được những thông tin, dữ liệu được cho phép.
Người sử dụng không thể phá hủy dữ liệu, thông tin hay những ứng dụng mà hệ thống sử dụng.
2. Nhận diện các nguy cơ tiềm ẩn trong an ninh mạng
Việc phân tích các rủi ro có thể xác định được các mối nguy cơ đối với mạng, tài nguyên mạng và dữ liệu mạng. Mục đích của việc làm này là xác định các thành phần của mạng, đánh giá tầm quan trọng của mỗi thành phần và sau đó áp dụng mức độ bảo mật phù hợp.
+ Asset Identification (nhận diện tài sản trong mạng)
Trước khi ta tiến hành bảo mật cho mạng, cần phải xác định các thành phần có trong mạng. Mỗi cơ quan hay tổ chức nên tiến hành kiểm kê tài sản tồn tại trong mạng của mình.Các tài sản đó bao gồm cả các thiết bị mạng và các điểm cuối ( endpoint) như host, server.
+ Vulnerability Assenssment ( đánh giá các lỗ hổng hệ thống )
Các thành phần của mạng máy tính luôn luôn đứng trước nguy cơ bị tấn công từ những kẻ xấu. Nguyên nhân có thể do sự yếu kém về công nghệ, về các cấu hình hoặc do chính sách an ninh chưa thỏa đáng. Tuy nhiên, có thể hạn chế hay khống chế các cuộc tấn công này bằng nhiều phương thức khác nhau như: sử dụng phần mềm, cấu hình lại thiết bị mạng, hoặc là triển khai các biện pháp đối phó (Firewall, phần mềm Anti-virus ).
+ Threat Identification ( nhận diện các mối đe dọa )
Một lời đe dọa là một sự kiện mang lại lợi thế cho các cuộc tấn công mạng máy tính và là nguyên nhân của các tác động không tốt trên mạng. Vì vậy, việc xác định các mối đe dọa tiềm ẩn trong mạng là rất quan trọng, các cuộc tấn công liên quan cần được lưu ý để hạn chế, giảm bớt mức độ nguy hiểm.
3. Các mối đe dọa và tấn công mạng máy tính
Có 4 mối đe dọa chính đối với an ninh mạng
Hình 1. Các mối đe dọa đối với an ninh mạng
3.1. Unstructured Threats (Các mối đe dọa không có cấu trúc)
Mối đe dọa không có cấu trúc thông thường là những cá nhân thiếu kinh nghiệm sử dụng các công cụ đơn giản, sẵn có trên Internet. Một số người thuộc dạng này có động cơ là mục đích phá hoại, nhưng phần lớn có động cơ là trổ tài trí óc và rất tầm thường. Phần lớn họ không phải là những người tài giỏi hoặc là những attacker có kinh nghiệm, nhưng họ có những động cơ thúc đẩy, mà những động cơ đó đều quan trọng.
3.2. Structured Threats (Các mối đe dọa có cấu trúc)
Mối đe dọa có cấu trúc bao gồm các attacker, những người có động cơ cao hơn và có kỹ thuật thành thạo hơn. Thông thường họ hiểu biết về thiết kế hệ thống mạng và những chỗ có thể tấn công, và họ có thể hiểu cũng như tạo ra các đoạn mã để thâm nhập vào những hệ thống mạng này
3.3. External Threats (Các mối đe dọa bên ngoài)
Mối đe dọa từ bên ngoài là những cá nhân, tổ chức làm việc ở bên ngoài công ty.Họ không có quyền truy cập đến hệ thống mạng hoặc hệ thống máy tính của công ty. Họ làm việc theo cách thức của họ để vào trong mạng chính từ mạng Internet hoặc mạng quay số truy cập vào servers
3.4. Internal Threats (Các mối đe dọa bên trong)
Mối đe dọa từ bên trong xảy ra khi một số người có quyền truy cập đến hệ thống mạng thông qua một tài khoản trên một server hoặc truy cập trực tiếp thông qua môi trường vật lý. Thông thường những người này đang có bất bình với những thành viên hiện tại hoặc trước đó hoặc bất bình với giám đốc công ty hoặc các chính sách của công ty.
4. Các cách thức tấn công mạng máy tính
Có 4 cách thức tấn công mạng máy tính
Hình 2. Các kiểu tấn công vào mạng máy tính
4.1 Sự thăm dò - Reconnaisance
Thăm dò là một hình thức tính toán, khám phá bất hợp pháp hệ thống, các dịch vụ hoặc những điểm dễ bị tấn công nhất. Nó còn được biết đến như là việc thu thập thông tin. Trong hầu hết các trường hợp nó xảy ra trước so với các hành động truy xuất hợp pháp khác hoặc là tấn công theo kiểu DoS. Kẻ thâm nhập đầu tiên sẽ quét mạng đích để xác định các địa chỉ IP còn hoạt động. Sau khi hoàn thành việc này, tin tặc sẽ quyết định các dịch vụ hoặc các cổng được kích hoạt trên các địa chỉ IP này. Từ những thông tin này, tin tặc tính toán để quyết định ứng kiểu của ứng dụng và phiên bản cũng như là kiểu và phiên bản của hệ điều hành đang chạy trên host đích.
4.2 Truy nhập - Access
Truy cập là một hình thức vượt qua giới hạn để xử lý dữ liệu trái phép, truy cập hệ thống hoặc tiến vào chế độ đặc quyền. Truy tìm dữ liệu trái phép thông thường là việc đọc, ghi, sao chép hoặc gỡ bỏ các files mà nó không thể được sử dụng bởi những kẻ thâm nhập. Truy cập hệ thống là khả năng của kẻ thâm nhập dành quyền truy cập vào một máy mà nó không được phép truy cập (ví dụ như kẻ thâm nhập không có tài khoản hoặc mật khẩu). Nhập hoặc truy cập vào hệ thống mà nó không có quyên truy cập thông thường bao gồm việc chạy các hack, các đoạn kịch bản hoặc các công cụ để khai thác các lỗ hổng của hệ thống hoặc các ứng dụng.
Một dạng khác của tấn công theo kiểu truy cập là tiến tới chế độ đặc quyền. Việc này được thực hiện bởi những người sử dụng hợp pháp với quyền truy cập thấp hoặc đối với những kẻ thâm nhập có quyền truy cập thấp. Mục đích là để thu thập thông tin hoặc thực thi các thủ tục mà nó không được phép ở cấp độ truy cập hiện tại.
Trong một vài trường hợp kẻ thâm nhập chỉ muốn dành quyền truy cập mà không muốn lấy cắp thông tin – đặc biệt khi động cơ là sự tranh tài về trí tuệ, tò mò hoặc là do không biết gì.
4.3. Cấm các dịch vụ (DoS) - Denial of Service
Đây là kiểu tấn công làm tê liệt hệ thống, làm mất khả năng cung cấp dịch vụ (Denial of Service - DoS) không cho hệ thống thực hiện được các chức năng mà nó được thiết kế. Kiểu tấn công này rất khó ngăn chặn bởi chính những phương tiện dùng để tổ chức tấn công lại chính là những phương tiện dùng để làm việc và truy cập thông tin trên mạng. Một thí dụ về trường hợp có thể xảy ra là một người trên mạng sử dụng chương trình đẩy ra những gói tin yêu cầu về một trạm nào đó. Khi nhận được gói tin, trạm luôn luôn phải xử lý và tiếp tục thu các gói tin đến sau cho đến khi bộ đệm đầy, dẫn tới tình trạng những nhu cầu cung cấp dịch vụ của các máy khác đến trạm không được phục vụ.
Điều đáng sợ là các kiểu tấn công DoS chỉ cần sử dụng những tài nguyên giới hạn mà vẫn có thể làm ngưng trệ dịch vụ của các site lớn và phức tạp. Do vậy loại hình tấn công này còn được gọi là kiểu tấn công không cân xứng (asymmetric attack). Chẳng hạn như kẻ tấn công chỉ cần một máy tính PC thông thường với một modem tốc độ chậm vẫn có thể tấn công làm ngưng trệ các máy tính mạnh hay những mạng có cấu hình phức tạp.
4.4. Worms, Virus và Trojan Horses
Worm (sâu máy tính) là một loại virus máy tính chuyên tìm kiếm mọi dữ liệu trong bộ nhớ hoặc trong đĩa, làm thay đổi bất kỳ dữ liệu nào mà nó gặp. Hành động thay đổi này có thể là chuyển các ký tự thành các con số hoặc là trao đổi các byte được lưu trữ trong bộ nhớ. Những dữ liệu bị hỏng thường không khôi phục được.
Virus hay chương trình virus là một chương trình máy tính được thiết kế mà có thể tự lây lan bằng cách gắn vào các chương trình khác và tiến hành các thao tác vô ích, vô nghĩa, đôi khi là phá hoại. Khi virus phát tác chúng gây nhiều hậu quả nghiêm trọng: từ những thông báo sai lệch đến những tác động làm lệch lạc khả năng thực hiện của phần mềm hệ thống hoặc xóa sạch mọi thông tin trên đĩa cứng.
Trojan Horse (con ngựa thành Troa) là một chương trình xuất hiện để thực hiện chức năng có ích, đồng thời có chứa các mã hoặc các lệnh ẩn gây hỏng đối với hệ máy đang chạy nó.
Các phần mềm nguy hiểm trên được cài đặt vào các máy tính nhằm phá hủy, hư hại hệ thống hoặc ngăn chặn các dịch vụ, các truy nhập tới mạng. Bản chất và mức độ nguy hiểm của những mối đe dọa này thay đổi theo thời gian. Những virus đơn giản từ những năm 80 đã trở nên phức tạp hơn và là những virus phá hủy, là công cụ tấn công hệ thống trong những năm gần đây. Khả năng tự lan rộng của “sâu máy tính” đem lại những mối nguy hiểm mới. Như trước đây chúng cần tới vài ngày hay vài tuần để tự lan rộng thì ngày nay chúng có thể lan rộng trên toàn thế giới chỉ trong vòng vài phút. Một ví dụ là “sâu” Slammer bắt đầu từ tháng 01/2003, đã nhân rộng trên toàn thế giới chỉ dưới 10 phút. Người ta cho rằng các thế hệ tiếp theo của virus có thể tấn công chỉ trong vài giây. Những loại “sâu máy tính” và virus này có thể làm được nhiều nhiệm vụ khác nữa, không chỉ đơn thuần là phá hủy tài nguyên mạng, chúng còn được sử dụng để phá hủy những thông tin đang truyền trên mạng hoặc xóa ổ cứng. Vì vậy trong tương lai sẽ có một mối đe dọa rất lớn ảnh hưởng trực tiếp tới cơ sở hạ tầng của hệ thống mạng.
5. Chính sách an ninh
Những nguy cơ đe dọa hệ thống mạng không thể bị loại trừ hay ngăn chặn hoàn toàn. Tuy nhiên, việc đánh giá và quản lý ảnh hưởng của những nguy cơ trên sẽ góp phần giảm thiểu số lượng cuộc tấn công và những thiệt hại kèm theo chúng. Mức độ rủi ro chấp nhận được phụ thuộc vào khả năng của từng doanh nghiệp.
Một chính sách an ninh là thành phần quan trọng trong việc quyết định nguy cơ này được quản lý như thế nào. Chính sách an ninh được hiểu là những phát biểu hình thức của những quy tắc mà theo đó những người có quyền truy nhập vào các công nghệ, tài sản, và thông tin của một tổ chức nào đó phải tuân theo.
5.1 The Security Wheel (bánh xe an ninh)
An ninh mạng cần phải là một tiến trình liên tục được xây dựng dựa trên các chính sách an ninh. Một chính sách an ninh liên tục mang lại hiệu quả lớn nhất bởi vì nó xúc tiến quá trình tái áp dụng và tái kiểm tra các cập nhật bảo mật dựa trên cơ sở liên tục. Tiến trình an ninh liên tục này tiêu biểu cho Security Wheel.
Để bắt đầu tiến trình liên tục này cần phải tạo một chính sách an ninh mà nó cho phép bảo mật các ứng dụng. Một chính sách an ninh cần phải thực hiện những nhiệm vụ sau:
Nhận dạng mục đích bảo mật của tổ chức
Tài liệu về tài nguyên cần bảo vệ.
Nhận dạng cơ sở hạ tầng mạng với sơ đồ hiện tại và một bản tóm tắt.
Để tạo hoặc thực thi một chính sách an ninh có hiệu quả, cần phải xác định cái mà ta muốn bảo vệ và bảo vệ nó như thế nào. Cần phải có hiểu biết vể các điểm yếu hệ thống mạng và cách mà người ta có thể khai thác nó. Cũng cần phải hiểu về các chức năng thông thường của hệ thống vì thế mà chúng ta phải biết là chúng ta cần cái gì và nó cũng giống với cách mà các thiết bị thông thường được sử dụng. Cuối cùng là cân nhắc đến an ninh về mặt vật lý của hệ thống mạng và cách bảo vệ nó. Việc truy xuất về mặt vật lý đến một máy tính, router, hoặc tường lửa có thể mang lại cho người sử dụng khả năng tổng điều khiển trên toàn bộ thiết bị.
Sau chính sách an ninh được phát triển thì nó phải phù hợp với bánh xe an ninh ở phía trên - bốn bước kế tiếp của Security Wheel cần dựa vào:
Bước 1: Bảo mật hệ thống: bước này bao gồm việc cung cấp các thiết bị bảo mật như tường lửa, hệ thống chứng thực, mã hóa,…với mục đích là ngăn chặn sự truy cập trái phép đến hệ thống mạng. Đây chính là điểm mà các thiết bị tường lửa bảo mật của Cisco có hiệu quả nhất.
Bước 2: Theo dõi hệ thống mạng về các vi phạm và sự tấn công chống lại chính sách bảo mật của công ty. Các vi phạm có thể xảy ra từ bên trong vành đai an ninh của mạng do sự phẫn nộ của những người lao động hoặc là từ bên ngoài do các attacker. Việc kiểm tra mạng với hệ thống phát hiện sự xâm nhập thời gian thực như là Cisco Secure Intruction Detection System ( hệ thống phát hiện sự thâm nhập bảo mật của Cisco) có thể đảm bảo các thiết bị bảo mật trong bước 1 được cấu hình đúng.
Bước 3: Kiểm tra hiệu quả của hệ thống bảo mật. Sử dụng thiết bị quét bảo mật của Cisco ( Cisco Secure Scanner) để nhận dạng tình trạng an toàn của mạng.
Bước 4: Hoàn thiện an ninh của công ty. Sưu tầm và phân tích các thông tin từ các pha kiểm tra, thử nghiệm để hoàn thiện hơn
Cả bốn bước – Bảo mật, theo dõi, kiểm tra và hoàn thiện – cần được lặp đi lặp lại liên tục và cần phải kết hợp chặt chẽ với các phiên bản cập nhật chính sách an ninh của công ty
5.1.1. Bảo mật hệ thống
Bảo mật mạng bằng cách áp dụng các chính sách an ninh và thực thi các chính sách an ninh dưới đây:
Chứng thực: chỉ đem lại quyền truy cập của người sử dụng
Mã hóa: Ẩn các luồng nội dung nhằm ngăn cản sự phát hiện không mong muốn đối với các cá nhân có âm mưu phá hoại hoặc cá nhân trái phép
Tường lửa: Lọc các lưu lượng mạng chỉ cho phép các lưu lượng và dịch vụ hợp pháp truyền qua
Vá lỗi: Áp dụng việc sửa chữa hoặc xử lý để dừng quá trình khai thác các lỗ hổng được phát hiện. Công việc này bao gồm việc tắt các dịch vụ không cần thiết trên mỗi hệ thống, chỉ cho vài dịch vụ được phép chạy, gây khó khăn cho việc truy cập của attacker.
Ngoài ra chúng ta cần phải thực thi các giải pháp an ninh mặt vật lý để ngăn cản việc truy cập trái phép mặt vật lý đến hệ thống mạng
5.1.2. Theo dõi sự an toàn
Viểm theo dõi hệ thống mạng đối với sự xâm nhập trái phép và các cuộc tấn công chống lại chính sách an ninh của công ty. Các cuộc tấn công này có thể xảy ra trong vành đai an ninh của hệ thống mạng từ những người lao động có âm mưu hoặc từ bên ngoài hệ thống mạng. Việc kiểm tra hệ thống mạng cũng cần thực hiện với các thiết bị phát hiện sự xâm nhập thời gian thực như là Cisco Secure Intrusion Detection System (CSIDS). Những thiết bị này trợ giúp bạn trong việc phát hiện ra các phần trái phép và nó cũng có vai trò như là một hệ thống kiểm tra – cân bằng (check – balance system) để đảm bảo rằng các thiết bị trong bước 1 của Security Wheel được cấu hình và làm việc đúng đắn.
5.1.3. Kiểm tra
Việc kiểm tra là cần thiết. Bạn có thể có một hệ thống an ninh mạng tinh vi nhất, nhưng nếu nó không làm việc thì hệ thống mạng của bạn có thể bị tấn công. Điều này giải thích tại sao bạn cần phải kiểm tra, chạy thử các thiết bị trong bước 1 và bước 2 để đảm bảo chúng thực hiện đúng chức năng. Cisco Secure Scanner (thiết bị quét bảo mật của Cisco) được thiết kế để đánh giá độ bảo mật của hệ thống mạng
5.1.4. Hoàn thiện
Pha hoàn thiện của Security Wheel bao gồm việc phân tích dữ liệu được tổng hợp từ hai pha kiểm tra và chạy thử nghiệm. Kỹ thuật phát triển và hoàn thiện nó phục vụ cho chính sách an ninh của chúng ta và nó bảo mật cho pha trong bước 1. Nếu muốn duy trì hệ thống mạng được bảo mật thì cần phải lặp lại chu trình của Security Wheel bởi vì lỗ hổng và nguy cơ bị xâm phạm của hệ thống mạng luôn được tạo ra hàng ngày.
5.2 Bảo vệ và quản lý các điểm cuối
5.2.1 Công nghệ và các thành phần an ninh cơ bản trên host và server
Các máy tính và server cần được bảo vệ khi chúng tham gia vào mạng. Phần mềm chống virus, firewall và dò tìm xâm nhập là những công cụ hữu ích được sử dụng để đảm bảo an toàn cho các máy, server.
Device hardening
Khi một hệ điều hành mới được cài đặt trên máy tính, các thiết đặt về bảo mật là những giá trị mặc định. Trong phần lớn trường hợp, những mức độ bảo mật này là chưa đủ. Các hệ điều hành nên áp dụng một số bước đơn giản sau:
Nên thay đổi ngay tên người dùng và mật khẩu.
Hạn chế những truy nhập vào tài nguyên hệ thống, chỉ cho phép những cá nhân có quyền hợp pháp truy nhập.
Bất kỳ dịch vụ hay ứng dụng nào không cần thiết nên tắt đi và gỡ bỏ cài đặt khi có thể.
Bức tường lửa cá nhân
Máy tính cá nhân kết nối Internet thông qua kết nối quay số, DSL, hoặc cáp modem cũng có thể bị nguy hiểm như những mạng lớn. Bức tường lửa cá nhân cư trú trên máy tính của người dùng và cố gắng ngăn chặn các cuộc tấn công. Một số phần mềm đóng vai trò bức tường lửa cá nhân là McAfee, Norton, Symatec, Zone Labs…
Phần mềm kháng virus – Antivirus
Cài đặt phần mềm kháng virus để bảo vệ hệ thống tránh khỏi sự tấn công của virus đã biết. Các phần mềm này có thể phát hiện hầu hết virus và nhiều ứng dụng của chương trình Trojan horse, ngăn chặn chúng phát tán trên mạng.
Những “miếng vá” hệ điều hành
Một cách hiệu quả để giảm nhẹ ảnh hưởng của “sâu máy tính” và những biến thể của nó là sửa chữa tất cả các hệ thống đã bị xâm phạm. Đây là điều rất khó đối với những hệ thống người dùng không kiểm soát được và càng khó khăn hơn nếu những hệ thống này là kết nối từ xa tới mạng thông qua mạng riêng ảo (VPN) hay server truy nhập từ xa (RAS). Việc điều hàn